Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận chính sách người khuyết tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.65 KB, 19 trang )

1

I.

Đặt vấn đề
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể

hoặc một hay nhiều chức năng nào đó của bộ phận cơ thể bị suy giảm. Do
khuyết tật nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao
động và tham gia hoạt động xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với
người khuyết tật là nghĩa vụ của gia đình, xã hội và nhà nước. Là mắt xích quan
trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo của dân tộc,
người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam là một nước đang phát triển, chịu ảnh hưởng nặng nề sau chiến
tranh, cùng với sự tác động của ô nhiễm môi trường, của tai nạn giao thông, tai
nạn lao động, thiên tai, dịch bệnh, người khuyết tật hiện nay sẽ ngày càng tăng
lên. Đồng Nai là tỉnh cũng chịu ảnh hưởng nhiều từ những tác động trên. Thời
gian qua tỉnh Đồng Nai đã quan tâm, tạo điều kiện cho người khuyết tật, có
được sống cuộc sống "tàn nhưng không phế", thụ hưởng các chế độ ưu đãi cả vật
chất lẫn tinh thần theo Nghị định 67/2007 và Nghị định 13/2010 của Chính phủ.
Toàn tỉnh đã thực hiện trợ cấp thường xuyên cho trên 3000 người khuyết
tật nặng. Hiện nay, người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các cơ hội
tiếp cận các hoạt động, dịch vụ nhằm nâng cao năng lực, tạo thuận lợi cho việc
hội nhập đời sống của cộng đồng. Bản thân người khuyết tật không thể hội nhập
vào cuộc sống cộng đồng nếu đó chỉ là sự nỗ lực của bản thân mà còn cần được
sự quan tâm chia sẻ, tạo thuận lợi từ gia đình, cộng đồng và xã hội. Chính sách
của nhà nước đóng vai trò như là cầu nối để người khuyết tật để họ có thể dễ
dàng hoà nhập với cộng đồng và xã hội từ đó phát huy được khả năng của mình.
Chính vì những lý do đó để làm rõ “chính sách giải quyết học nghề và việc
làm cho người khuyết tật" là rất cần thiết.


Tiểu luận được thực hiện bằng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
để xử lý tài liệu thu thập, so sánh và minh hoạ bằng biểu đồ, sơ đồ, tham khảo
tài liệu có liên quan đến người khuyết tật tại tỉnh Đồng Nai như kế hoạch trợ
giúp người khuyết tật của UBND tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013-2015, các báo


2

cáo của Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội, các hoạt động với các tổ chức
nước ngoài nhằm hỗ trợ việc làm và an sinh xã hội cho người khuyết tật.
II. Nội dung
II.1. Khái niệm, nội dung chính sách
II.1.1. Khái niệm người khuyết tật

Theo DDA (Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật) thì:
Người khuyết tật (tiếng Anh: People with disability) là người có một hoặc nhiều
khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và
lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày.
Theo Pháp lệnh về người khuyết tật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam định nghĩa người khuyết tật như sau: “Không phân biệt nguồn gốc gây
ra khuyết tật, người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận
cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng khuyết tật khác nhau, làm suy
giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó
khăn”.
II.1.2. Khái niệm về việc làm

Ở Việt Nam, khái niệm việc làm đã được quy định tại Điều 13 của Bộ luật
lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
II.1.3. Khái niệm về chính sách


Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng các mục tiêu, các
giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực
lượng lao động đó, nói cách khác chính sách việc làm là thể chế hóa pháp luật
của Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm,
phương pháp mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động.


3

II.1.4. Nội dung chính sách dạy nghề và việc làm
II.1.4.1. Dạy nghề đối với người khuyết tật

Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí,
lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác.
Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận nghề
đào tạo khi người khuyết tật học hết chương trình đào tạo và đủ điều kiện theo
quy định của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề.
Cơ sở dạy nghề tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật phải bảo đảm điều
kiện dạy nghề cho người khuyết tật và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy
định của pháp luật.
Người khuyết tật học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được
hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
II.1.4.2. Việc làm đối với người khuyết tật

Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động,
được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và
đặc điểm của người khuyết tật.
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng
người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu

chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của
người khuyết tật.
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người
khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện
và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật.


4

Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người
khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao
động là người khuyết tật.
Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và
giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.
Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người
khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh, được hướng
dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm theo quy định
của Chính phủ.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là
người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho
người khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi
suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất,
mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ
sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật
của người lao động và quy mô doanh nghiệp.
Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người
khuyết tật vào làm việc. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết
tật được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định.
Chính phủ quy định chi tiết chính sách khuyến khích cơ quan, tổ chức và
doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc quy định.

II.2. Thực trạng dạy nghề, việc làm của người khuyết tật ở tỉnh Đồng Nai

Thực trạng
Theo báo cáo kết quả điều tra, rà soát NKT, TEKT năm 2013 tại cộng
II.2.1.

