Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ có tác động cả tích cực lẫn tiêu cực
tới các quốc gia. Sự tác động của toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có lĩnh vực văn hóa. Quá trình giao lưu, hội nhập về văn hóa là cơ hội để các nước
học hỏi lẫn nhau. Mỗi quốc gia có ngôn ngữ và nền văn hóa riêng. Những giá trị
riêng này hình thành nên cái gọi là bản sắc văn hóa. Bản sắc văn hóa chính là cơ sở
để phân biệt quốc gia này với quốc gia khác.
Trong tiến trình đổi mới của đất nước, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp thu
những nét tích cực của văn hoá các dân tộc trên thế giới để làm phong phú thêm
cho nền văn hóa dân tộc. Quá trình giao lưu văn hóa ấy đã xuất hiện những yếu tố
tiêu cực có ảnh hưởng tới bản sắc văn hoá dân tộc ta. Đó chính là sự thay đổi
chuẩn mực, hành vi đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội….
Cốt lõi của văn hóa là bản sắc văn hóa dân tộc. Từ xưa đến nay bản sắc văn
hóa dân tộc làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng người Việt Nam vượt qua
biết bao sóng gió, thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua để không ngừng
phát triển và lớn mạnh. Đó là điểm tựa vững chắc để chúng ta đến với thế giới. Đó
chính là vốn quý của chúng ta. Vì thế, để bảo vệ cái quý báu ấy cũng như để không
đánh mất chính mình thì việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trở thành
một yêu cầu cấp bách. Đảng ta đã nhận thức được điểu đó và đã khẳng định: Mở
cửa, hội nhập là để vừa phát triển đất nước, vừa bảo tồn được bản sắc của dân tộc
mình và từng bước khẳng định vị thế, bản lĩnh của dân tộc trước cộng đồng quốc
tế. Bởi đây không chỉ là điều kiện để phát triển lành mạnh con người và xã hội mà
còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước.
1
Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, chúng ta không thể không
nhắc tới vai trò của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành
đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là lĩnh vực quan trọng để
xây dựng nền tảng chính trị, tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân thực hiện
nhiệm vụ của cách mạng. Vì thế, trong quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc, công tác tư tưởng đóng vai trị cực kỳ quan trọng. Trong những năm qua, việc
tăng cường công tác tư tưởng đối với lĩnh vực này đã được Đảng rất quan tâm. Và
trên thực tế, công tác tư tưởng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tích cực,
góp phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, công tác tư tưởng vẫn còn những hạn chế, thiếu sót, chưa thực sự phát
huy hết vai trò của mình trong lĩnh vực này.
Vì thế, nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng đối với việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc đang trở thành vấn đề cấp thiết. Đó cũng chính là lý
do mà tôi chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng trong việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
2. Tình hình nghiên cứu của tiểu luận:
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng đối với sự
nghiệp cách mạng, các nhà khoa học nước ta đã đi sâu nghiên cứu về công tác tư
tưởng .
Cuốn “Nguyên lí công tác tư tưởng” ( Lương Khắc Hiếu chủ biên, NXB
chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008) giới thiệu những vấn đề chung nhất của công tác
tư tưởng. Cuốn sách là tài liệu học tập cho sinh viên chuyên ngành công tác tư
tưởng và những người làm công tác tuyên giáo.
Tác giả Trần Trọng Tân trong tác phẩm “ Góp phần đổi mới công tác lí luận
– tư tưởng” , NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, cũng đã nghiên cứu một số
2
vấn đề về công tác lí luận – bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng trong tình
hình mới.
Cũng nghiên cứu về những vấn đề chung nhất của công tác tư tưởng, cuốn
“Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” của
tác giả Trần Thị Anh Đào, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, đã góp phần
nghiên cứu công tác tư tưởng trong điều kiện tiến hành công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước cũng như đưa ra một số giải pháp cơ bản tăng cường vai trò của công
tác tư tưởng để phù hợp với tình hình mới.
Đã có nhiều cuốn sách viết về công tác tư tưởng. Cũng đã có nhiều bài báo
khoa học về lĩnh vực này. Tuy nhiên, nhiều công trình chỉ nghiên cứu công tác tư
tưởng ở những vấn đề chung nhất hoặc chỉ nghiên cứu một bộ phận, khía cạnh của
công tác tư tưởng. Trong tiểu luận, người viết tiếp cận vấn đề giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa của dân tộc ta từ góc độ nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận:
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lí luận, thực tiễn về vai trò, vị trí của công tác tư tưởng với vấn
đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; từ đó nghiên cứu thực trạng, đề ra
phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng trong việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lí luận của đề tài
- Nghiên cứu thực trạng vai trò của công tác tư tưởng đối với giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng đối với vấn
đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
3
4. Cơ sở khoa học của đề tài
Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời kế thừa những nội dung hợp lí
của các công trình khoa học đã từng nghiên cứu vấn đề .
