Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ DỰ ÁN THỦY ĐIỆN TRONG CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ MỚI – ÁP DỤNG CHO CÔNG TY CỔ PHẦN THỦY ĐIỆN HỒ NÚI CỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.29 KB, 92 trang )

ĐỀ TÀI: “NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ DỰ ÁN THỦY ĐIỆN
TRONG CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ MỚI – ÁP DỤNG CHO CÔNG TY
CỔ PHẦN THỦY ĐIỆN HỒ NÚI CỐC”

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta hiện nay có rất
nhiều loại hình kinh doanh hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Mục tiêu đầu
tiên mà các doanh nghiệp mong muốn đạt được là lợi nhuận, do vậy việc cạnh
tranh trong kinh doanh diễn ra rất phức tạp và quyết liệt “thương trường như chiến
trường”, điều này không ngoại trừ đối với bất kỳ một đơn vị kinh tế nào. Để có một
chỗ đứng ổn định trên thị trường, thì mỗi doanh nghiệp cần phải có số vốn tương
đối, bởi vốn là chìa khóa quyết định đến sự sống còn của nền kinh tế nói chung và
của mỗi doanh nghiệp nói riêng
Trước năm 1986, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tập trung, bao cấp, các
doanh nghiệp trong thời kỳ này chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Việc huy động
vốn do ngân sách nhà nước cấp, các doanh nghiệp thường không quan tâm nhiều
tới vấn đề sử dụng đồng vốn ra sao, vì vậy, mà việc kinh doanh đã không mang
lại hiệu quả kinh tế cao. Bước sang thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, các
doanh nghiệp nhà nước đã từng bước cổ phần hóa, sản phẩm làm ra mang tính
cạnh tranh nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Mặt khác, các
doanh nghiệp phải tự đứng ra huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh nên
kết quả kinh doanh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp
Từ khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thế giới WTO, các doanh nghiệp ở
nước ta đã hoạt động khá phát triển và đạt được nhiều thành tựu hơn so với trước
đây. Việc sử dụng vốn có hiệu quả tại các doanh nghiệp trong cơ chế quản lý kinh
1



tế mới ngày càng trở nên quan trọng. Vì thế vấn đề sử dụng vốn cho việc đầu tư
vào các dự án xây dựng nói chung và dự án đầu tư Thủy điện nói riêng là rất cần
thiết, mang tính chiến lược to lớn, kinh doanh có hiệu quả sẽ đem lại cho doanh
nghiệp cũng như những nhà đầu tư nhiều thuận lợi đồng thời thúc đẩy tăng trưởng
nền kinh tế xã hội phát triển
Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận các doanh nghiệp phải không
ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó quản lý và sử dụng
vốn có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên, trên thực tế khi đi vào hoạt động sản xuất
kinh doanh không phải doanh nghiệp nào cũng đạt được các mục tiêu như mong
muốn; những doanh nghiệp có chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế
thị trường cộng với việc sử dụng và quản lý các nguồn vốn hiệu quả đã mang lại
cho đơn vị những kết quả đáng khích lệ. Nhưng bên cạnh đó cũng có không ít
những đơn vị kinh doanh làm ăn thua lỗ dẫn đến phải sáp nhập hoặc bị phá sản
gây tổn hại nghiêm trọng cho chính nhà đầu tư và ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế quốc dân. Xuất phát từ tầm quan trọng của vốn và sự cần thiết phải nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp, qua thời gian thực tập tìm hiểu
thực tế tại Công ty Cổ phần Thủy điện Hồ Núi Cốc, tác giả đã chọn đề tài:
“Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh
nghiệp đầu tư Thủy điện trong cơ chế quản lý kinh tế mới - áp dụng cho Công ty
Cổ phần Thủy điện Hồ Núi Cốc” làm luận văn thạc sĩ kinh tế cho mình với mong
muốn đóng góp những kiến thức của mình trong việc tìm ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn trong Công ty Cổ phần Thủy điện Hồ Núi Cốc, tỉnh
Thái Nguyên.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong các doanh nghiệp và phân tích, đánh giá những mặt còn hạn chế trong việc
sử dụng vốn của Công ty Cổ phần Thủy điện Hồ Núi Cốc, Luận văn nghiên cứu
2



đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty trong
cơ chế quản lý kinh tế mới.
3. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Những nghiên cứu của đề tài dựa trên tiếp cận hoạt động đầu tư phát triển bền
vững của các lý thuyết về đầu tư, đầu tư phát triển, phát triển kinh tế. Các phương
pháp được sử dụng để nghiên cứu giải quyết các vấn đề của đề tài gồm: Phương
pháp phân tích tổng hợp; Phương pháp phân tích so sánh; Phương pháp thống kê;
và một số phương pháp phổ biến khác trong nghiên cứu kinh tế.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp đầu tư
Thủy điện trong cơ chế quản lý kinh tế mới và áp dụng cho Công ty Cổ phần
Thủy điện Hồ Núi Cốc trong cơ chế quản lý kinh tế mới.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

- Về mặt khoa học, đề tài đã hệ thống hóa lý luận về hiệu quả sử dụng vốn
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, đã đề xuất được các giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp đầu tư thủy điện có cơ sở
khoa học và mang tính khả thi cao.
- Những phân tích đánh giá, những giải pháp đề xuất của luận văn là những
gợi ý quan trọng có thể áp dụng vào thực tiễn quản lý sử dụng vốn kinh doanh của
các doanh nghiệp đầu tư Thủy điện nói chung và Công ty Cổ phần Thủy điện Hồ
Núi Cốc nói riêng
6. KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp

- Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Thủy điện
Hồ Núi Cốc, đánh giá kết quả đạt được và nguyên nhân tồn tại