đồng dân cư và tại các Trung tâm, các cơ sở BTXH của sở LĐTBXH tỉnh Đồng
Nai, toàn tỉnh có 23.235 người khuyết tật, chiếm 0,93% dân số toàn tỉnh (Nam
Số Lượng Người Khuyết Tật
13.846, Nữ 9.389).
biểu đồ 1
Chia theo độ tuổi: Từ 0 đến dưới 16 tuổi có 2.460 người; từ 16 đến dưới
60 tuổi có 15.471 người; trên 60 tuổi có 5.296 người, trong đó có 4.746 người


5

khuyết tật đặc biệt nặng, 18.489 người khuyết tật nặng và tương đối nặng, bao
gồm các dạng tật như sau:
biểu đồ 2
Từ 16 tuổi đến dưới đến 60 có tổng số 15.259 người trong độ tuổi lao
động (Nam 9.282, Nữ 5.977),
Biểu đồ 3
Nhu cầu và nguyện vọng được chăm sóc sức khỏe; phục hồi chức năng
3.070 người; học văn hóa 207 người; học nghề 587 người; tìm việc làm 942
người; trợ cấp BTXH 4.834 người và nguyện vọng khác 822 người (Vay vốn
SXKD, hỗ trợ tư vấn việc làm, hòa nhập cộng đồng...)
Về học nghề: Thực hiện Đề án số 1956 của Chính phủ, Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai đã triển khai công tác đào tạo nghề cho
trên địa bàn tỉnh, ngoài ra còn được hỗ trợ tiền ăn và tiền xe đi lại. Nghề học của

người khuyết tật chủ yếu là may công nghiệp, pha chế thức uống, massage, vi
tính, đan mây tre, làm tranh gạo, in lụa và tự kinh tại nhà.
Về việc làm: Trong những năm qua, Sở Lao động – Thương binh và Xã
hội đã giới thiệu vào các công ty làm việc cho trên 1200 người khuyết tật, nhiều
nhất là các công ty may giầy da xuất khẩu.
II.2.2.

Nguyên nhân
II.2.2.1. Trình độ văn hóa

Nhìn chung trình độ học vấn của người khuyết tật rất thấp. Xét theo giới
tính thì người khuyết tật là nam giới có trình độ học vấn cao hơn so với người
khuyết tật là nữ giới và ở các cấp học cao hơn thì khoảng cách chênh lệch về
trình độ văn hoá giữa nam giới và nữ giới càng lớn, ở cấp Phổ thông trung học,
tỷ lệ nam giới đạt được trình độ này cao hơn gần 3 lần so với nữ giới.
Xét theo dạng khuyết tật: tỷ lệ chưa biết chữ cao nhất đối với dạng
khuyết tật về nhận thức. Trong các nhóm dạng tật thì nhóm dạng tật vận động có
trình độ văn hoá cao nhất. Như vậy rõ ràng giữa các nhóm dạng tật khác nhau
thì khả năng học tập có sự khác biệt, do vậy chính sách hỗ trợ cũng cần lưu ý sự
khác biệt này.

Trình độ học vấn của người khuyết tật rất thấp và không có


6

xu hướng cải thiện trong tương lai nếu như không có các biện pháp hỗ trợ tích
cực từ phía gia đình và cộng đồng xã hội.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Phần lớn người khuyết tật chưa qua đào tạo nghề. Về tương lai tình trạng

II.2.2.2.

không qua đào tạo nghề của người khuyết tật cũng khó có thể được cải thiện khi
mà nhu cầu học nghề của người khuyết tật cũng rất thấp.
Đa số người khuyết tật rơi vào vào các gia đình có điều kiện kinh tế khó
khăn, không có phương tiện đi lại, không có người đưa đón, đặc biệt là nhóm
người khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa lại càng khó khăn hơn, do đó việc học văn
hóa, học nghề hoặc tham gia các hoạt động khác hòa nhập khác là không thực
hiện được.
Việc tuyên truyền đường lối, chính sách pháp luật trực tiếp cho nhóm
người khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa không thực hiện được do họ không ở tập
trung, truyền thông gián tiếp qua hệ thống đài phát phát thanh ở khu vực này rất
hạn chế, nên họ thường thiếu thông tin về đường lối, chính sách, pháp luật đối
với người khuyết tật.
Người khuyết tật thường tự ty, mặc cảm, ít tiếp xúc với cộng đồng xã hội,
đây là rào cản lớn nhất đối với người khuyết tật, nếu họ không được trợ giúp về
pháp lý thì không xóa bỏ được rào cản này để tạo điều kiện cho họ hòa nhập với
cộng đồng.
II.3. Sự tiếp cận chính sách của Người khuyết tật

Đã triển khai thực hiện tốt công tác trợ giúp đối với người khuyết tật, như:
Trợ giúp xã hội, học nghề, giải quyết việc làm…
Thông qua các hệ thống truyền thông trực tiếp và gián tiếp, nên người
khuyết tật đã hiểu biết về chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước và đã xóa
được tự ty, mặc cảm để hòa nhập với cộng đồng xã hội;
Chính sách trợ giúp học nghề hỗ trợ vốn không hoàn lại và vốn vay thông
qua Ngân hàng chính sách Xã hội đã giúp cho người khuyết tật kinh doanh