5. Phương pháp nghiên cứu của tiểu luận
Phương pháp nghiên cứu của tiểu luận chủ yếu là phương pháp logic và
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp nghiên cứu
tài liệu.
6. Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Công tác tư tưởng đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng công tác tư tưởng đối với việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta hiện nay.
4
Chương 1
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN
SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Công tác tư tưởng và vai trò của công tác tư tưởng đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng
1.1.1. Công tác tư tưởng
Trong lịch sử, tư tưởng xuất hiện từ khi xã hội loài người phân chia thành
giai cấp và theo đó xuất hiện tư tưởng. Công tác tư tưởng ra đời nhằm đáp ứng nhu
cầu hình thành, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, biến nó
thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống xã hội. Theo nghĩa rộng, công tác tư
tưởng được hiểu là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm
hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần
chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng
Cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời
sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
Theo nghĩa hẹp, công tác tư tưởng là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng và
đường lối, chính sách của Đảng trong quần chúng, động viên, cổ vũ quần chúng
tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Vai trò công tác tư tưởng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng
Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi công tác tư tưởng có tầm
quan trọng hàng đầu. Công tác tư tưởng đã trở thành một nhân tố quan trọng góp
phần làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như
5
những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta trong thế kỉ XX. Công tỏc tư tưởng là lĩnh
vực quan trọng để xây dựng nền tảng chính trị của chế độ. Ở chế độ ta, nền tảng tư
tưởng chính trị dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối chính sách của Đảng. Công tác tư tưởng vì thế đóng vai trị quan trọng trong
việc truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân vào xã hội, và từ thực tiễn đó
tổng kết, nâng lên thành lí luận.
Vai trị của công tác tư tưởng đã được Đảng ta chỉ rõ: “ công tác tư tưởng, lí
luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của
Đảng…thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc” ( Nghị quyết TW5, khó X ).
1.2. Bản sắc văn hoá dân tộc và giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc
1.2.1 Văn hoá
Văn hoá là một phạm trù rộng lớn, có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo
quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin thì khái niệm văn hóa được định nghĩa như
sau: “văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra trong thực tiễn xã hội- lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử
phát triển xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, người ta vẫn quen nói về văn hoá vật chất
và văn hóa tinh thần. Văn hoá là một hiện tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào
sự thay thế các hình thái kinh tế-xã hội”
Còn theo Hồ Chí Minh thì văn hoá là “Vỡ lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hoá”.
6
Qua hai định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy, văn hoá được nhìn nhận trên
những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, văn hoá là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra, được lưu truyền, tích luỹ trong lịch sử mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc cũng như
toàn nhân loại
Thứ hai, hoạt động của con người, yếu tố quyết định sự hình thành và phát
triển của văn hoá.
Thứ ba, văn hoá là thước đo trình độ phát triển và thể hiện những đặc tính
riêng của mỗi dân tộc.
Từ những định nghĩa và nội dung xem xét trên ta có thể đưa ra định nghĩa
văn hóa như sau : Văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng
tạo, tích luỹ trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các
giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống xã hội và liên tiếp
truyền lại cho thế hệ sau. Văn hoá thể hiên trình độ phát triển và những đặc tính
riêng mỗi dân tộc.
Văn hóa đóng vai trị quan trọng đối với sự phát triển. Văn hoá chính là yếu
tố then chốt trong chính sách phát triển một quốc gia, là nguồn gốc bắt rễ của sự
phát triển. Văn hoá là nền tảng để xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh,
đồng thời cũng là động lực của sự phát triển. Tổng giám đốc UNESCO, F. Mayo
đã từng nói : “Từ nay trở đi, văn hoá cần coi mình như một nguồn cổ xuý trực tiếp
cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ một vị trí trung
tâm, một vai trò điều tiết xã hội”.
1.2.2. Bản sắc văn hoá dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam
1.2.2.1 Bản sắc văn hoá dân tộc
“Bản sắc” là một từ Hán -Việt, “bản” nguyên nghĩa là cái gốc, “sắc” nguyên
nghĩa là màu sắc, sắc đẹp, “bản sắc” là màu gốc, sắc thái gốc, “bản sắc văn hoá” là
sắc thái gốc của một nền văn hóa. Tương đồng với cách dùng identité (thẻ căn
7
cước) của tiếng Pháp và nhiều ngôn ngữ Châu Âu trong cấu trúc identité culturelle
- thẻ căn cước văn hoá để chỉ cái riêng độc đáo của mỗi nền văn hoá, dấu ấn được
ghi lại từ cội nguồn văn hoá dân tộc.
Như vậy, có thể hiểu bản sắc văn hoá dân tộc là sắc thái gốc, là tấm chứng
minh thư, thẻ căn cước - những đường nét, màu sắc riêng biệt không thể trộn lẫn
của một nền văn hoá. Bản sắc dân tộc làm nên cái cốt lõi vững chắc giúp cho nền
văn hoá vừa giàu cá tính vừa đủ bản lĩnh để không ngừng tích tụ, biến đổi, phát
triển, sáng tạo thêm những giá trị mới, tìm kiếm những hình thức biểu hiện mới mà
vẫn giữ được tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển.
