Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

tiểu luận triết học về toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.57 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế là ngành không thể thiếu được của mọi quốc gia trên thế giới, chính
vì thế nó chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nước của mỗi quốc gia.
Không chỉ có vậy, lĩnh vực kinh tế còn ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã
hội như: Chính trị, văn hóa, môi trường,… Do có vai trò quan trọng như vậy nên
mỗi một thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành kinh tế đều ảnh hưởng đến sự phát
triển chung của một quốc gia.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang là một đề tài thu hút nhiều sự chú ý và
gần đây Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được thông qua tạo nên thêm nhiều
cơ hội cho sự phát triển ở nước ta nhưng đồng thời đây cũng là một thách thức
lớn đối với nền kinh tế còn đang trong giai đoạn phát triển như nước ta, vì hiện
nay có thể nói công nghệ và kỹ thuật của ta còn đi chậm hơn so với thế giới và
chúng ta buộc phải có những đổi mới trong cung cách sản xuất, quản lý, đầu tư
đúng hướng,…


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC DÙNG LÀM TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
CHO ĐỀ TÀI
1. Quy luật Lượng – Chất
Muốn hiểu thấu đáo quy luật Lượng - Chất thì trước hết phải tìm hiểu xem
thế nào là lượng, thế nào là chất. Trong giáo trình triết học Mác – Lênin, khái
niệm về chất và lượng được định nghĩa như sau :
“Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho
nó là nó chứ không phải là cái khác”.
“Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật
biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của
sự vật cũng như của các thuộc tính của nó”
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận
động và phát triển chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng


và của chất không diễn ra độc lập với nhau. Trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức
làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một
giới hạn nhất định và không làm thay đổi bản chất của sự vật đó. Vượt qua giới
hạn đó sẽ làm cho vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
Khuôn khổ mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất
được gọi là độ. “ Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất
và lượng, nó là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chất làm thay
đổi căn bản về chất của sự vật”.
Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất
của sự vật được gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự
thống nhất giữ lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Vì vậy,
có thể hình dung sự phát triển dưới dạng một đường nút những quan hệ về độ.
Sự thay đổi về chất so những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước
nhảy. Nói cách khác, Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng đẻ chỉ giai đoạn
chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về chất trước đó gây ra.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút.
Sau khi ra đời, chất mới có thể tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới
có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật đó.
Bởi vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có trong lòng sự vật hiện tượng.
Chất thì tương đối ổn định còn lượng thì thường xuyên biến đổi. Sự thay đổi của
lượng đến một lúc nào đó thì đối lập với chất cũ, bị chất cũ kìm hãm, nó đòi hỏi


phải phá bỏ độ cũ mở ra một độ mới để mở đường cho lượng thay đổi. Khi chất
cũ bị phá bỏ, chất mới được thiết lập lại tạo ra sự thống nhất giữa chất và lượng.
Quy luật Lượng - Chất được phát biểu như sau: “Bất kỳ sự vật nào cũng là
sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn

của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất
mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng.”
Xuất phát từ những điều trên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải quan tâm đến quá trình tích lũy về lượng bởi vì không có quá
trình này thì không có sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũng không thể mất đi
cái mới tiến bộ hơn không thể ra đời thay thế.
Khi chất mới ra đời thì phải biết xác định quy mô tốc độ phát triển mới về
lượng cho phù hợp, không được thoả mãn dừng lại.
Phải chống lại quan điểm tả khuynh và hữu khuynh. Tả khuynh là quan
điểm coi thường tích lũy về lượng còn hữu khuynh là khi lượng thay đổi đã chín
muồi cần phải có sự thay đổi về chất lại không giám thực hiện bước thay đổi về
chất. Cả hai quan điểm đó đều là quan điểm sai lầm.
2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ Nguyên nhân - Kết
quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, do đó nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất
hiện. Song không phải mọi sự việc nối tiếp trong thời gian của các hiện tượng đều
là biểu hiện của mối quan hệ nhân quả.
Trong hiện thực mối quan hệ Nhân - Quả biểu hiện rất phức tạp. Một kết
quả thông thường không phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sản
sinh ra nhiều kết quả khi các nguyên nhân tác động cùng chiều, cùng hướng, cùng
một lúc lên sự vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều tới sự hình thành kết
quả và ngược lại.
Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động vật chất không có hiện tượng
nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả nào được xem là
kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này, sự vật nào đó được coi là nguyên nhân
thì trong sự việc khác nó lại được gọi là kết quả và ngược lại.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả nhưng sau khi xuất hiệt kết quả không giữ
vai trò thụ động đối với nguyên nhân. Trái lại nó tác động lại nguyên nhân theo
hai chiều hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực.