7


thành đạt, có thu nhập, ổn định cuộc sống, không lệ thuộc vào gia đình và xã
hội.
Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm đã giúp cho người khuyết tật
có thu nhập cao, xóa bỏ được tự ty, mặc cảm và tuyệt đối tin tưởng vào đường
lối chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước, những tấm gương lao động
sáng tạo, điển hình của người khuyết tật ngày càng đông.
Từ tháng 3-2014, tỉnh đã thành lập Ban Vận động các doanh nghiệp tiếp
nhận người lao động khuyết tật vào làm việc. Đến nay, ngày càng có nhiều
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhận lao động
khuyết tật vào làm việc.
Theo như báo “Người Lao Động” của tỉnh Đồng Nai những người khuyết
tật đã được tạo cơ hội việc làm ổn định như Chị Bùi Thị Thanh Thủy, công nhân
Công ty Changshin Việt Nam bộc bạch: “Năm 17 tuổi, tôi bị mất cánh tay phải
sau một tai nạn giao thông. Tôi rất lo với hoàn cảnh của mình sẽ khó tìm được
việc làm, nhưng thấy nhiều doanh nghiệp ở Đồng Nai vẫn tiếp nhận lao động
khuyết tật nên tôi tập làm việc bằng cánh tay còn lại. Năm 2008, tôi được Công
ty Chang Shin nhận vào làm việc. Hiện tôi làm công nhân ở đây đã được 7 năm,
thu nhập mỗi tháng gần 7 triệu đồng. Tôi nghĩ, người khuyết tật còn sức lao
động đều muốn làm việc, vấn đề là cộng đồng cần tạo cho chúng tôi cơ hội được
thử sức”.
Cũng như chị Thủy, chị Trần Thị Trinh, công nhân Công ty TNHH Unipax
(KCN Amata) cũng khát khao được làm việc để tự nuôi sống bản thân. Chị cùng
chồng là Lâm Văn Tâm cũng là người khuyết tật đã có 5 năm làm công nhân với
thu nhập ổn định. Vượt qua sự tự ti với đôi chân bại liệt, anh chị vẫn siêng năng,
chịu khó học hỏi. Mỗi ngày vào xưởng chị đều được người hỗ trợ đẩy xe lăn,
được về trước so với thời gian quy định và trả lương xứng đáng.
Những năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp FDI bắt đầu quan tâm và nỗ
lực tạo việc làm cho lao động khuyết tật. Đến thời điểm này, đã có hàng chục
doanh nghiệp tiếp nhận người khuyết tật vào làm việc. Điển hình như Công ty

Changshin Việt Nam (100% vốn đầu tư của Hàn Quốc, đóng tại KCN Thạnh


8

Phú, huyện Vĩnh Cửu) sử dụng 335 lao động khuyết tật, Công ty Sanlim
Furniture Việt Nam (KCN Bàu Xéo, huyện Trảng Bom) có 36 người khuyết tật
đang làm việc. Ngoài ra, Công ty Taekwang Vina (KCN Biên Hòa 2), Công ty
Pousung Việt Nam (Khu công nghiệp Bàu Xéo), Công ty TNHH Watabase
Weeding (KCN Biên Hòa 2)… cũng đang sử dụng nhiều lao động khuyết tật.
Theo Sở LĐ-TBXH, đến thời điểm này, các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai đã tiếp nhận hơn 1.600 lao động khuyết tật vào làm việc với mức
lương từ 3,5 triệu đồng/tháng đến trên 6 triệu đồng/tháng. Trong số này, doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sử dụng hơn 1.200 lao động
khuyết tật.
Tại Công ty Sanlim Furniture Việt Nam, từ năm 2009, doanh nghiệp bắt
đầu tuyển dụng lao động khuyết tật, đến thời điểm này, doanh nghiệp đã tiếp
nhận gần 40 người khuyết tật (các dạng tật như khiếm thính, bị cụt chân, cụt
tay…) vào làm việc với thu nhập từ 4,8 đến 6,3 triệu đồng/tháng.
Thời gian qua, công ty đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho lao động
khuyết tật như cho phép lao động khuyết tật được xuống ca trước 20 phút để ăn
cơm, đi về. Giờ bắt đầu làm việc của người khuyết tật cũng trễ hơn so với người
thường.

Thuyết phục doanh nghiệp nhận người khuyết tật đa số người

khuyết tật luôn cố gắng, chăm chỉ làm việc, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy
nhiên, vẫn có một số ít lao động dù đã được công ty nhận vào làm nhưng do tâm
lý mặc cảm, một số người được gia đình quá bảo bọc, khiến họ chán nản, thiếu
động lực lao động, tự ý xin nghỉ việc.