3


- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của các doanh nghiệp đầu tư thủy điện nói chung và của Công ty Cổ phần Thủy
điện Hồ Núi Cốc nói riêng.
7. NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN

Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích đánh giá tình hình sử dụng vốn kinh doanh của các doanh
nghiệp đầu tư dự án Thủy điện
Chương 3: Nghiên cứu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty
Cổ phần Thủy điện Hồ Núi Cốc
Kết luận và kiến nghị

CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ VỐN KINH DOANH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tiến
hành một quá trình sản xuất kinh doanh đều cần phải có vốn, vốn là điều kiện tiên
4


quyết có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

bởi vì khi tiến hành hoạt động sản xuất thì các doanh nghiệp cần có một số tiền
nhất định để chuẩn bị các yếu tố cơ bản cho quá trình kinh doanh như: sức lao
động, đối tượng lao động, tư liệu lao động. Dưới sự kết hợp của các yếu tố này
mà các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đã được tạo ra. Khi hàng hóa, dịch vụ
được xác định là tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ có doanh thu tiêu thụ. Doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển thì số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm ngoài bù đắp
chi phí đã bỏ ra còn phải có lãi. Như vậy số tiền ứng ra ban đầu không chỉ được
bảo tồn mà còn phải được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại. Toàn bộ
giá trị ứng ra ban đầu và ứng ra cho các quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo
được gọi là vốn. Vốn là một phạm trù kinh tế, nó tồn tại dưới cả hình thái vật chất
cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể. Tuy nhiên đứng trên góc độ xã hội
thì hiện nay quan niệm về vốn vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất, ví dụ như:
- Theo từ điển Tiếng Việt thì vốn là tài sản bỏ ra lúc đầu thường biểu hiện
bằng tiền dùng cho sản xuất kinh doanh, trong các hoạt động sinh hoạt.
- Trong dân gian lâu nay vẫn tồn tại quan niêm: “có vốn có lợi” – nghĩa là
vốn phải sinh ra lãi, tuy nhiên do hạn chế về trình độ phảt triển của nền kinh tế xã
hội nên quan niệm về vốn vẫn còn hạn hẹp, trong quan niệm về vốn và lãi ở trên
thì hình thái biểu hiện của vốn và lãi chỉ dừng lại ở hình thái tiền (tiền vốn là tiền
lãi) mà chưa biết đến các hình thái biểu hiện khác của vốn như nguồn tài nguyên,
nguồn sửc lao động hay các biểu hiện hình thái tài chính khác. Còn phổ biến quan
niệm vốn – hòa hoặc là vốn – lỗ tức là vốn bỏ ra có thể không sinh lãi mà chỉ
dừng lại ở điểm hòa vốn, có trường hợp lỗ vốn, điều này chứng tỏ là chưa thực sự
quán triệt tư tưởng bỏ vốn là phải có lãi còn không sinh ra lãi thì không phải là
vốn
Cả hai quan niệm trên thì chỉ dừng lại ở việc coi vốn chính là tiền bỏ ra ban
đầu, tuy nhiên tiền chỉ được coi là vốn kinh doanh khi nó được đảm bảo điều kiện
5


sau: thứ nhất tiền phải đại diện cho một lực lượng hàng hóa nhất đinh (phải được

đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực); thứ hai tiền phải được tích tụ và tập
trung đến một lượng nhất định, đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh; thứ
ba khi đã đủ về số lượng tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lợi.
- Trong các tài liệu kinh tế học của phương Tây thì quan niệm về vốn chính là
quan niệm về Tư Bản – Tư Bản tức là phải sinh lợi nhuận. Lúc này chúng ta phải
trừu tượng hóa mối quan hệ của Tư Bản – quan hệ bóc lột, chúng ta chỉ nhìn tư bản
trên phương diện là Tư Bản sinh ra giá trị thặng dự.
Như vậy, từ các phân tích trên có thể kết luận: “vốn kinh doanh của doanh
nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình
được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời”
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp luôn
vận động và không ngừng thay đổi hình thái, tạo thành quá trình luân chuyển vốn.
Quá trình luân chuyển vốn trải qua các giai đoạn sau:
- Giai đoạn dự trữ sản xuất: Trong giai đoạn này doanh nghiệp ứng ra vốn
tiền tệ để mua sắm các yếu tố sản xuất như tài sản cố định, nguyên nhiên vật liệu,
công cụ dụng cụ và các yếu tố khác
- Giai đoạn sản xuất: Trong giai đoạn này các yếu tố sản xuất được kết hợp
với nhau tạo ra sản phẩm mới. Trong quá trình sản xuất vốn tồn tại dưới hình thái
như chi phí chờ phân bổ, sản phẩm đang chế tạo
- Giai đoạn lưu thông: Trong giai đoạn này, doanh nghiệp bán sản phẩm và thu
tiền về. Vốn từ hình thái hàng hóa chuyển lại hình thái tiền tệ ban đầu (H’ – T’) và kết
thúc quá trình luân chuyển vốn. Và quá trình luân chuyển vốn tiếp theo lại bắt đầu
Như vậy có thể nhận thấy vốn được đề cập đền trên nhiều phương diện
khác nhau như: vốn phản ánh các quan hệ kinh tế trong xã hội, vốn là một phạm
trù hạch toán thể hiện các quan hệ so sánh, vốn là một phạm trù của cơ chế và có
nhiều hình thái biểu hiện khác nhau trong quá trình vận động. Và quá trình vận
6