Bản sắc văn hóa dân tộc không phải là một biểu hiện văn hoá nhất thời mà nó
được hình thành dần dần cùng với quá trình hình thành và phát triển của dân tộc,
chịu sự quy định của hoàn cảnh lịch sử, điều kiện địa lí, phương thức sản xuất…
Một dân tộc càng có chiều sâu cội nguồn, bề dày lịch sử và ý thức cao về bản thân
mình càng có cơ hội bộc lộ cá tính riêng độc đáo của mình trong các sáng tạo văn
hoá. Bản sắc dân tộc như mạch nguồn thẩm thấu vào mọi giá trị văn hoá, xuyên
qua thời gian, làm nên mối liên hệ thiêng liêng, bền vững giữa các thế hệ, các giai
đoạn phát triển của một nền văn hoá.
1.2.2.2 Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam là dân tộc giàu bản sắc văn hoá. Bản sắc văn hoá của dân
tộc ta là kết tinh trí tuệ của ông cha ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Nó bao gồm
“các giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được
vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong lối sống…Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình
thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” ( nghị quyết TW 5, khó VIII).
8
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong tác phẩm “Xây dựng và phát triển văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” còn cho rằng bản sắc văn hoá của dân
tộc ta là “chủ nghĩa nhân bản được tích hợp từ những tư tưởng truyền thống và tư
tưởng hiện đại, là nền văn hoá mở trong không gian, trong thời gian và biến đổi
trong quá trình điều chỉnh xã hội, là nền văn hoá giàu sức chuyển hoá, giàu sự
tương phản đăng đối, là nền văn hoá giàu tính nhân dân, tính cộng đồng” .
Tất cả những yếu tố như trên đã hợp thành cái gọi là bản sắc văn hoá dân tộc
Việt Nam.
1.2.3. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
Bản sắc dân tộc chính là phẩm chất của một dân tộc trong tính riêng biệt, đặc
trưng của dân tộc đó, là cái để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Để làm được
điều đó cần phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc là quá trình bảo vệ, duy trì và phát triển các đặc trưng văn
hoá của dân tộc và ngăn chặn mọi biểu hiện làm mai một những giá trị đặc trưng
văn hoá ấy.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm những nội dung cụ thể
như: nghiên cứu, đánh giá những giá trị, những truyền thống văn hoá; tổ chức bảo
vệ, bảo quản những giá trị văn hoá; duy trì những hoạt động để phổ biến, truyền
bá, tổ chức những hoạt động giao lưu văn hoá; đấu tranh ngăn chặn những biêu
hiện suy thoái những loại hình văn hóa nghệ thuật cũng như những luồng văn hoá
tiêu cực…
1.3. Vai trò cuả công tác tư tưởng và sự cần thiết phải tăng cường vai
trò của công tác tư tưởng đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc ở nước ta giai đoạn hiện nay
1.3.1. Vai trò của công tác tư tưởng đối với việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc
9
Như đã nói ở trên, công tỏc tư tưởng là bộ phận quan trọng trong hoạt động
của Đảng. Trên thực tế, công tác tư tưởng đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự
thành công của sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt, đối với việc giữ gìn và phát huy
bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay thì càng phải nhắc đến vai trò của công
tác tư tưởng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nhận định: “ Trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm, gìn giữ và nâng cao
bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt
đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu
đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam, đấu tranh chống sự xân nhập của các loại văn hoá
độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lí
sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lí, coi thường các giá trị nhân văn”.
Để thực hiện được nhiệm vụ, đòi hỏi đó của Đảng, công tác tư tưởng đã tiến
hành sâu rộng trong cả nước và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Công tác tư
tưởng đã góp phần phát triển lí luận mà cụ thể đó là những đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước về văn hoá, về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đồng thời cũng chính công tác tư tưởng đã phổ biến những đường lối, chính sách
đó vào nhân dân, vào đời sống xã hội, tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực
trong phong trào quần chúng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức quần chúng
trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Công tác tư tưởng đã
thực sự đi sâu vào phong trào quần chúng, cổ vũ, động viên nhân dân ta thực hiện
các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng đối với
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở nước ta giai đoạn hiện nay
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát
triển, là linh hồn, sức sống của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong quá trình dựng nước
10
và giữ nước, văn hó Việt Nam là một thực thể, đồng thời cũng hun đúc nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam. Nhờ vậy nền văn hoá giàu bản sắc của nước ta
đã không bị mai một, đồng hoá.