Mối quan hệ nhân quả có tính khách quan. Không có sự vật hiện tượng nào
tồn tại mà không có nguyên nhân, do đó nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải
khám phá ra nguyên nhân bởi vì có nguyên nhân chúng ta mới có thể định hướng
cho sự phát triển tiếp sau.
Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. mỗi nguyên
nhân có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy ta cần phải phân


loại các nguyên nhân đồng thời phải nắm được những nguyên nhân phát triển
cùng chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân ngược
chiều.
Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi kết quả xuất hiện thì nó lại tác
động trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Vì vậy, phải biết khai thác tận dụng các kết
quả đã đạt được để nâng cao nhận thức để thúc đẩy sự vật phát triển.
II. VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ TRIẾT HỌC ĐỂ PHÂN TÍCH, LÀM
RÕ THỰC TRẠNG CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC XU THẾ
TOÀN CẦU HÓA
Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng mới mẻ, mà trái lại, đã xuất hiện ở
thế kỷ XV và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX, là một xu thế tất yếu và
ngày càng được mở rộng mà mỗi quốc gia dân tộc phải đối mặt với nó. Trong thời
đại hiện nay, toàn cầu hóa mang một nội dung với những nét đặc thù mới, nó
đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc, đến đời sống xã hội của
cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc sống của từng người.
Tính tất yếu của toàn cầu hoá trước hết được biểu hiện ở tất yếu kinh tế. Về
phương diện này, toàn cầu hoá tạo ra một sự thay đổi căn bản trong hoạt động
kinh tế của con người, làm thay đổi tính chất và vị trí của thị trường. Nếu như
trước đây, thị trường mang tính quốc gia thì hiện nay, thị trường đã mang tính
quốc tế. Do quá trình toàn cầu hoá, các quốc gia nhanh chóng bị cuốn hút và trở
thành một bộ phận phụ thuộc của nền kinh tế thế giới hoặc quốc tế. Ngoài tính
toàn cầu của thị trường hàng hoá và dịch vụ, tài chính và tiền tệ cũng mang tính

chất toàn cầu. Một yếu tố khác không kém quan trọng làm cho thị trường có tính
toàn cầu là công nghệ điện tử mới của thông tin và viễn thông. Chính công nghệ
mới đó không chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang tính chính trị và xã hội sâu
sắc.
Từ những nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu đã và đang mang lại những thay
đổi to lớn trong thói quen lao động và lối sống của con người ở tất cả các quốc
gia dân tộc. Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế,
v.v. đang là những vấn đề làm đau đầu các quốc gia dân tộc. Nói tóm lại, chính
toàn cầu hoá đang làm cho những vấn đề toàn cầu của thời đại tác động mạnh mẽ
và nhanh chóng đến các quốc gia dân tộc. Ngày nay, không một quốc gia dân tộc
nào có thể làm ngơ trước sự lan truyền một cách nhanh chóng và rộng rãi của các
bệnh dịch, như SARS, cúm gà, v.v.; của các nạn khủng bố, tội phạm quốc tế, v.v..
Tiếp nữa về mặt chính trị, người ta thường nhắc tới những thách thức
nghiêm trọng của toàn cầu hoá đối với chủ quyền quốc gia. Điều đó được lý giải
bằng sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ
kéo theo sự hội nhập về chính trị. Với lôgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu của
mô hình quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, người ta thường
nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc
lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không có và không thể có một
quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài trong bối cảnh