động thì vốn được đảm bảo rằng điểm xuất phát và điểm cuôi cùng của vòng tuần

hoàn vốn là giá trị - là tiền, tuy nhiên đồng tiền ở điểm cuối cùng phải có giá trị
lớn hơn đồng tiền ở điểm xuất phát, đây là nguyên lý của vấn đề đầu tư, sử dụng
và bảo toàn vốn kinh doanh.
1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Để tiến hành quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả cần tiến hành phân loại
vốn kinh doanh của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau tùy theo mục tiêu
quản lý vốn. Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp mà quy mô vốn kinh doanh,
cơ cấu, thành phần của chúng cũng khác nhau. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại
vốn trong doanh nghiệp, thông thường có các cách phân loại sau:
1. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn kinh doanh thì gồm các loại sau:
+ Vốn chủ sở hữu: là vốn mà chủ sở hữu doanh nghiệp phải ứng ra để mua
sắm, xây dựng các tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi doanh
nghiệp thành lập thì vốn chủ sở hữu hình thành vốn điều lệ của doanh nghiệp. Khi
doanh nghiệp đi vào hoạt động thì ngoài vốn điều lệ còn có một lượng vốn khác
cũng thuộc vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển...và
vốn do nhà nước đầu tư (nếu có).
+ Vốn vay: là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp
có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế như bao gồm các khoản vay
ngắn hạn, dài hạn của ngân hàng, và các tổ chức tín dụng; các khoản phải trả
khách hàng; các khoản phải nộp ngân sách, các khoản phải trả công nhân viên và
các khoản phải trả khác.
Việc phân chia vốn theo tiêu thức này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ
cấu nguồn tài trợ từ góc độ sở hữu của vốn kinh doanh. Vốn chủ sở hữu giúp cho
doanh nghiệp tăng khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp minh, còn các
khoản vốn vay một mặt nó có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn trong ngắn hạn
hoặc trong dài hạn, có thể huy động được một lượng vốn lớn, tức thời cho doanh
7


nhưng một mặt nó lại có ảnh hưởng ngược lại đến khả năng tự chủ của doanh

nghiệp, không những thế nó còn tăng thêm gánh nặng cho doanh nghiệp vì phải
trả lãi vay, nhất là trong điều kiện kinh doanh khó khăn. Vì vậy doanh nghiệp cần
phải xem xét nguồn tài trợ tối ưu để tăng hiệu quả sử dụng vốn của mình.
2. Căn cứ theo vai trò đặc điểm luân chuyển của vốn, chia thành:
+ Vốn cố định của doanh nghiệp: Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp
Tài sản cố định của doanh nghiệp là các tư liệu lao động chủ yếu có giá trị
lớn, thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, còn
giá trị của nó được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Tài sản
cố định được chia thành hai loại là tài sản cố định hữu hình (nhà xưởng, máy
móc, thiết bị, phương tiện vận tải....trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh) và tài sản cố định vô hình (bằng sáng chế, phát minh, bản quyền....)
Như vậy có thể nói vốn cố định là số vốn đầu tư ứng trước của tài sản cố
định, do vậy quy mô của vốn cố định lớn hay nhỏ sẽ quyết định tới quy mô của tài
sản cố định cúng như trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản xuất
của doanh nghiệp và ngược lại đặc điểm kinh tế kỹ thuật của tài sản cố định trong
quá trình tham gia hoạt động kinh doanh lại có ảnh hưởng chi phối đến đặc điểm
tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Do vậy số vốn này cần phải được quản
lý và thu hồi một cách đầy đủ thông qua việc xác định giá trị hao mòn hay khấu
hao tài sản cố định. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể đầu tư đổi mới máy móc
thiết bị để phục vụ cho các quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của thị trường.
+ Vốn lưu động của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài
sản lưu động của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục

8


Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những đối tượng lao động được sử

dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Tài sản lưu động
của doanh nghiệp được chia thành hai loại là tài sản lưu động sản xuất (nguyên
vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dang dở...) và tài sản lưu động lưu thông (sản
phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, chi
phí trả trước..) trong quá trình sản xuất kinh doanh thì các tài sản lưu động sản
xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động thay thế và chuyển hóa lẫn nhau
phải đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục có thể mô tả một
cách khái quát quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
TSLĐ LT - TSLĐ SX - TSLĐ LT - TSLĐ SX
T – H......SX........H’ – T’ – H”......
Vì vốn lưu động hình thành nên tài sản lưu động nên bản thân vốn lưu động
mang một số đặc điểm cơ bản như: vốn lưu động luôn chuyển hóa qua nhiều hình
thái khác nhau bắt đầu tư tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư, hàng hóa đưa vào
sản xuất lưu thông và cuối cùng trở về hình thái tiền tệ ban đầu, vốn lưu động
chuyển dịch toàn bộ giá trị một lần vào giá trị sản phẩm sản xuất. Quá trình vận
động của vốn lưu động diễn ra thường xuyên liên tục và có chu kỳ. Từ những đặc
điểm đó của vốn lưu động thì đòi hỏi công tác quản lý vốn phải được quản tâm từ
viêc dự đoán nhu cầu, huy động và sử dụng vốn phải phù hợp, sát thực với tình
hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải áp dụng các biện pháp
thích ứng nhằm tổ chức quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao, đẩy nhanh tốc
độ luân chuyển vốn rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh
Việc phân chia vốn thành vốn cố định và vốn lưu động có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong quản lý và sử dụng vốn đối với mỗi loại, hơn nữa cách phân chia
này cho phép nghiên cứu vai trò của mỗi loại vốn. Nếu như vốn cố định phản ánh
trình độ năng lực sản xuất của doanh nghiệp thì vốn lưu động là điều kiện để đảm
bảo cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục và ổn định. Do đó doanh
9