Hơn 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bản sắc văn
hoá Việt Nam thật sự là vũ khí tinh thần sắc bén để giác ngộ, cổ vũ mọi tầng lớp
nhân dân tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa. Ngay từ năm 1943 khi chiến tranh thế
giới lần thứ 2 đang diễn ra ác liệt trên khắp thế giới, Đảng ta đã đưa ra đề cương
văn hoá với nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng. Không phải ngẫu nhiên mà
nguyên tắc dân tộc được đặt lên hàng đầu. Trong hoàn cảnh thời bấy giờ, dân tộc
hoá là vũ khí mầu nhiệm chống lại văn hoá nô dịch để bảo tồn và phát huy ngôn
ngữ dân tộc. Lối sống Mỹ, sức mạnh của đồng đôla đã không thể làm biến dạng tư
tưởng, tình cảm của người dân ở các đô thị, nông thôn vùng bị tạm chiếm.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng
mặt trận văn hoá mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hoá dân tộc. Hơn 70 năm qua
định hướng dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về
văn hoá, văn nghệ. Nghị quyết Trung ương 5 khó VIII của Đảng đã đánh dấu bước
phát triển mới về đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung
của sự nghiệp văn hoá nước ta là “ … xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho
văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người ”…Có
thể nói Nghị quyết Trung ương 5 là cuốn cẩm nang tinh thần của nhân dân ta bước
vào thế kỷ 21 nhằm làm cho văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước.
Trong đời sống quốc tế hiện nay, toàn cầu hoá sản sinh ra các giá trị hiện đại,
tạo cho sự phát triển của nền văn hoá, mặt khác nó cũng là thách thức đối với bản
sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Nhận diện cho được những phức tạp của toàn cầu hoá
trong những biểu hiện của nó thật không đơn giản. Nhà bình luận Friedman thừa
nhận “ … trong thời toàn cầu hoá, người ta không biết ai hiện nay là bạn, mai đã
11
nhanh chóng thành kẻ thù. Những cái bắt tay, những nụ cười sảng khoái, những vụ
chia tiền hào phóng có thể bất cứ vào lúc nào cũng dễ dàng biến thành sự mỉa
mai ”. Chính vì vậy, nhận thức đúng tình hình, chúng ta sẽ càng tự tin hơn trong
các hoạt động sáng tạo, cổ vũ và quảng bá cho các sản phẩm tinh thần chân chính,
góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong hoàn cảnh đó việc nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng đối với việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
12
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG ĐỐI VỚI VIỆC
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố tác động đến việc phát huy vai trò của công tác tư
tưởng đối với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở nước ta hiện nay
- Một là, công tác tư tưởng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc đang được tiến hành trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường đang có những tác động mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt đất nước ta. Sự phát
triển về kinh tế đã thúc đẩy sự phát triển các phương tiện, các thiết chế văn hoá
(phương tiện truyền thông đại chúng, bảo tàng, nhà văn hoá…) cũng như tạo ra
một môi trường xã hội dân chủ tạo điều kiện cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, kinh tế thị trưòng cũng có những tác động tiêu cực,
biểu hiện ở sự thay đổi về nhận thức các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, xu
hướng chạy theo đồng tiền dẫn đến những hành động “phản văn hoá dân tộc”…
- Hai là, quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế diễn ra mạnh mẽ, trực tiếp
là quá trình giao lưu văn hoá cũng ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò công tác tư
tưởng đối với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong quá trình giao
lưu văn hoá, song song tồn tại hai mặt, một là chúng ta đã tiếp thu được những tinh
hoa của văn hoá nhân loại, làm giàu thêm văn hoá của mình, hai là chính quá trình
đó đã du nhập thêm những luồng văn hoá phản tiến bộ, văn hoá ngoại lai. Điều này
đòi hỏi công tác tư tưởng phải thật sự sắc bén khi đưa ra những định hướng cho
văn hoá.
13
- Ba là, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng là nhân tố quan
trọng tác động đến việc phát huy vai trò của công tác tư tưởng đối với việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đảng ta ngay từ đầu đã coi trọng vai trò của
công tác tư tưởng, và trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã có sự lãnh đạo đúng
đắn, khoa học đối với công tác tư tưởng. Đảng ta đã đưa ra nhiều nghị quyết trung
ương, chỉ thị bàn về công tác tư tưởng. Đó là nghị quyết trung ương 7, khó VI về
“Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình quốc tế và trong
nước hiện nay”; các nghị quyết 01- BCT, 09- BTC ( Khó VII) về công tác tư
tưởng và văn hoá; Nghị quyết Trung ương 5, khó X về công tác tư tưởng, lí luận và
báo chí trước yêu cầu mới. Đảng đã có những định hướng đúng đắn cho công tác
tư tưởng, quan tâm đào tạo cán bộ công tác tư tưởng…Đây là những điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của công tác tư tưởng nói chung và công tỏc tư tưởng
đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc nói riêng.
- Bốn là, trình độ dân trí cao đã có những tác động tích cực đến việc nâng
cao vai trò của công tỏc tư tưởng đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc nói riêng. Trình độ dân trí cao là điều kiện nâng cao nhận thức của nhân
dân về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, từ đó hiệu quả tác động
của công tác tư tưởng sẽ được nâng cao.
2.2 Thành tựu, hạn chế của công tác tư tưởng trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
Công tác tư tưởng, trong những năm qua đó phát huy được vai trò của mình
trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và đã đạt được những thành
tựu đáng kể.