toàn cầu hoá. Chẳng hạn, do lôgíc nội tại của nó, toàn cầu hoá kinh tế vừa đòi hỏi,
vừa muốn hướng tới sự tự do về thương mại và đầu tư ngày càng tăng lên một
cách chưa từng có. Do đó, những hiệp định thương mại đa phương được thể chế
hoá trong WTO tất yếu hạn chế khả năng hành động một cách đơn phương của
các chính phủ trong việc bảo vệ lợi ích cục bộ của họ. Vì lẽ đó, người ta coi
những hiệp định thương mại đa phương ấy có tác dụng tiêu cực đối với bất kỳ chủ
quyền quốc gia riêng lẻ nào.
Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất của toàn cầu

hoá; nó đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị. Đến lượt mình, những
thay đổi về chính trị lại có tác động trở lại đối với kinh tế về mặt lý luận, các vấn
đề kinh tế không chỉ mang lại các đặc trưng của kinh tế đơn thuần mà là luôn gắn
với một hệ thống của chính trị là nền tảng của tư tưởng của nó. Về mặt thực tiễn
rõ ràng ở quốc gia nào cũng vậy người ta chỉ chập nhận hội nhập kinh tế quốc tế
một khi lợi ích của quốc gia đó được đảm bảo – các lợi ích này không chỉ đơn
thuần là lợi ích kinh tế nó luôn được xác định gồm cả lợi ích chính trị của mỗi
quốc gia cho nên bất cứ hiệp định song phương giữa hai quốc gia nào cũng luôn
có điều khoản loại trừ các yếu tố gây hại đến an ninh quốc gia mỗi nước. Với
cách tiếp cận trên có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay không
chỉ là quá trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được thể hiện trong
bản thân hệ thống chính các thương mại, chính sách phát triển kinh tế đã và đang
được Đảng, Nhà nước định hướng.
Những phát triển về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa,
sự phát triển đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất nhờ áp dụng các thành tựu
khoa hoạc và công nghệ, sự mở rộng thì trường quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế
đã phá vỡ tính biệt lập, khép kín trong phạm vi quốc gia, mở rộng không gian
hoạt động của các quốc gia. Đây chính là tiền đề cho quá trình tích lỹ về lượng để
chuẩn bị cho sự thay đổi về chất tới một giới hạn nào đó thì dẫn đến một bước
nhảy về kinh tế là xu thế toàn cầu hóa ra đời.
Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam được bắt đầu từ cuối những năm
80 khi Đảng và Nhà nước thực hiện Chính sách mở cửa và đổi mới nền kinh tế.
Đại Hội VII của Đảng (1991) đã thông qua định hướng nền kinh tế đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế “Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4
khóa VIII (12-1997) chỉ rõ nguyên tắc hội nhập là: “trên cơ sở phát huy nội lực,
thực hiện khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ,
gia nhập APEC và WTO” có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết
trong khuôn khổ AFTA. Đến nay Việt Nam vẫn kiên định theo định hướng đó, tại
Đai hội XII của Đảng xác định “Tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản
lý phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc
tế, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đầy đủ, đồng
bộ, hiệu quả theo quy luật kinh tế thị trường, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.”
Với tầm nhìn chiến lược xác định rõ tình hình và xu thế phát triển của thế
giới trên cơ sở yêu cầu bức xúc của phát triển kinh tế đất nước, trong thời gian