nghiệp cần phải xác định cơ cầu và quy mô của mỗi loại một cách chính xác và

khoa học dựa trên những định mức kinh tế kỹ thuật tiên tiến mới có thể chủ động
bảo toàn và phát triển vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
c. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn
+ Vốn bên trong doanh nghiệp
+ Vốn bên ngoài doanh nghiệp
Với cách phân loại này doanh nghiệp phải lựa chọn sao cho hiệu quả kinh
tế là lớn nhất, chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. Việc huy động vốn bên trong có
ưu điểm là giúp doanh nghiệp tự chủ về sử dụng vốn, không phải bỏ chi phí cho
việc sử dụng vốn, mặt khác nó làm gia tăng mức độ độc lập về tài chính cho
doanh nghiệp. Còn huy động vốn từ bên ngoài tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu
tài chính linh hoạt hơn, mặt khác có thể làm tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu rất
nhanh nếu mức doanh lợi đạt được cao hơn chi phí sử dụng vốn và ngược lại. Đây
là một đặc điểm tiêu biểu khi huy động vốn từ bên ngoài, nếu nguồn vốn bên
ngoài doanh nghiệp được huy động một cách hợp lý thì sẽ tạo ra đòn bẩy tài chính
thúc đẩy doanh nghiệp phát triển rất cao.
d. Căn cứ vào thời gian huy động vốn
+ Vốn thường xuyên: có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng
dài hạn vào hoạt động sản xuất kinh doanh
Nguồn vốn thường xuyên = vốn chủ sở hữu + nợ dài hạn
= giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp – nợ ngắn hạn
+ Vốn tạm thời: có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có
thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu tạm thời về vốn phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh
Nguồn vốn tạm thời = tổng tài sản lưu động – nguồn vốn lưu động thường xuyên
Việc phân loại này giúp cho nhà quản lý xem xét huy động vốn một cách
phù hợp với thời gian sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho sản xuất kinh
10


doanh mà lại tiết kiệm tối đa chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp và có cơ sở để

lập kế hoạch tài chính trong những khoảng thời gian tiếp theo.
1.2. Đặc trưng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Các yếu tố tác động khách quan của nền kinh tế tác động lên mỗi doanh
nghiệp là như nhau song ảnh hưởng của các tác động này đối với mỗi doanh
nghiệp là khác nhau do mỗi loại hình doanh nghiệp nói chung và mỗi doanh
nghiệp trong nền kinh tế nói riêng có những đặc thù riêng, có những yếu tố của
nền kinh tế có sức ảnh hưởng nhiều đối với loại hình kinh tế này đối với doanh
nghiệp này nhưng lại ít ảnh hưởng tới loại hình kinh tế khác, doanh nghiệp khác.
Tính đặc thù của mỗi doanh nghiệp dẫn tới vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
ngoài những đặc trưng chung của vốn kinh doanh trong nền kinh tế còn mang
những đặc trưng riêng vốn có của từng doanh nghiệp. Nhìn chung vốn kinh doanh
trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế có một số đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất: Vốn phải được thể hiện bằng một lượng tài sản có giá trị thực
được sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra một lượng giá trị sản
phẩm khác. Điều này có nghĩa là không phải tất cả các tài sản đều là vốn mà chỉ
có các tài sản hoạt động mới được gọi là vốn, còn những tài sản tĩnh thì gọi là vốn
tiềm năng. Vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và
tài sản cố định vô hình như nhà xưởng, thiết bị, đất đai, chất xám...Nếu một lượng
tiền thoát ly khỏi giá trị thực của hàng hóa thì không gọi là vồn đầu tư. Nhận thức
được điều này thì các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để huy động được nhiều tài
sàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, biến vốn tiềm năng thành vốn hoạt động.
Thứ hai: vốn phải được vận động sinh lời tạo ra một lượng giá trị mới lớn
hơn giá trị ban đầu. Vốn là biểu hiệu của tiền, nhưng tiền chỉ là một dạng tiềm
năng của vốn, để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được vận động sinh lời.
Trong một vòng tuần hoàn của vốn thì phải theo công thức sau:

11


T - ....... - T’ với điều kiện T’>T. Vốn của một doanh nghiệp bỏ ra để

đầu tư một dự án Thủy điện thì cũng phải tuân theo quy luật của vòng tuần hoàn
trên. Việc đẩy nhanh chu kỳ tuần hoàn của vốn đối với loại hình doanh nghiệp này
sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng thêm lợi nhuận.
Thứ ba: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có
thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Một lượng vốn chưa
đủ lớn để trang trải những chi phí đầu tư ban đầu thì không thể tiến hành sản xuất
kinh doanh được. Do đó, các doanh nghiệp không chỉ khai thác tiềm năng về vốn
của doanh nghiệp mà còn phải tìm cách thu hút nguồn vốn như góp vốn, hùn vốn,
phát hành cổ phiếu, nhận vốn liên doanh....
Thứ tư: Vốn luôn có giá trị về mặt thời gian. Điều này có nghĩa là phải xem
xét yếu tố thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đặc trưng
này không được xem xét kỹ lưỡng vì nhà nước tạo ra sự ổn định của đồng tiền một
cách giả tạo trong nền kinh tế lúc đó. Nhưng trong nền kinh tế thị trường phải xem
xét giá trị của thời gian bởi sức mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau là
khác nhau do ảnh hưởng của giá cả lạm phát. Nhận thức được đặc trưng này của
vốn để tránh được việc so sánh đơn thuần là thu nhập bù đắp chi phí có lãi, một
việc làm khá phổ biến diễn ra lâu nay tạo ra hiện tượng “lãi giả, lỗ thật” trong các
doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa. Đặc trưng này phục vụ cho việc tính
toán các phương pháp bảo toàn vốn là phải đưa vốn về cùng một thời điểm để so
sánh. Như vậy, trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư khi bỏ đồng vốn ra đầu tư
thì cần phải xem xét lợi ích tại thời điểm bỏ ra và thu về được bao nhiêu. Bởi nền
kinh tế xã hội luôn biến động ở các thời điểm khác nhau đồng tiền có thể trượt giá
khác nhau nên cần phải tính toán vấn đề lỗ - lãi trong khi đầu tư.
Thứ năm: Vốn được quan niệm như một thứ hàng hóa đặc biệt và cũng như
mọi thứ hàng hóa khác nó có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của “hàng hóa vốn”
là ở chỗ khi sử dụng hàng hóa đó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn. Như mọi hàng hóa
12