Về góc độ doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp FDI đã đề ra chính sách
riêng nhằm hỗ trợ, phát huy năng lực làm việc của người khuyết tật. Song vẫn
còn một số doanh nghiệp chưa nắm được thông tin về chính sách pháp luật liên
quan đến lao động khuyết tật. Doanh nghiệp băn khoăn về giải pháp an toàn lao
động, chống cháy nổ khi tuyển người khuyết tật vào làm việc. Trước tình hình
đó, từ tháng 3-2014, tỉnh đã thành lập Ban Vận động các doanh nghiệp tiếp nhận
người lao động khuyết tật vào làm việc. Sau 8 tháng hoạt động, Ban đã tổ chức
tuyên truyền chính sách pháp luật và chủ trương của Nhà nước về công tác hỗ
trợ người khuyết tật. Tổ chức gặp gỡ gần 40 doanh nghiệp tại Đồng Nai để vận


9

động các công ty tiếp nhận người khuyết tật vào làm việc. Trong số các doanh
nghiệp mà Ban Vận động đến làm việc, có gần 20 doanh nghiệp đang sử dụng
lao động khuyết tật. Các doanh nghiệp còn lại sau khi được tuyên truyền đã
tuyển dụng 32 lao động vào làm việc.
Để hỗ trợ người khuyết tật có khả năng lao động được làm việc lâu dài,
thời gian tới, Ban Vận động sẽ tăng cường gặp gỡ, khuyến khích doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp FDI để tăng cường thuyết phục tiếp nhận lao động
khuyết tật. Đồng thời, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề song song với việc hỗ
trợ, giới thiệu người khuyết tật vào làm việc tại các công ty.
II.4. Nguồn lực tại tỉnh Đồng Nai trong việc triển khai chính sách
II.4.1. Nguồn lực tài chính

Theo kế hoạch số 997/KH-UBND ngày 20 tháng 11 năm 2013 của tỉnh
Đồng Nai, kinh phí huy động để thực hiện kế hoạch trợ giúp người khuyết tật
của tỉnh giai đoạn 2013 - 2015 dự kiến là 56.620 triệu đồng, trong đó: Ngân sách
của Nhà nước 30.720 triệu đồng, (Trung ương: 1.500 triệu đồng để thực hiện
công tác tuyên truyền, xây dựng mô hình; ngân sách của tỉnh là 22.900 triệu

đồng (để thực hiện chính sách BTXH là 21.000 triệu đồng; tổ chức các hội nghị
sơ tổng kết, thi đua khen thưởng, đi hướng dẫn, kiểm tra giám sát là 1.500 triệu
đồng; ngân sách của huyện 3.300 triệu đồng (100 triệu/1 huyện/1 năm); ngân
sách của xã là 3.420 triệu đồng (20 triệu đồng/xã /năm); huy động các tổ chức
Quốc tế, các tổ chức phi chính phủ: 15.000 triệu đồng; các tổ chức từ thiện xã
hội và của các Hội: Chữ thập đỏ, Hội Nạn nhân chất độc da cam, Hội hỗ trợ
NKT vươn lên, Quỹ BTTE… là: 9.000 triệu đồng; 500 gia đình NKT được hỗ
trợ sinh kế sản xuất kinh doanh là 500 triệu đồng (1 triệu đồng/hộ/3 năm); hàng,
quà, hiện vật quy tiền là 1.000 triệu đồng (kèm theo phụ lục dự toán kinh phí).
Nguồn ngân sách nhà nước, đơn vị tính: Triệu đồng
TT

Hoạt động

Kinh

2013 - 2015
2013
2014
2015


10

phí nhà
1

Công tác tổ chức và cơ chế,

2


nghiên cứu ban hành chính sách
Khảo sát, bổ sung NKT nhẹ;

nước
500

100

150

250

400

100

200

100

2.100

500

800

800

nghề, việc làm và chính sách


27.720

9.400

9.100

9.220

BTXH, an sinh xã hội
Tổng cộng

30.720

10.100 10.250

10.370

hoàn thiện phần mềm, nâng cấp
phục vụ quản lý số liệu về NKT
Nâng cao năng lực và truyền

3

thông, Xây dựng mô hình hỗ trợ
NKT
Hỗ trợ về y tế, giáo dục, học

4


Nguồn vận động, đơn vị tính: Triệu đồng
TT
1

2

3

4

Hoạt động
Công tác tổ chức và cơ chế,
nghiên cứu ban hành chính sách
Khảo sát, bổ sung TKT nhẹ;
hoàn thiện phần mềm, nâng cấp
phục vụ quản lý số liệu về TKT
Nâng cao năng lực và truyền
thông, xây dựng mô hình điểm
Hỗ trợ về y tế, giáo dục, học
nghề, việc làm và chính sách

Vận
động

2013 - 2015
2013 2014
2015

2.000


600

700

1.000

200

800

2.900

900

1.000

1.000

7.500

8.100

25.500 5.700 10.000

9.800

19.600 4.000

700


BTXH, an sinh xã hội
Tổng cộng


11

Nguồn kinh phí ngân sách và vận động trong hỗ trợ học nghề và việc làm
ở mức cao, đánh giá sự quan tâm của chính quyền địa phương và việc thực hiện
chính sách cho Người khuyết tật luôn được ưu tiên.
II.4.2. Nguồn lực con người công tác tổ chức và cơ chế chính sách