qua nền kinh tế của nước ta cũng đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận như
lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng kinh tế được
duy trì ở mức hợp lý, môi trường kinh doanh có bước được phát triển…. Tuy
nhiên vấn đề toàn cầu hóa như một con dao 2 lưỡi một mặt nó tạo cơ hội phát
triển kinh tế - kỹ thuật, tạo khả năng giao lưu văn hóa, trí tuệ, chuyển giao công
nghệ hiện đại, phát triển văn minh vật chất mặt khác nó làm trầm trọng thêm bất
công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo, làm xói mòn bản sắc văn hóa dân
tộc, tấn công vào chủ quyền quốc gia về phương diện nguyên như vậy phải xác
định một chiến lược hợp lý sao cho có thể kiếm được lợi một cách tối đa và hạn
chế đến mức thấp nhất có thể được những thua thiệt và điều quan trọng là cái
được phải nhiều hơn cái mất.
Chúng ta tham gia cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ kinh tế và công
nghiệp của ta còn thấp vì vậy việc bảo vệ nền kinh tế cũng như bảo vệ các doanh
nghiệp của ta nhất là các doanh nghiệp quốc doanh là phải được đặt lên hàng đầu.
Một lộ trình hội nhập nhanh quá khả năng chịu đựng của nền kinh kết hợp với
mức độ cao quá khả năng của các doanh nghiệp sẽ dẫn đến những hậu quả khó
lường đối với nền kinh tế, đôi khi cả chính trì của đất nước song điều đó cũng
không có nghĩa là càng kéo dài lộ trình hội nhập kinh tế với mức độ càng thấp
càng tốt, bởi vì kéo dài lộ trình sẽ làm cho sức ì càng nặng, kèm đầu tư cải tiến
quản lý công nghệ, dẫn tới tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh và nền
kinh tế ngày càng tụt hậu so với nền kinh tế thế giới. Để tránh nguy cơ đó, trong
những năm gần đây, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại
hóa, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn theo định hướng xã hội chủ

nghĩa trong môi trường hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Đây là một chủ trương
hoàn toàn đúng đắn để khắc phục nguy cơ tụt hậu. Đại hội XII xác định mục tiêu
phát triển kinh tế giai đoạn 2016-2020 là đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp, tạo
nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cùng với thách thức về kinh tế, toàn cầu hóa đang đặt ra cho nước ta
những thách thức lớn về mặt xã hội mà trước hết là nạn thất nghiệp và thiếu việc
làm. Kể từ khi nước ta bắt đầu hội nhập, nền kinh tế trở nên năng động hơn. Các
thành phần kinh tế có cơ sở phát triển mạnh mẽ, nhưng sự cạnh tranh giữa chúng
có phần quyết liệt hơn. Chính sự cạnh tranh đó đã làm cho nhiều cơ sở sản xuất,
nhiều doanh nghiệp bị phá sản, nhiều cơ sở sản xuất phải tiến hành tinh giản biên
chế. Tình trạng đó làm tăng thêm đội ngũ những người không có việc làm hoặc có
việc làm không đầy đủ.Ngoài ra quá trình hội nhập sẽ đòi hỏi đội ngũ lao động có
trình độ cao hơn. Nếu như đội ngũ người lao động Việt Nam không được đào tạo
và chuẩn bị về mặt công nghệ, quản lí thì tình trạng thất nghiệp không những
không giảm mà còn có nguy cơ tăng cao.Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo - cái trục
của sự phân tầng xã hội.
Tình trạng thiếu việc làm, sự phân hóa giàu nghèo lại là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự. Bên cạnh tình trạng thất
nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo có nguy cơ ngày càng tăng, tệ nạn xã hội và


tội phạm cũng là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong quá trình hội
nhập. Điều đáng lưu ý là, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển giao
lưu kinh tế quốc tế, các hoạt động tội phạm có yếu tố nước ngoài cũng phát triển
mạnh mẽ. Đó là hiện tượng người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam và người Việt
Nam phạm tội ở nước ngoài.
Toàn cầu hóa kinh tế còn có tác dụng trực tiếp đến chính trị, song ở đây
không nên hiểu luận điểm kinh tế quyết định chính trị một cách đơn giản và máy
móc thông qua con đường hợp tác đầu tư tự do hóa thương mại viện trợ cho vay

theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, tự do hóa tư sản. Các thế lực tư bản chủ
nghĩ đứng đầu là Mỹ muốn tạo ra những cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa. Từ đó
dẫn đến hình thành những lực lượng chính trị đối lập ngay trong lòng xã hội để
thực hiện tự diễn biến hòng thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa (đối với các nước
đang phát triển) gây sức ép về kinh tế và chính trị đối với các nước, tuy vậy chủ
nghĩa đế quốc vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của các nước đang phát triển, các
nước xã hội chủ nghĩa nhằm chống lại âm mưu áp đặt về chính trị. Vừa qua hiệp
định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết, đây là một hiệp định rất có lợi đối với
sự phát triển kinh tế ở việt Nam nhưng trước đó Mỹ định dùng áp lực này nhằm
thông qua đạo luật nhân quyền để áp dụng một sự can thiệp thô bạo vào nền chính
trị của nước ta.
Ngoài thách thức về kinh tế, chính trị và xã hội, Việt Nam còn phải đối mặt
với thách thức không nhỏ về văn hóa. Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho việc mở
rộng giao lưu quốc tế, tăng thêm mối liên hệ và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân
tộc, sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia. Do đó, nó cũng tạo điều kiện cho việc
mở rộng giao lưu về văn hóa, khoa học giữa các quốc gia dân tộc, tiếp thu có
chọn lọc những thành tựu của văn hóa nhân loại, bổ sung cho nhau tạo điều kiện
hiện đại hóa văn hóa. Tuy nhiên, mặt khác toàn cầu hóa kinh tế trong điều kiện do
thế lực tư bản chi phối lại tạo nguy cơ làm sói mòn bản sắc dân tộc, mâu thuẫn
với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trên thế giới, một số nước có nền kinh
tế phát triển dựa trên sức mạnh kinh tế của mình đang muốn toàn cầu hóa văn
hóa, thậm chí là có thể nói “Những cuộc tấn công dữ dội đó của văn hóa nước
ngoài có thể đe doạ tính đa dạng văn hóa, và khiến cho dân chúng lo sợ đánh mất
bản sắc văn hóa của mình".Chính vì thế nước ta phải hết sức chú trọng đến vấn đề
bảo tồn văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa, tránh bị “ hòa tan” trong khi “hòa
nhập”. Tại văn kiện đại hội đảng lần thứ 12 xác định mục tiêu phát triển như sau
“Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về văn hóa. Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt
đẹp của dân tộc. Chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa, quảng bá văn
hoá Việt Nam, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, đáp ứng yêu cầu

hội nhập và phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và môi
trường văn hoá lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
khắc phục các biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hóa. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn
hóa tiêu biểu, tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.”


Không chỉ có vậy, toàn cầu hóa còn ảnh hưởng đến vấn đề môi trường ở
nước ta, từ năm 1973 đến nay, tuy số liệu điều tra chưa đầy đủ nhưng chắc chắn
diện tích rừng bị giảm không phải là con số ít. Chẳng hạn như ở Đắk Nông mỗi
năm tính trung bình có 10.000 ha rừng bị tàn phá. Trong vòng 20 năm trở lại đây
có 25% diện tích rừng bị biến mất. Từ năm 1990 đến năm 1995, toàn quốc có 5
triệu ha rừng bị hủy diệt (bình quân mỗi năm mất 1 triệu ha rừng). Vấn đề ô
nhiễm môi trường, khói bụ và rác thải,…
Tuy còn nhiều khó khăn và tồn tại nhưng sau hơn 2 triệu thập nhiên tham
gia vào quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu
đáng kể. Hàng năm nền kinh tế đều có tăng trưởng: Tổng sản phẩm xã hội (GDP)
tăng bình quân hàng năm là 8,2%, giảm tỷ lệ lạm phát từ 14,7% , kim ngạch xuất
khẩu trong 5 năm (2011-2016) đạt 17 tỷ đô la và 2017 đạt trên 7 tỷ đô la. Mở
rộng được quan hệ hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của
nhiều nước để phát triển kinh tế trong nướ, xóa bỏ thế bị bao vây, cô lập về kinh
tế tạo ra thế và lực mới để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Môi trường kinh tế
vĩ mô ngày càng ổn định và cán cân thương mại ngày càng được cải thiện rõ rệt
làm cho nền kinh tế phát triển và năng động hơn.
Trên đây là một số thách thức mà Việt Nam đã và đang gặp trong quá trình hội
nhập. Mỗi vấn đề đặt ra đều có những nguyên nhân, kết quả khác nhau, mỗi sự
thay đổi của nội dung này sẽ dẫn tới những sự biến đổi của nội dung khác. Trong
quá trình toàn cầu hóa, chúng ta không thể nóng vội thực hiện mà phải dần dần
những thay đổi về nội lực của mình đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những
bước nhảy khi có điều kiện chín muồi; chống lại các quan điểm “tả khuynh” chủ