khác, “hàng hóa vốn” được mua bán trên thị trường dưới hình thức mua bán quyền

sử dụng vốn. Giá mua chính là lãi suất mà người vay vốn phải trả cho người cho
vay vốn (chủ sở hữu) để có được quyền sử dụng lượng vốn đó. Giá cả này tăng,
giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là quan hệ cung cầu trên thị trường.
Người vay vốn có quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Việc mua bán
được diễn ra trên thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, giá mua bán vốn
cũng tuân theo quy luật cung cầu trên thị trường vốn.
Thứ sáu: Vốn bao giờ cũng gắn với một chủ sở hữu nhất định, rõ ràng là
không thể có những đồng vốn vô chủ. Chỉ khi nào xác định rõ đích thực chủ sở hữu
thì đồng vốn mới nhận thức được đầy đủ, chi tiêu mới tiết kiệm và có hiệu quả.
Nhưng cũng có thể người sử dụng vốn để thực hiện kinh doanh không phải là
người chủ sở hữu đồng vốn đó, nhưng nó vẫn có chủ sở hữu nhất định, người chủ
sở hữu này được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu của
mình. Đặc trưng này có ý nghĩa lớn đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp bỏ
vốn ra đầu tư, như vậy họ đã trở thành chủ sở hữu của đồng vốn và họ cần phải biết
việc vốn của mình bỏ ra có thu được hiệu quả cao hay không.
Thứ bảy: Trong quá trình sản xuất kinh doanh cùng một lúc vốn tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau. Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền giá trị của các
tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản vô hình như
vị trí địa lý, lợi thế thương mại, nhãn mác sản phẩm, bằng phát minh sáng chế.
Chính vì lẽ đó cần phân biệt vốn và tài sản của các doanh nghiệp để từ đó có sự
quản lý cho sát sao. Vốn là một lượng tiền tệ mà các chủ doanh nghiệp đầu tư vào
các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, còn tài sản là biểu hiện hình thái
vật chất của vốn như TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, hàng hóa, vật tư, nợ phải
thu, các khoản đầu tư khác của doanh nghiệp. Đặc trưng này có ý nghĩa quan
trọng vì nó cho thấy công dụng đa dạng của các loại vốn mà doanh nghiệp đầu tư,

13


buộc các nhà quản lý phải xem xét đến quá trình sử dụng vốn như thế nào sao cho

hiệu quả.
Với những đặc điểm như trên, vốn kinh doanh còn thể hiện vai trò của
mình đó là:
Vốn đảm bảo sự hoạt động của doanh nghiệp được thường xuyên, liên tục.
Trong doanh nghiệp, vốn là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Không có vốn không thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, sự thiếu hụt vốn cho sản xuất kinh doanh sẽ làm cho quá trình
sản xuất bị đình trệ, gián đoạn do thiếu tài sản bổ sung cho quá trình hoạt động.
Do đó vố kinh doanh là yếu tố không thể thiếu cho hoạt động của doanh nghiệp
Vốn có vai trò quan trọng trong định hướng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp sản xuất theo nhu cầu của thị
trường, do vậy doanh nghiệp sản xuất cái gì? Đầu tư vào lĩnh vực nào đều phải
tính đến quy mô vốn và hiệu quả do đồng vốn mang lại
Vai trò của vốn đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để đi đến kết quả cuối cùng là
lợi nhuận, vốn kinh doanh luôn là “tấm gương” phản ánh hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp. Đạt được lợi nhuận cao nhưng vốn kinh doanh bị sử dụng lãng phí
thì cũng không thể coi doanh nghiệp đó làm ăn có hiệu quả. Vốn kinh doanh nằm
ở mọi khâu của quá trình sản xuất, ở nhiều hình thái biểu hiện. Do đó nó phản ánh
thực chất nhất việc quản lý và sử dụng vốn trong từng khâu, từng công đoạn sản
xuất. Điều cốt lõi nhất là doanh nghiệp nên sử dụng tiết kiệm tối đa đồng vốn
nhưng vẫn mang lại mức lợi nhuận cao nhất.
1.3. Hiệu quả vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
1.3.1. Hiệu quả vốn kinh doanh trong doanh nghiệp

14


Hiệu quả là một khái niệm được đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Để
thấy được bản chất và tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn, doanh nghiệp cần quan

tâm những vấn đề sau:
+ Hiệu quả sử dụng vốn phải thể hiện hai mặt: bảo toàn được vốn và tạo ra các
kết quả theo mục tiêu kinh doanh trong đó đặc biệt là mục tiêu sinh lời của đồng vốn
+ Kết quả lợi ích cho sử dụng vốn phải thoải mãn đáp ứng lợi ích của
doanh nghiệp, các nhà đầu tư ở mức độ mong muốn cao nhất, đồng thời nâng cao
lợi ích kinh tế xã hội
+ Cần xem xét cả hai mặt: tối thiểu hóa lượng vốn sử dụng và thời gian sử
dụng của doanh nghiệp
Tùy theo từng cách tiếp cận khác nhau và mục đích nghiên cứu khác nhau
mà người ta có các cách hiểu khác nhau về hiệu quả sử dụng vốn
- Xét trên quan điểm hạch toán kế toán thì hiệu quả sử dụng vốn là một bộ
phận của hiệu quả kinh doanh, nó góp phần tạo nên hiệu quả của toàn bộ hoạt
động sản xuất kinhdoanh trong doanh nghiệp bởi vốn chỉ là một yếu tố của hoạt
động kinh doanh. Về mặt lượng thì hiệu quả kinh doanh biểu hiện mối tương quan
giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để thực hiện sản xuất kinh doanh. Về mặt
chất, hiệu quả kinh doanh phản ánh năng lực, trình độ quản lý đồng thời cũng đòi
hỏi việc gắn giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội
Như vậy có thể hiểu, hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế được xác
định trên cơ sở so sánh giữa đầu ra và đầu vào thông qua các chỉ tiêu lợi ích, chi
phí. Vậy phải chăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đồng nghĩa với hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn là một khái niệm rất rông bao
gồm cả hiệu quả kinh doanh cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội là thước đo mức
độ tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn nhân lực nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế chính trị xác hội
nhất định. Hiệu quả sử dụng vốn thường được biểu hiện thông qua quan hệ so
15