Tiếp tục củng cố ban chỉ đạo thực hiện Kế hoạch trợ giúp người khuyết tật
cấp tỉnh và ban điều hành các huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hòa
đảm bảo sự phối hợp giữa các ngành, đồng thời tăng cường công tác hướng dẫn,
giám sát và đánh giá việc triển khai thực hiện ở cơ sở.
Củng cố mạng lưới cộng tác viên làm công tác quản lý trường hợp, tham
vấn cộng đồng tại xã, phường, thị trấn. Mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất 04
cộng tác viên (cán bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cán bộ Giáo dục - Đào
tạo, Cán bộ Trạm Y tế, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ hoặc Hội Nạn
nhân chất độc da cam). Huy động nguồn lực và kinh phí để tập huấn công tác xã
hội với người khuyết tật, hỗ trợ duy trì mạng lưới cộng tác viên đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới.
Ban hành, bổ sung, điều chỉnh các quy định về chế độ bồi dưỡng cho giáo
viên dạy hòa nhập, ưu tiên tăng định biên cho các trường có dạy hòa nhập và
chuyên biệt, chế độ đãi ngộ cho các cơ sở dạy nghề và các cơ sở sản xuất tư
nhân có nhận dạy nghề cho người khuyết tật, quy định về chế độ hỗ trợ cho
người khuyết tật được tham gia học nghề, quy chế dạy nghề linh hoạt đối với
người khuyết tật (quy trình, thời gian đào tạo…), thực hiện chế độ ưu tiên về
nước sạch, vệ sinh môi trường phù hợp đối với các gia đình có người khuyết tật.
Hỗ trợ một số trường, trung tâm dạy nghề trong tỉnh tiếp tục xây dựng,

hoàn chỉnh chương trình đào tạo nghề phù hợp với năng lực của người khuyết
tật.
Cung cấp trang thiết bị đào tạo chuyên sâu và phù hợp với các ngành nghề
dành cho người khuyết tật tại các cơ sở dạy nghề có nhận đào tạo cho người
khuyết tật. Tư vấn nghề cho 100% người khuyết tật trong độ tuổi lao động và có
khả năng học nghề để các có lựa chọn nghề phù hợp với tình trạng khuyết tật và
sức khoẻ. Tổ chức dạy nghề cho 60% người khuyết tật được tư vấn.


12

Vận động 100% các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, tư nhân và ít nhất 10%
các cơ sở sản xuất tư nhân nhận dạy nghề cho người khuyết tật.
Vận động các cơ sở sản xuất (đặc biệt là các Cơ quan, Doanh nghiệp Nhà
nước) nhận những người khuyết tật đã qua đào tạo nghề vào làm việc, giới thiệu
II.5.

việc làm cho người khuyết tật đã được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề.
Khó khăn, giải pháp trong việc triển khai chính sách học nghề, việc làm cho
Người khuyết tật tại tỉnh Đồng Nai
II.5.1. Khó khăn
Bên cạnh đó không ít người khuyết tật gặp khó khăn trong quá trình tiếp
cận cơ hội học nghề, tìm việc làm, người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn.
Thiếu thông tin về học nghề, việc làm là một trong những trở ngại, nhất là người
khiếm thính. Để khắc phục cần có sự quan tâm của gia đình, đoàn thể, tổ chức
hội, chính quyền địa phương giới thiệu, cung cấp thông tin cho người khuyết tật,
những điều này không được như mong đợi. Cùng với đó là bản thân người
khuyết tật còn tự ti không mạnh dạn liên hệ hoặc chủ động đề nghị giới thiệu,
giúp đỡ.
Rào cản giao thông cũng là thách thức không nhỏ. Quy định cấm xe 3

bánh chở hàng, nhưng đồng thời lại chưa có giải pháp tháo gỡ thỏa đáng khiến
một bộ phận người khuyết tật sống bằng nghề chở hàng xe ba bánh mất việc,
không có thu nhập và cũng chưa chuyển đổi nghề khác phù hợp. Đi lại bằng
giao thông công cộng thì xe buýt không tiếp cận được, thái độ phục vụ còn thờ
ơ. Đến đi lại bằng đường hàng không còn trường hợp bị từ chối phục vụ. Khó
khăn trong đi lại đồng nghĩa với khó khăn tìm kiếm việc làm (trừ một số người
làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nhận gia công tại nhà....)
Rào cản về môi trường xây dựng như: Trụ sở nơi làm việc, cơ sở học nghề
không có lối đi người khuyết tật. Rào cản về nhận thức khi hầu hết chủ doanh
nghiệp cho rằng sử dụng người khuyết tật sẽ thêm nặng trách nhiệm, tốn kém.
Còn ở địa phương vẫn tồn tại nhận thức giải quyết việc làm cho người lành còn
chưa xong, làm sao lo được cho người khuyết tật. Nhận thức này sai lầm, vì tình
trạng thất nghiệp là một tồn tại xã hội, không giải quyết triệt để được. Nếu việc
gì cũng phải chờ lo cho xong người lành mới đến người khuyết tật thì họ không
bao giờ có cơ hội việc làm.