- Công tác lí luận - bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng đã góp phần
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận, hình thành nên chủ trương, đường lối, chính
14
sách của Đảng và Nhà nước về văn hoá nói riêng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc nói chung.
Như chúng ta đã biết, hơn 60 năm trước Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho ra
đời bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Ngay thời điểm đó, nó đã phát huy sức mạnh
to lớn, cổ vũ động viên tầng lớp văn nghệ sĩ cũng như toàn thể nhân dân xây dựng
nền văn hoá Việt Nam theo phương châm “dân tộc , khoa học, đại chúng”. Sau 60
năm, tình hình đất nước và thế giới đã có nhiều biến đổi. Kiến thức khoa học tiên
tiến được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống, văn hoá thâm nhập
vào cuộc sống đời thường. Có thể coi sự nghiệp đổi mới đất nước là một cuộc vận
động lớn về văn hoá, như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “ Nói một
cách hình tượng, đổi mới phải bắt nguồn và bắt rễ từ mảnh đất văn hoá, truyền
thống văn hoá dân tộc, tinh hoa văn hóa thời đại”. Nhận thức được điều đó, Đảng
ta đã xây dựng nghị quyết TW5 khó VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thể chế hóa quan điểm của Đảng,
Chính phủ đã ban hành các văn bản như: Quyết định số 124/2003/QĐ-TTg ngày
17/06/2003 của Thủ tướng Chính phủ về bảo tồn, phát huy các dân tộc thiểu số Tây
nguyên; chính sách mở cửa, đẩy mạnh giao lưu văn hoá…vv Thông qua đường
lối, chính sách này, công tác tư tưởng đã định hướng cho sự phát triển về văn hoá
cũng như tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Việc tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong xây dựng các chính sách về giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã khẳng định vai trò quan trọng của công
tác tư tưởng với Đảng, Nhà nước cũng như với sự nghiệp văn hoá.
- Công tác tư tưởng qua việc định hướng cho xã hội về phát triển văn hoá và
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc đã gián tiếp cũng như trực tiếp tác động đến đội
ngũ văn nghệ sĩ. Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn
cách mạng, có vốn sống, giàu lòng yêu nước, trước những biến động của thời cuộc
15
và những khó khăn của đời sống vẫn giữ được phẩm chất, kiên định quan điểm
sáng tác phục vụ nhân dân, làm sứ mệnh người nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhiều văn nghệ
sĩ tuy tuổi cao vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố gắng tìm tòi cái
mới. Nhờ vậy, đội ngũ này đã thể hiện được vai trò nòng cốt của mình trong việc
sáng tạo các giá trị văn hoá mới, thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá mới.
- Công tác tư tưởng đã phát huy vai trò của mình trong việc tuyên truyền bảo
vệ, gìn giữ các di sản văn hoá dân tộc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách
nhằm giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong bối cảnh các yếu tố văn hoá ngoại lai
xâm nhập ngày càng mạnh, có những dấu hiệu tiêu cực trong văn hoá. Di sản văn
hoá chính là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản săc văn
hoá dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Nó cũng
chính là bức thông điệp quý báu mà cha ông ta đã để lại cho con cháu. Công tác tư
tưởng trong những năm qua đó tuyên truyền, động viên, cổ vũ quần chúng tích cực
tham gia các hoạt động hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng
nhơ các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hoá….Những phong trào thiết thực
này đã góp phần gìn giữ những di sản văn hoá tinh thần quý báu : lòng yêu nước,
nhân ái, khoan dung, nuôi dưỡng tinh thần, sức sống dẻo dai của người Việt.
Một bộ phận quan trọng khác là các bảo tàng đã có bước phát triển đáng kể,
hiệu quả. Nước ta hiện nay có khoảng 117 bảo tàng với gần 3000 cán bộ, nhân
viên. Hoạt động của các bảo tàng này đã góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
- Công tác tư tưởng đã có những đóng góp trong việc giữ gìn bản sắc văn
hoá các dân tộc thiểu số.Nước ta có 54 dân tộc, mỗi dân tộc đều có những nét bản
sắc riêng của mình hồ chung vào bản sắc dân tộc Việt Nam. Việc gìn giữ bản sắc
của mỗi dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng. Trong những năm qua, công tác tư
16
tưởng đã phối hợp cùng ngành văn hoá thông tin chú trọng, sưu tầm được những
sản phẩm văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số. Ví dụ như các bộ sử thi của
người M’nông, sử thi Êđê…; 3825 bộ cồng chiêng với 25488 cái ở Đắc Lắc…
Công tác tư tưởng đã khơi dậy được lòng nhiệt tình, không khí sôi nổi, sáng tạo
của quần chúng thông qua hoạt động văn hóa. Các cuộc giao lưu, liên hoan văn
hóa, văn nghệ các dân tộc, các lễ hội cộng đồng đã được khôi phục và phát triển.