sánh giữa các lợi ích trực tiếp và lợi ích gián tiếp thu được với các chi phí trực
tiếp và gián tiếp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu coi hiệu quả

sản xuất kinh doanh là mục tiêu thì hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện hữu hiệu
để đạt được mục tiêu đó. Nói đến sử dụng vốn có hiệu quả nghĩa là trong quá
trình hoạt động kinh doanh phải thu được lợi ích cao nhất tương ứng với phần chi
phí bỏ ra là thấp nhất. Như vậy hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sản xuất kinh
doanh là hai phạm trù biện chúng cho nhau. Sản xuất kinh doanh chỉ đạt được
mục tiêu cao khi hiệu quả sử dụng vốn cao
Tóm lại: hiệu quả sử dụng vốn phản ánh một mặt của sản xuất kinh doanh,
là thước đo trình độ quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp trong việc tối đa
hóa lợi ích thu được và tối thiểu hóa chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
1.3.2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh
nghiệp
Hiệu quả sử dụng vốn là biểu hiện một mặt của hiệu quả kinh doanh, nó
phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp nói chung và của
doanh nghiệp đầu tư vào các dự án thủy điện nói riêng. Tuy nhiên đối với chủ
doanh nghiệp và đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp và dự án thì làm thế
nào để xác định được rằng số vốn mà doanh nghiệp đã và đang sử dụng thực sự
có hiệu quả hay không?
Trên cơ sở khoa học và thực tế đã chỉ ra rằng có rất nhiều tiêu thức xác
định mức độ hiệu quả của số vốn đang được sử dụng tủy theo mục tiêu giá trị và
mức độ kinh doanh của doanh nghiệp. Sau đây đưa ra một vài chỉ tiêu để đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp như sau:
- Chỉ tiêu vòng quay toàn bộ vốn được xác định theo công thức sau:
Vòng quay toàn bộ vốn =

Doanh thu thuần
Vốn kinh doanh bình quân
16

(1.1)



Chỉ tiêu này phản ánh vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được nhiêu
vòng. Vòng quay càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng càng cao.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh được xác định theo công thức 1.2.
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
=

Lợi nhuận trước (sau thuế)
Vốn kinh doanh bình quân

(1.2)

Đây là chỉ tiêu dùng để đo lường mức độ sinh lời của đồng vốn, từ đó để
đánh giá hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh còn được đánh giá qua chỉ tiêu tỷ suẩt lợi
nhuận doanh thu và vòng quay tổng vốn
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh = tỷ suất lợi nhuận doanh thu * vòng quay tổng vốn
- Doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định theo công thức 1.3:
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân

Doanh lợi vốn chủ sở hữu =

(1.3)

Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của đồng vốn chủ sở hữu và đây cũng
chính là mục tiêu của doanh nghiệp
Trên đây là các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn kinh doanh nói chung, để có thể
đánh giá nhìn nhận một cách chính xác về tiềm lực của doanh nghiệp thì người ta sử

dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại vốn sau:
Thứ nhất: hiệu suất sử dụng vốn cố định
Vốn cố định là vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định và sau một thời gian dài
mới thu được toàn bộ. Do vậy việc sử dụng tốt vốn cố định hiện có là vấn dề có ý
nghĩa kinh tế rất lớn ảnh hưởng trực tiếp tới sự tăng trưởng của doanh nghiệp, để đánh
giá trình độ tổ chức và sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp cần sử dụng chỉ tiêu
hiệu suất sử dụng vốn cố định.
17


Với ý nghía đó, việc kiểm tra tài chính nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng vốn cố
định được coi là một nội dung quan trọng của công tác tài chính doanh nghiệp. Nhờ
kiểm tra hiệu suất sử dụng vốn cố định, người quản lý sẽ có những căn cứ xác đáng để
đưa ra các quyết định tài chính cho đầu tư, điều chỉnh quy mô sản xuất cho phù hợp và
đề ra những biện pháp hữu hiệu nhằm khai thác tiềm năng sẵn có nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
Để đánh giá hiệu suất sử dụng vốn cố định, người ta thường sử dụng một số chỉ
tiêu chủ yếu sau:
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định: được xác định theo công thức 1.4:
Hiệu suất sử dụng VCĐ=

Doanh thu thuần trong kỳ
Số VCĐ bình quân sử dụng trong kỳ

(1.4)

Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn cố định có thể tham gia tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu thuần bán hàng trong kỳ
Để đánh giá đúng mức hiệu quả quản lý và sử dụng VCĐ của từng thời kỳ, chỉ
tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định cần phải được xem xét trong mối liên hệ với chỉ

tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Chỉ tiêu này có thể được xác định theo công
thức 1.5:
Hiệu suất sử dụng TSCĐ=

Doanh thu thuần trong kỳ
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ

(1.5)