13

Quy định người khuyết tật làm việc 7h/ngày kiến nhiều doanh nghiệp ngại
tuyển dụng người khuyết tật vì không đảm bảo hoạt động sản xuất bình thường.
Với một số công việc đòi hỏi trình độ cao, người khuyết tật có thể đáp ứng
nhưng không được sự quan tâm đào tạo. người khuyết tật tự tạo việc làm gặp
nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn vì vay Ngân hàng Chính sách thì không có tài
II.5.2.

sản thế chấp, thủ tục vay vốn phức tạp....
Giải pháp hỗ trợ cho Người khuyết tật trong quá trình dạy nghề, việc làm
Để cải thiện tình trạng trên, nâng cao cơ hội cho người khuyết tật học
nghề, có việc làm cần sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả của các ngành hữu quan

và sự quan tâm của cả cộng đồng. Phải phổ cập và nâng cao trình độ văn hóa
cho người khuyết tật, tạo điều kiện cho họ học tập và học càng cao càng tốt. Cần
đào tạo cho Người khuyết tật (NKT) ở mọi trình độ văn hóa. Đào tạo nghề phải
gắn với tạo việc làm, có thu nhập. Quan tâm đến vấn đề can thiệp sớm, phục hồi
chức năng ngay từ khi còn nhỏ để tránh khuyết tật nặng, tránh gây khó khăn
trong học nghề và tìm việc làm sau này.
Tạo điều kiện cho NKT đi lại thuận lợi. Các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở
giáo dục, đào tạo, dạy nghề phải sửa chửa, cải tạo cơ sở vật chất để NKT tiếp
cận và sử dụng. Nếu như cùng chung một ngành nghề, một môi trường làm việc,
thì hãy quan tâm chia sẽ và ưu tiên hơn 1 chút cho những người NKT. Thay đổi
nhận thức của chủ sử dụng lao động về khả năng làm việc của NKT, thay đổi
định kiến cho rằng NKT không đảm bảo sức khỏe làm việc, nhận NKT thêm
phiền phức, tốn kém, kinh doanh không có lãi. Bên cạnh những lợi ích của việc
sử dụng lao động NKT, cần phải nhận thức đây cũng là trách nhiệm đối với xã
hội. Vì nếu không được làm việc thì NKT sẽ phải sống phụ thuộc, gánh nặng gia
đình và cộng đồng.
Thông tin về dạy nghề, việc làm cho NKT phải đến được NKT. Nên thông
qua tổ chức tự lực của NKT, tổ chức vì NKT để tuyên truyền về các chương
trình, các dự án, khóa học nghề, tuyển dụng NKT để họ nắm được thông tin và
đăng ký tham dự. Cần tổ chức nhiều hơn hội chợ việc làm, ngày hội tuyển dụng
dành cho NKT....
Tiếp tục hoàn thiện chính sách cần nghiên cứu, có cơ chế phù hợp về việc
NKT làm việc 7 giờ/ngày. Cần có quy định về ngành nghề dành riêng cho NKT.


14

Cần chặt chẽ hơn trong các quy định về tổ chức dạy nghề cho NKT như: Giáo án
phù hợp, chính sách thỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa, dạy nghề, phiên dịch
cho người khiếm thính. Thời gian học nghề đối với NKT cần phải linh hoạt, tăng

thêm thời gian so với người không khuyết tật. Tạo điều kiện cho NKT tiếp cận
các nguồn vốn vay, hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh
doanh của NKT. Đặc biệt quan tâm và tạo điều kiện cho đơn vị, cơ sở của NKT
tự tạo việc làm phát triển như: Cho họ được tham gia thực hiện các dự án,
chương trình về việc làm cho NKT; ưu đãi về vốn, thuế, mặt bằng, địa điểm tổ
chức sản xuất, được tham gia tập huấn về quản lý.... Không nên chỉ dành chính
sách ưu đãi đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh mà nên mở rộng chính sách ưu
đãi đối với cơ sở của NKT ở các lĩnh vực như: dịch vụ du lịch, dịch vụ tư
vấn, .... Vì hiện nay, NKT đã có mặt và tham gia vào mọi lĩnh vực của cuộc
sống.
Lồng ghép vấn đề việc làm cho NKT vào các chương trình xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Phải tách riêng kinh phí dạy
nghề để tạo tạo việc làm cho NKT, không để chung với kinh phí hỗ trợ cho nông
dân. Tạo thuận lợi và ưu tiêu thụ, tìm đầu ra cho sản phẩm đảm bảo chất lượng
do NKT sản xuất, tương tự ưu tiên dành đường, chỗ đỗ xe ... Cho NKT.
Có chính sách khuyến khích dạy nghề cho NKT tại cộng đồng. Vì phần
lớn NKT sống ở gia đình, gắn với cộng đồng dân cư nên hướng dạy nghề, tạo
việc làm cho NKT ở cộng đồng là thích hợp và thuận tiện nhất. Đầu tư nâng cao
năng lực, trang thiết bị kiến thức, kỹ năng, tay nghề, phát huy tài năng của lao
động NKT. Với NKT ở vùng xâu, vùng xa, khu vực nông thôn, nên quan tâm và
nâng thành tầm chiến lược cấp quốc gia thực hiện "Chương trình tạo việc làm tại
chỗ", tạo điều kiện cho NKT và gia đình của họ tự tạo việc làm.
Người khuyết tật (NKT) là đối tượng xã hội luôn tồn tại. Dạy nghề và tạo
việc làm, hỗ trợ, giúp đỡ NKT ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng là
việc làm có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Để làm tốt
việc này, theo ý kiến của các chuyên gia thì cần phải có khảo sát, thống kê phân
loại NKT theo dạng tật và khả năng lao động, từ đó nghiên cứu ban hành các