Đặc biệt, theo quyết định 1668/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ thì “ngày
văn hoá các dân tộc Việt Nam” đã được tổ chức hàng năm ( vào ngày 19/4), theo
tinh thần “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Xê Đăng
hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em
ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói có nhau”. Công
tác tư tưởng đã cùng với các ban ngành có liên quan tiến hành công tác chuẩn bị
cũng như sử dụng các hình thức tuyên truyền, cổ động cho ngày hội lớn này. Sự
kiện này đã tôn vinh bản sắc văn hoá Việt Nam, giáo dục truyền thống yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân. Đây là một sự kiện mang ý nghĩa chính trị, văn hoá, xã hội rất sâu sắc.
- Công tác tư tưởng đã tích cực tuyên truyền về những nét tiến bộ của những
nền văn hóa nhân loại, góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá Việt Nam. Ngay
từ buổi đầu, ông cha ta đã biết tiếp thu những tinh hoa của văn hóa Trung Quốc,
văn hoá Ấn Độ…để làm phong phú thêm bản sắc của mình. Đảng ta cũng đã xác
định duy trì bản sắc văn hoá không có nghĩa là đóng cửa lại mà phải thích ứng với
sự thay đổi, phải biết tiếp thu, kế thừa những yếu tố tích cực trong văn hoá nhân
loại để làm mình mạnh lên, tạo nên được mọi sản phẩm người ta dựng để lôi cuốn
mình trong khi giữ vững được những yếu tố tạo thành cái tốt đẹp của văn hoá
mình. Trên thực tế, chúng ta đã tiếp thu có chọn lọc những nét tích cực của văn hoá
nhân loại, tạo nên một nền văn hoá kết hợp hài hồ giữa truyền thống và hiện đại,
17
dân tộc và quốc tế. Chiếc áo dài truyền thống có những nét cách tân trong hoa văn
trang trí, kiểu dáng. Nhiều bài hát lấy chất liệu từ dân gian nhưng lại được phối
theo những thể loại nhạc hiện đại: pop, Rock, Hiphop…tạo nên sự hấp dẫn cho
người nghe. Bên cạnh những phong tục đẹp của ngày Tết hay những lễ hội truyền
thống, người Việt Nam vẫn nô nức tham gia những sinh hoạt văn hoá vốn của
phương Tây như Noel, ngày lễ tình yêu Valentine, lễ hội hoá trang…và hưởng ứng
nhiệt tình các tuần văn hoá các dân tộc khác trên thế giới được tổ chức tại Việt
Nam. Có thể nói hội nhập nhưng không hòa tan- thành công bước đầu đó đã một
lần nữa khẳng định vai trò to lớn của công tác tư tưởng trong việc giáo dục, tuyên
truyền giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững bản lĩnh dân tộc trước thềm hội
nhập.
- Công tác tư tưởng đối với cuộc đấu tranh chống tư tưởng phản động của
các thế lực thù địch. Trong quá trình giao lưu văn hoá không thể tránh khỏi việc du
nhập cả những yếu tố tiêu cực. Đặc biệt, lợi dụng chính sách mở cửa, giao lưu văn
hoá của Đảng và Nhà nước ta, các thế lực thù địch đã tuyên truyền cho những
luồng văn hoá phản động nhằm lôi kéo, thay đổi quan điểm của giới trẻ, thực hiện
âm mưu “diễn biến hồ bình”. Nhận thức được âm mưu đó của kẻ thù cũng như
những tác hại của nó trên thực tiễn, công tác tư tưởng đã tiến hành cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng- văn hoá để bảo vệ nền tảng tư tưởng và nền văn hoá của đất
nước. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn và vô cùng phức tạp bởi đây là
mặt trận “không có khói súng”. Cùng với việc tuyên truyền tác hại của những
luồng văn hoá độc hại, công tác tư tưởng cũng đã tích cực giáo dục, nâng cao nhận
thức của nhân dân, đặc biệt là giới trẻ, hình thành niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và khả năng “miễn dịch” trước các luồng văn hoá đó. Thấm nhuần lời dạy
của Bác “ chúng ta phải đánh thắng địch về tuyên truyền cũng như bộ đội ta đánh
18
thắng địch về mặt quân sự”, công tác tư tưởng đã tiến hành đấu tranh giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc.
Cùng với cuộc đấu tranh đó, công tác tư tưởng cũng tưởng đã góp phần phát
hiện và xử lí lịp thời những biểu hiện xuống cấp cũng như các sai phạm về văn hóa
trong đời sống xã hội, tạo điều kiện giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Trên đây là một số thành tựu mà công tác tư tưởng đã đạt được trong việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Những thành tựu trên đã không chỉ
góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mà một
lẫn nữa khẳng định vai trò của công tác tư tưởng trên lĩnh vực này. Có được những
thành tựu trên là do các nguyên nhân sau :
- Trước hết đó chính là nhờ sự lãnh đạo, quan tâm của Đảng đối với công tác
tư tưởng cũng như với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Nhận thức được tầm
quan trọng của bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kì mở cửa, hội nhập, Đảng ta đã
rất chú trọng đến nhiệm vụ này. Công tác tư tưởng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà
Đảng ta giao phó.