Nguyên giá TSCĐ có tính chất bình quân được tính theo phương pháp bình
quân số học và tùy theo số liệu đã có để có cách tính thích hợp
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản cố định trong kỳ tham gia tạo ra bao
nhiêu đồng doanh thu thuần. Thông qua chỉ tiêu này cũng cho phép đánh giá trình độ
sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Khi sử dụng hai công thức trên cần chú ý: Nếu
để so sánh các thời kỳ khác nhau thì doanh thu thuần bán hàng phải được điều chỉnh
theo giá cố định tức là phải loại trừ các yếu tố trượt giá
18


- Hệ số huy động vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh mức độ huy động vốn cố
định hiện có vào hoạt động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Công thức xác
định như sau:
Hệ số huy động VCĐ trong kỳ=

Số VCĐ đang dùng trong HĐKD
Số VCĐ hiện có của doanh nghiệp

(1.6)

Số vốn cố định được tính trong công thức trên được xác định bằng giá trị còn

lại của tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp tại thời
điểm đánh giá phân tích
- Hệ số hao mòn tài sản cố định: chỉ tiêu này một mặt phản ánh mức độ hao
mòn của tài sản cố định trong doanh nghiệp, mặt khác nó phản ánh tổng quát tình
trạng về năng lực còn lại của tài sản cố định cũng như vốn cố định ở thời điểm đánh
giá được tính theo công thức (1.7):
Hệ số hao mòn TSCĐ=

Số khấu hao lũy kế của TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Tổng nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá

(1.7)

- Hệ số hàm lượng vốn cố định: là số nghịch đảo của hệ số hiệu suất sử dụng
vốn cố định được xác định theo công thức sau:
Số VCĐ bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ

Hàm lượng VCĐ=

(
1.8)

Thứ hai: Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường
xuyên, liên tục, ngoài ra các tài sản cố định thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một
lượng tài sản lưu động nhất định. Tài sản lưu động của doanh nghiệp gồm hai bộ
phận: tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông. Muốn hình thành
nên các tài sản lưu động doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ nhất định
đầu tư vào các tài sản đó. Số vốn này được gọi là vốn lưu động của Doanh

nghiệp. Vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên vận động, chuyển hóa lần
lượt qua nhiều hình thái khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất, vốn lưu động
19


từ hình thái ban đầu là tiền được chuyển hóa sang hình thái vật tư dự trữ, sản
phẩm dang dở, thành phẩm hàng hóa, khi kết thúc quá trình tiêu thụ lại trở về hình
thái ban đầu là tiền. Quá trình họat động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên
tục không ngừng, nên sự tuần hoàn của vốn lưu động diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại
có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn lưu động
Để đánh giá trình độ tổ chức và sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cần sử
dụng chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động của
doanh nghiệp được biểu hiện qua các chỉ tiêu sau:
- Tốc độ luân chuyển vốn lưu động: việc sử dụng hợp lý vốn lưu động biểu hiện
ở tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay
chậm nói lên hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cao hay thấp. Tốc độ
luân chuyển vốn lưu động được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu: số lần luân chuyển và kỳ
luân chuyển vốn lưu động
+ Số lần luân chuyển vốn lưu động (hay số vòng quay của vốn lưu
động), được xác định bằng công thức (1.9):
L =

M
Vld

(1.9)

Trong đó: L: là số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ
M: là tổng mức luân chuyển của vốn lưu động ở trong kỳ. Hiện nay tổng
mức luân chuyển vốn lưu động được xác dịnh bằng doanh thu thuần bán hàng của

doanh nghiệp ở trong kỳ
Vld : là số vốn lưu động bình quân sử dụng ở trong kỳ được xác định bằng

phương pháp bình quân số học. Tùy theo số lượng có thể sử dụng cách tính thích hợp.
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển vốn lưu động hay số vòng quay của vốn lưu
động thực hiện được trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
+ Kỳ luân chuyển của vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình
quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một lần luân chuyển hay độ dài thời gian một
vòng quay của vốn lưu động ở trong kỳ. Công thức tính như sau:
20


K=

N
L

hay K =

N x Vld
M

(1.10)

Trong đó: K: là kỳ luân chuyển vốn lưu động
N: là số ngày trong kỳ được tính chẵn một năm là 360 ngày, một quý là 90
ngày, một tháng là 30 ngày
M: là tổng mức luân chuyển của vốn lưu động ở trong kỳ. Hiện nay tổng
mức luân chuyển vốn lưu động được xác định bằng doanh thu thuần bán hàng của
doanh nghiệp ở trong kỳ

Vld : là số vốn lưu động bình quân sử dụng ở trong kỳ được xác định bằng

phương pháp bình quân số học. Tùy theo số lượng có thể sử dụng cách tính thích hợp.
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển vốn lưu động hay số vòng quay của vốn lưu
động thực hiện được trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm)
Kỳ luân chuyển vốn lưu động tỷ lệ nghịch với số lần luân chuyển của vốn
lưu động. Nếu doanh nghiệp phấn đấu rút ngắn kỳ luân chuyển thì sẽ tăng số vòng
quay vốn lưu động. Từ công thức tính kỳ luân chuyển vốn lưu động cho thấy thời
gian luân chuyển vốn lưu động phụ thuộc vào số vốn lưu động bình quân sử dụng
trong kỳ và tổng mức luân chuyển vốn lưu động có ý nghĩa quan trọng đối với
việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động và nâng cao hiệu suất sử dụng vốn lưu
động
Sau khi vốn lưu động luân chuyển xong một vòng thì một phần lợi nhuận
cũng được thực hiện. Do đó việc tăng hiệu suất luân chuyển vốn lưu động sẽ góp
phần tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tính
hiệu suất sử dụng vốn lưu động trên cơ sở tốc độ luân chuyển vốn lưu động cũng
còn một số hạn chế nhất định do đó ngoài chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu
động, người ta còn đo lường bằng một số các chỉ tiêu khác như: mức tiết kiệm
vốn lưu động, hàm lượng vốn lưu động ...
- Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn: Chỉ tiêu này
phản ánh số vốn lưu động có thể tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển vốn
21


lưu động ở kỳ so sánh (kỳ kế hoạch) so với kỳ gốc (kỳ báo cáo), được xác định
theo công thức (1.11)