15


danh mục nghề đào tạo phù hợp, phát triển các mô hình dạy nghề tạo việc làm
cho NKT...
Nếu như NKT khu vực thành thị có cơ hội tìm việc làm phù hợp trong
nhiều công ty với mô hình và loại hình công việc đa dạng, thì ở vùng sâu vùng
xa, ngay cả người khỏe mạnh bình thường muốn tìm công việc ổn định cũng là
điều khó. Đây được cho là một trong những khó khăn lớn mà nếu không có sự
chung tay của cả cộng đồng, thì NKT dù có nỗ lực đến đâu cũng khó thoát cảnh
thất nghiệp và nghèo khó.
Những năm gần đây khi đất nước ngày càng phát triển thì cơ hội việc làm
cho NKT ngày càng nhiều hơn bởi sự quan tâm của Nhà nước thông qua các
chính sách và sự ra đời của các tổ chức tự lập, các tổ chức phi chính phủ. Đặc
biệt là Luật NKT Việt Nam đã được Quốc hội thông qua và đi vào thực tiễn.
Song song đó, trình độ dân trí, phương tiện giao thông và thông tin đại
chúng phát triển cũng mang đến cơ hội học tập cho NKT, cụ thể là ngày càng
nhiều sinh viên khuyết tật và các Câu lạc bộ Sinh viên khuyết tật các trường đại
học được thành lập. Người sử dụng lao động đã có cách nhìn tích cực hơn đối
với lực lượng lao động là NKT. Họ tuyển NKT vì trình độ và năng lực chứ
không nhìn vào sự “khuyết tật”, lòng nhân đạo hay một sự “quen biết” nào đó.
Tuy nhiên, những thách thức vẫn còn rất nhiều. Hàng năm, Bộ LĐTB&XH đều có giao chỉ tiêu và ngân sách cho các Sở LĐ-TB&XH các tỉnh và
thành phố để đào tạo nghề cho NKT, nhưng số NKT sau khi đào tạo vẫn không
có nhiều việc làm nên tình hình không được cải thiện bao nhiêu. Câu hỏi đặt ra
là Bộ LĐ-TB&XH có đánh giá chất lượng của việc đào tạo nghề cho NKT sau
mỗi khóa học? Trước và sau khi đào tạo nghề có tìm hiểu nhu cầu của NKT và
tình hình thực tế của nghề đó liệu có phù hợp với thực tế?
Trình độ và lòng nhiệt tình của người dạy. Đây là một vấn đề tế nhị vì
người dân ta thường “tôn sư trọng đạo” nếu người dạy nghề không đủ trình độ
chuyên môn sẽ đào tạo “hỏng” học sinh và hậu quả là người học sẽ thất nghiệp
khi ra trường. Thêm vào đó, thầy cô phải hiểu tâm lý học trò của mình và tránh
làm tổn thương họ. NKT rất dễ tổn thương và suy diễn vì những hành động, lời



16

nói vô tình của giáo viên. Ngoài ra, mỗi địa phương đều có những đặc thù riêng
nên ngành nghề cũng phải dựa trên đó. Nghề đó có đáp ứng với nhu cầu thực tế
cuộc sống? Có thể “sống” được với nghề? Điều quan trọng nữa là ngân sách,
thời gian đào tạo và máy móc thiết bị có trang bị đủ cho việc đào tạo nghề? Thời
gian đào tạo nên được hiểu là thời gian đủ để học viên học, thực hành và sáng
tạo để sau khóa học, họ khá thạo nghề và có thể kiếm sống được từ nghề đã đào
tạo.
Ngoài các cơ sở đào tạo nghề của Nhà nước thì những năm gần đây, các tổ
chức phi chính phủ và các tổ chức tự lực của NKT cũng đã và đang tham gia vào
việc đào tạo nghề cho NKT. Ngoài những khó khăn nêu trên, những tổ chức này
lại gặp vấn đề nan giải khác: ý thức của NKT và gia đình họ. Đa số những NKT
thường mặc cảm và tự ti về sự khuyết tật của mình nên rất ngại khi xa gia đình
đi học nghề. Tâm lý tự ti và trở ngại về khoảng cách địa lý làm họ e ngại, không
muốn vươn lên học nghề cũng như không tự tin là mình có thể làm việc tự nuôi
sống mình và gia đình. Bên cạnh, hầu hết gia đình NKT là gia đình nghèo, ở
nông thôn, dân trí thấp nên họ không khuyến khích con, cháu mình đi học nghề
mà chỉ muốn họ ở nhà để giữ nhà và làm hết việc cho mọi người đi làm. Điều
này đã làm tăng cao tỷ lệ thất nghiệp của NKT. Đây chính là cái vòng lẩn quẩn
mà NKT luôn gặp phải.
Không khí nơi làm việc cũng là một rào cản rất lớn khi NKT tìm việc làm.
Trước tiên, hãy nói về thái độ làm việc của NKT. Bên cạnh một số NKT thực sự
đi làm vì muốn tự lực, còn có một số NKT làm việc chỉ vì ở nhà buồn, muốn tìm
chỗ đông người để vui chơi, không cần kiếm tiền, vì đã có gia đình chu cấp.
Chính quan điểm như thế nên thái độ làm việc không tích cực, không nỗ lực, cầu
tiến, dẫn đến người sử dụng lao động có suy nghĩ lệch lạc về thái độ làm việc
của NKT, không muốn tuyển dụng.