- Đạt được những thành tựu trên cũng chính là nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng,
toàn dân. Công tác tư tưởng đã khơi dậy và phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của
nhân dân trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tạo ra một phong
trào rầm rộ trên cả nước, huy động mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưỏng có năng lực, phẩm chất chính là
nhân tố trực tiếp đem lại những thành tựu kể trên
2.2.2.Hạn chế và nguyên nhân
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác tư tưởng vẫn chưa
phát huy hết vai trò, năng lực của mình trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, biểu hiện ở một số điểm sau:
19
- Công tác tư tưởng vẫn chưa được tiến hành đồng bộ mà chỉ tập trung ở một
số địa phương, một số khía cạnh của bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt, công tác tư
tưỏng chưa thật sự tập trung vào đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số. Giữ gìn văn
hoá dân tộc thiểu số là bộ phận quan trọng của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, tuy nhiên chưa đạt được hiệu quả cao vì công tác tư tưởng còn gặp khó
khăn về ngôn ngữ, phương tiện. Do vậy, việc tuyên truyền tầm quan trọng của việc
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho đồng bào còn hạn chế.
- Đội ngũ cán bộ công tác tư tưởng tuy đã có sự phát triển về số lượng, chất
lượng nhưng trên thực tế đội ngũ này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của công tác
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Biểu hiện ở một số cán bộ công tác tư
tưởng thiếu năng lực, chưa nhiệt tình với công việc, gây ảnh hưởg đến hiệu quả
công việc.
- Phương tiện công tác tư tưởng chưa đáp ứng được nhu cầu, một trong số đó
là sự thiếu hiệu quả của hoạt động tuyên truyền viên và truyền thông đại chúng,
đặc biệt ở những vùng đồng bào dân tộc nên việc tuyên truyền giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc còn gặp nhiều hạn chế.
- Một hạn chế nữa của công tác tư tưởng đó là chưa phát huy được sức mạnh
tổng hợp của các ngành, các địa phương, các cấp uỷ, chính quyền và nhân dân
trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc nên việc triển khai các hoạt
động chưa đạt hiệu quả tốt nhất.
- Công tác lí luận chưa thực sự kịp thời, nhanh nhạy trong việc tổng kết thực
tiễn, phát triển lí luận, bổ sung vào đường lối của Đảng về việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc, cũng như chưa thực sự sắc bén trong cuộc đấu tranh
chống các biểu hiện suy giảm, sai phạm, các luồng văn hoá tư tưởng “phản dân
tộc”.
20
Công tác tư tưởng đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
còn gặp phải một số hạn chế như trên là do những nguyên nhân sau:
- Quá trình toàn cầu hoá, hội nhập và cơ chế thị trường diễn ra với tốc độ
nhanh. Bân cạnh những tác động tích cực cũng đã bộc lộ những mặt trái, ảnh
hưởng tiêu cực đến ý thức, tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta.
- Sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng, trong
đó có nhiều hoạt động nhằm làm mờ nhạt bản sắc dân tộc ta cũng là nguyên nhân
gây ra những khó khăn nhất định.
- Vai trị của công tác tư tưởng được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên,
vai trò của công tác tư tưởng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc thì được chỉ đạo, quan tâm chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
- Chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội lực của nhân dân, chưa tạo
được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham gia vào công tác giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc.
- Các cấp uỷ chính quyền địa phương chưa có sự chỉ đạo toàn diện với công
tác tư tưởng đối với công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
2.3 Những vấn đề đặt ra
Để khắc phục những hạn chế, tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc cũng như tăng cường công tác tư tưởng đối với giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong
điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, cần
phải thực hiện những yêu cầu cơ bản sau:
- Công tác tư tưởng cần tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được đối
với công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời nhận thức rõ
hạn chế và tìm cách khắc phục kịp thời để thực hiện có hiệu quả vai trò của mình.
21
- Cần phát huy hơn nữa vai trò của các ngành, địa phương, quần chúng nhân
dân trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt là vai trò của
nhân dân
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng để tạo
điều kiện công tác tư tưởng phát huy hết vai trò của mình.
- Cần tạo ra môi trường dân chủ, lành mạnh, phát triển công tác xã hội hoá
văn hoá để có thể phát huy một cách tối đa những nguồn lực vào việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
22
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
TRONG VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ
DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Qua việc nghiên cứu thực trạng trên ta có thể thấy công tác tư tưởng đóng
vai trị quan trọng đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở nước
ta hiện nay. Trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò công tác tư tưởng
chúng ta cần thực hiện đồng bộ những giải pháp sau:
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác tư tưởng
Bảo đảm và khụng ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là quy luật
khách quan, là điều kiện tiân quyết dẫn đến thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng
nước ta, nhu cầu tất yếu trong tiến trình đi tới tương lai xó hội chủ nghĩa của dân
tộc, là nguyện vọng cháy bỏng của nhõn dân Việt Nam, phù hợp với xu thế phát
triển khách quan của nhõn loại tiến bộ. Công tác tư tưởng là bộ phận quan trọng
của Đảng. Do vậy công tác tư tưởng không thể đặt ngồi sự lãnh đạo của Đảng.