quan, nóng vội, duy ý chí khi chưa chín muối đến độ nhất định đã thực hiện bước
nhảy; chống lại những quan điểm hữu khuynh bảo thủ trì trệ khi lượng đã biến
đổi đến độ nhất định nhưng không thực hiện bước nhảy; phải thấy được tính đa
dạng của bước nhảy, nhận thức được từng hình thức của bước nhảy, có thái độ
ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện kịp thời; phải
có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các điều kiện
chín muồi. Đảng ta cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu phát triển như sau “Phát
triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã
hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng
cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ động hội
nhập quốc tế. Giữ gìn hòa bình, ổn định, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để
xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.”
III. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU


Để khắc phục những tồn tại của kinh tế Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển
nền kinh tế bền vững trước xu thế toàn cầu hóa, bản thân tôi có một số kiến nghị
và giải pháp chủ yếu sau:
Xây dựng thể chế pháp lý cho quan hệ giữa nước ta và các nước hình thành
một hệ thống đồng bộ các thỏa thuận cũng như các hiệp định làm nền tảng cho
quan hệ hợp tác quốc tế. Cụ thể là tham gia và hỗ trợ việc chuẩn bị, đàm phán ký
kết các hiệp định thỏa thuận cấp chính phủ giữa nước ta với các nước, cũng như
thựuc hiện tốt việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các thỏa thuận, hiệp định đã được
ký kết, cả phía ta và phía bạn. Góp phần xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế của
ta cho phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, trực tiếp tham gia vào quá trình

hình thành và phát triển các luật lệ, quy định quốc tế, nhầm bảo vệ tốt nhất lợi ích
của đất nước và công dân ta trong quan hệ quốc tế, phát huy vai trò tích cực của
các ủy ban hỗn hợp và các quy chế song phương về hợp tác kinh tế giữa Việt
Nam và các nước; kịp thời phát hiện, kiến nghị và phối hợp giải quyết các vấn đề
nảy sinh trong quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế;
bảo vệ chủ quyền kinh tế và lợi ích kinh tế của Việt Nam trên trường Quốc tế.
Triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế, đặc biệt là về kinh
tế đối ngoại. Làm thật tốt công tác tiếp thị, tìm kiếm các nguốn vốn đầu tư, mở
rộng thị trường, hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương và các doanh ngiệp trong việc
móc nối, thẩm tra các đối tác, tìm kiếm và mở rộng thị tường; giúp đỡ các doanh
nghiệp làm ăn ở nước ngoài. Trong thời gian tới cần: tích cực tìm kiếm và mở
rộng thị trường quốc tế cho xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, người lao động và đầu
tư Việt Nam.
Nhà nước cần sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế,
chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao
phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường hàng hóa, dịch
vụ, tài chính, tiền tệ, bất động sản, lao động, khoa học, công nghệ,... đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng trong nước
và phát triển đồng bộ, hiệu quả hệ thống phân phối. Phát triển mạnh thị trường
trong nước, thực hiện hiệu quả Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam". Khai thác tốt các cam kết quốc tế, mở rộng và đa dạng hóa thị
trường ngoài nước, không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường. Đẩy mạnh
xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu phù hợp, phấn đấu cân bằng thương mại bền
vững.
Có cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng khoa học,
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất và quản
lý, Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất
cơ bản của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi phát triển doanh nghiệp.

Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại. Nâng cao chất lượng quy hoạch


xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, bảo đảm hiệu quả tổng hợp và tính hệ
thống, nhất là mạng lưới giao thông, điện, nước, thủy lợi, giáo dục, y tế, hạ tầng
viễn thông và công nghệ thông tin.
Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây
dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức,
lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân.
Phát triển bền vững văn hóa, xã hội; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, bảo đảm chặt chẽ, công
khai, minh bạch và thực hiện đồng bộ các giải pháp về phòng, chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu
cực. Kiện toàn mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy phòng,
chống tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định về kê khai, kiểm soát kê khai tài
sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý; hạn chế giao dịch bằng tiền mặt. Chú trọng giáo dục phẩm chất đạo đức
và trách nhiệm công vụ. Đề cao, quy định rõ trách nhiệm của tổ chức đảng và
người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng, lãng
phí.
Phát triển mạnh dịch vụ thông tin truyền thông đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tìm hiểu nhu cầu, khả năng về các mặt của các đối tượng, các nước và các
tổ chức quốc tế, khả năng và nhu cầu của các bộ ngành trong nước để đề xuất
kiến nghị với chính phủ có chủ trương, chính sách và làm ăn với từng nước. Hiện

nay và trong thời gian tới cần tập trung vào các lĩnh vực như: xúc tiến thương mại
đặc biệt là tìm kiếm thị trường mới, mở rộng thị trường để tăng cường xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ và xuất khẩu lao động của Việt Nam; thu hút FDI và các hình
thức đầu tư quốc tế khác; vận động ODA các hình thức viện trợ káhc và hỗ trợ kỹ
thuật của cộng đồng quốc tế và xử lý nợ nước ngoài; thúc đảy du lịch và chuyển
giao công nghệ,…..tranh thủ sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài cho sự ngiệp phát triển đất nước, quảng bá văn hóa mang bản sắc dân tộc
Việt Nam trên thế giới.
Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền kinh tế nhằm cung cấp
những thông tin cần thiết, chính xác cho những hoạt động kinh tế


PHẦN KẾT LUẬN
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ các nguồn
nội lực, đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, kết
hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp là nội dung quan trọng của
đường lối kinh tế do Đại hội XI của Đảng đề ra. Chủ động hội nhập kinh tế là để
tạo ra điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mặt khác, có
độc lập, tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu
quả, đảm bảo giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Tất cả vì một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước
đi trên CNXH.
Việt Nam tham gia toàn cầu hóa kinh tế đã khơi dậy tiềm năng của sản
xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản
xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó nền kinh tế như nước ta thực
sự được đổi mới, bước đầu đạt được những thành tựu to lớn: Từ một nước đói
kém, cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu đến nay trở thành một nước
không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa, xuất khẩu ra nước ngoài (đặc biệt là lúa gạo).
Tuy nhiên, ta không được tự bằng lòng với những gì đã đạt được bởi vì đạt được
đã khó, giữ được còn khó hơn. Vì thế đòi hỏi ta phải cố gắng nỗ lực không ngừng

để củng cố những thành quả và tạo cho mình một chỗ đứng chắc chắn trên trường
quốc tế.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
5nsem 2011 -2015 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm
2016-2020 (văn kiện đại hội Đảng khóa XII);
2. Toàn cầu hóa và sư phát triển của nó đối với Việt Nam hiện nay – Phạm
Văn Đức - Tap chí Triết học;
3. Giáo trình triết học Mác – Lênin;
4. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
5. Asean những vấn đề và xu hướng;
6. Tạp trí cộng sản - Phạm Công Minh - Vụ trưởng Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ
tài chính; Lâm Đình Ngọc - Bộ Ngoại Giao.



×