Về việc làm: các cơ quan chức năng có liên quan tổ chức các dự án xúc
tiến việc làm cho người khuyết tật như: tạo nghề và phổ biến nghề nghiệp phù
hợp cho những người khuyết tật, thiết kế và xây dựng các nhà xưởng và nơi làm
việc phù hợp để những người tàn tật thuộc các dạng tật khác nhau có thể tiếp cận


17

được, hỗ trợ sử dụng các công nghệ mới, phát triển và sản xuất các phương tiện
và phương pháp hỗ trợ người khuyết tật để họ có thể có việc làm và duy trì công
việc của mình, cung cấp các khoá đào tạo và việc làm phù hợp và tiếp tục các
trợ giúp cá nhân và các dịch vụ phiên dịch, thiết kế, xây dựng các chiến dịch
nâng cao nhận thức cho công chúng nhằm loại bỏ các thái độ tiêu cực hay các
định kiến về các công nhân, nhân viên là người khuyết tật, có các biện pháp cải
thiện môi trường làm việc để phòng ngừa các tai nạn hay các bệnh nghề nghiệp
và phải có biện pháp giáo dục, phục hồi chức năng cho những người bị tai nạn
nghề nghiệp.
III. Kết luận

Trong bất cứ 1 xã hội nào cũng có 1 bộ phận người ít có may mắn, có thể
là những người nghèo, hay bệnh nan y hoặc người khuyết tật…sự không may
mắn của họ là do nhiều nguyên nhân đưa đến, cũng như đối với người khuyết
tật, để lý giải nguyên nhân gây khuyết tật cũng có nhiều nguyên nhân, chẳng hạn
như: tai nạn giao thông, thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn lao động, bệnh hoặc bẩm
sinh…Song Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn quan tâm bằng cách đưa ra
những chính sách phù hợp nhất để họ tự phát triển bản thân và không là gánh
nặng cho gia đình, cộng đồng xã hội.
Chính sách về giải quyết học nghề, việc làm cho người lao động khuyết
tật là những quy định pháp lý được xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà
người khuyết tật đang phải gánh chịu, xóa bỏ các cơ chế khiến người khuyết tật

bị tách biệt ra ngoài xã hội, đồng thời tăng cường cơ hội việc làm bình đẳng cho
họ trong thị trường lao động.
Đất nước ta đang trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,
với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội,
chính vì lẽ đó, việc chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khuyết tật là yêu cầu quan trọng. Hơn lúc nào hết cần phải tổ chức tốt
hoạt động thực hiện chính sách về người khuyết tật với hệ thống pháp luật đồng
bộ, không rào cản đối với người khuyết tật nói riêng và hoạt động thực hiện hệ


18

thống pháp luật nói chung. Thực trạng người khuyết tật và công tác thực hiện
pháp luật về người khuyết tật cho thấy mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong quá
trình tổ chức thực hiện song đời sống của người khuyết tật vẫn gặp nhiều khó
khăn, việc tiếp cận đầy đủ và hoà nhập đời sống xã hội của họ vẫn còn nhiều rào
cản. Thực tế này đòi hỏi phải có sự đổi mới trong nhận thức cũng như thực hiện
pháp luật về người khuyết tật trong giai đoạn hiện nay. Những giải pháp nhằm
bảo đảm thực hiện chính sách về người khuyết tật hướng đến việc xác định trách
nhiệm từ phía nhà nước cũng như vai trò của các tổ chức xã hội, đó là những
chủ thể quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho
người khuyết tật.
Như vậy, giải quyết việc làm cho người khuyết tật không chỉ trông chờ
vào tinh thần nhân đạo của các tổ chức, doanh nghiệp hoặc theo chương trình
hợp tác dự án với các tổ chức nhân đạo ngước ngoài. Về phía người khuyết tật
cũng phải tự trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng chuyên môn, sẵn sàng
đảm đương được công việc của nhà tuyển dụng để khẳng định được mình là
những người “tàn mà không phế”. Đã đến lúc, cần phải có hành lang pháp lý
chặt chẽ hơn về trách nhiệm của người quản lý. Có như vậy, người khuyết tật
mới được hưởng đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý như những người lao động

bình thường khác, góp phần đưa ước nguyện “hãy đưa chúng tôi hòa nhập với
cộng đồng” của người khuyết tật trở thành hiện thực.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo của Sở Lao Động Thương và Xã Hội tỉnh Đồng Nai về Người
Khuyết Tật
Luật Người khuyết tật được Quốc Hội thông qua ngày 17/06/2010 có hiệu
lực ngày 01/01/2011.
Kế hoạch số 9971 trợ giúp người khuyết tật tỉnh Đồng Nai giai đoạn
2013-2015
Báo vnexpress
Báo người lao động
Báo tuổi trẻ


19

Hội nghị diễn đàn Người khuyết tật Châu Á Thái Bình Dương năm 2014.



×