Trong điều kiện hiện nay việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng càng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Sự lãnh đạo của Đảng phải căn cứ nhiệm vụ từng lĩnh vực cụ
thể mà có sự chỉ đạo công tác tư tưởng với nội dung, hình thức, phưong pháp,
phương tiện thích hợp để từ đó công tác tư tưởng có sự định hướng đối với xã hội
nói chung và với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc nói riêng. Để
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng cần tập trung giải
quyết các vấn đề then chốt sau:
-Thứ nhất, trong bất cứ tình huống nào cũng phải kiên định và đứng vững
trên lập trường chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
23
- Thứ hai, cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng.
- Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viân trong sạch, cú đủ đức và tài,
đặc biệt cần xây dựng tinh thần cách mạng tiến công, bám sát thực tiễn cuộc sống,
nâng cao năng lực nghiên cứu, tham mưu và tính chiến đấu cao của đội ngũ những
người làm công tác tư tưởng - văn hóa của Ðảng
- Thứ tư, thực hiện nghiâm túc nguyân tắc tập trung dân chủ trong Đảng trờn
cơ sở nõng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức chấp hành kỉ luật của cán bộ, đảng
viân, đẩy mạnh phờ bình, tự phờ bình và cụng cuộc chỉnh đốn Đảng.
3.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng
Cán bộ chính là những người quyết định trực tiếp đến hiệu quả của công tác
tư tưởng. Ở nước ta hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng vẫn còn yếu và
thiếu. Vì vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của công tác tư tưởng thì nâng cao trình
độ, chất lượng, số lượng đội ngũ cán bộ là giải pháp cần thiết. Cần đẩy mạnh công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về tri thức, phẩm chất đạo đức cách mạng cũng như
cần có chính sách đãi ngộ hợp lí để cán bộ làm công tác tư tưởng đủ điều kiện tập
trung công việc. Đặc biệt, để phát huy vai trò của công tác tư tưởng đối với việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cần tập trung bồi dưỡng để nâng cao
trình độ, kiến thức của cán bộ công tác tư tưởng. Một yếu tố nữa là phải có chính
sách phân bổ hợp lí cán bộ theo từng địa phương, địa bàn cũng như theo trình độ
của từng người.
3.3 Đổi mới hình thức, phương tiện, phương pháp tiến hành công tác tư
tưởng
Trong điều kiện hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước đã và đang đặt ra
những yêu cầu mới đối với công tác tư tưởng. Sự thay đổi to lớn này đã đặt ra
24
nhiều nội dung mới cho công tác tư tưởng. Bởi vậy để phù hợp với sự đổi mới của
thực tiễn và nội dung, công tỏc tư tưởng buộc phải có những đổi mới về hình thức,
phương pháp, phương tiện.
Đối với hình thức cần có sự đổi mới toàn diện. Trong đó, công tác lí luận
cần đi sâu, bám sát thực tiễn, giải quyết những vấn đề đang đặt ra, tiến hành đấu
tranh chống lại những luồng tư tưởng, văn hoá phản dân tộc, phản tiến bộ. Công
tác tuyên truyền, cổ động cần tích cực đổi mới, sử dụng có hiệu quả các phương
tiện, phưong pháp, chú trọng phương pháp đối thoại, nêu gưong .
Đối với phương pháp, cần nắm rõ các ưu thế, hạn chế của từng phương pháp
và căn cứ vào từng đối tượng cụ thể, trong từng trường hợp, điều kiện cụ thể để lựa
chọn phương pháp phù hợp.
Đối với phương tiện, cần chú trọng đến việc củng cố, xây dựng, phát triển,
từng bước hiện đại hoá thông tin đại chúng. Cụ thể cần sắp xếp lại và quy hoạch
hợp lí hệ thống truyền hình, phát thanh, thông tin, báo chí…nhằm mang lại hiệu
quả, tránh lãng phí, phối hợp hoạt động của từng loại hình này với các lĩnh vực văn
hoá nghệ thuật; nâng cao chất lượng tư tưởng văn hoá, khắc phục xu hướng thương
mại hóa; chăm lo định hướng chính trị tư tưởng – văn hóa…
3.4 Nâng cao nhận thức của nhân dân về vai trò của công tác tư tưởng
cũng như vai trò công tác tư tưởng đối với giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc
Để phát huy vai trò của công tác tư tưởng thì việc nâng cao nhận thức của
nhân dân về vai trò của công tác tư tưởng là một điều cần thiết. Điều này xuất phát
từ thực trạng một bộ phận nhân dân chưa có sự nhận thức đúng đắn về công tác tư
tưởng, về các nhiệm vụ của Đảng, về việc thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Do vậy, điều quan trọng là phải có những biện pháp để nâng
25