Vtk( ± ) =

M1

x ( K1 − K 0)
360

hoặc

M1
M1

L1
L0

(1.11)

Trong đó: Vtk: là số vốn lưu động có thể tiết kiệm (-) hay phải tăng thêm (+) do ảnh
hưởng của tốc độ luân chuyển vốn lưu động kỳ so sánh với kỳ gốc
M1: là tổng mức luân chuyển vốn lưu động kỳ so sánh (kỳ kế hoạch)
K1, K0: là kỳ luân chuyển vốn lưu động kỳ so sánh, kỳ gốc
L1, L0: là số lần luân chuyển vốn lưu động kỳ so sánh, kỳ gốc
- Hàm lượng vốn lưu động (còn gọi là mức đảm nhiệm vốn lưu động) là số vốn
luuy động cần có để đặt một đồng doanh thu về tiêu thụ sản phẩm. Được tính theo
công thức (1.12)
=

Hàm lượng vốn lưu động
Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh

Vld
Sn

(1.12)


Trong đó:
Sn: Doanh thu thuần bán hàng trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng
doanh thu thuần về bán hàng cần bao nhiêu vốn lưu động
Để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn lưu động cần quản lý chặt chẽ và sử dụng
có hiệu quả vốn lưu động
Trên đây là một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu suất sử dụng vốn của doanh
nghiệp. Trên thực tế tùy theo từng loại hình doanh nghiệp mà có những chỉ tiêu
đánh giá khác.
1.3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp trong
cơ chế quản lý kinh tế mới
1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp
trong cơ chế quản lý kinh tế mới
22


Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của
bản thân doanh nghiệp mà còn là sự quan tâm của các nhà đầu tư, của các cấp, các
ngành và của toàn xã hội, đó là vấn đề sống còn trong môi trường cạnh tranh ngày
càng diễn ra gay gắt, là giải pháp tích cực nhất nhằm giải quyết sự đòi hỏi kinh tế
ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu khách quan của quá trình CNH – HĐH đất nước.
Vốn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vấn đề mà
doanh nghiệp quan tâm là khả năng sinh lời và phát triển của đồng vốn vì điều
này liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng
vốn có hiệu quả sẽ góp phần làm tăng số lượng giá trị TSCĐ, TSLĐ của doanh
nghiệp và của xã hội, hình thành những tiềm lực sản xuất mới, tạo điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế của đất nước. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một tất yếu
khách quan của các doanh nghiệp được xuát phát từ những lý do sau đây:

+ Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp: Với bất kỳ doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh nào đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là
kết quả tài chính cuối cùng của các họat động sản xuất kinh doanh, là khoản
chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được khoản thu
nhập đó. Để có thể đạt mức lợi nhuận cao thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải
chú trọng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Vốn là phạm trù kinh tế quan trọng trong doanh nghiệp. Nó
được sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh nhưng doanh nghiệp sẽ không
thể tồn tại nếu quá trình kinh doanh đó thua lỗ kéo dài. Vì vậy để phát huy vai trò
của vốn kinh doanh thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mục tiêu đầu tiên
của các nhà quản lý.
+ Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
23


Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp tăng nhanh
được vòng quay của vốn. Nếu vốn được sử dụng hiệu quả thì chỉ trong một thời
gian ngắn có thể đem lại doanh thu cao, đây là cơ sở làm tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nghĩa là doanh thu của doanh nghiệp tăng lên
và mức chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra ít hơn. Mỗi doanh nghiệp thường huy động
vốn từ nhiều nguồn khác nhau, nếu huy động vốn ở những nguồn chi phí sử dụng
vốn thấp như trong nội bộ doanh nghiệp, thông qua phát hành cổ phiếu....và biết kết
hợp hài hòa giữa tỷ lệ vốn dài hạn và vốn ngắn hạn, thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp sử dụng vốn được thuận lợi, chủ động hơn với mức chi phí sử dụng
vốn thấp. Đây là một nhân tố giúp doanh nghiệp hạ giá thành sản xuất góp phần tăng
lợi nhuận.
+ Xuất phát từ sự tác động của cơ chế: Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của
nền kinh tế quốc dân, một đơn vị kinh tế tự chủ, tự tổ chức, chịu trách nhiệm

trong quá trình sản xuất kinh doanh, tìm hiểu thị trường, đầu vào, đầu ra cho sản
phẩm. Do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ngày càng trở nên cần
thiết và cấp bách đối với doanh nghiệp
Ngoài ra, việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn còn giúp nền kinh
tế đất nước nói chung và các doanh nghiệp nói riêng tăng khả năng hội nhập với
cộng đồng thế giới
Tóm lại, từ những lý do trên có thể thấy rằng việc nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn trong doanh nghiệp là rất cần thiết. Nó góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh, tăng thị phần, tăng lợi nhuận, giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển
hơn.
2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp
trong cơ chế quản lý kinh tế mới

24


Để đảm bảo đủ vốn cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như
không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình các doanh nghiệp cần thực
hiện một số biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, phải luôn quan tâm tìm hiểu sự thay đổi của chính sách nhà nước có
liên quan, cập nhật tin tức một cách thường xuyên để có kế hoạch kịp thời thay đổi
chiến lược kinh doanh của mình vì bất cứ sự thay đổi nào của cơ chế quản lý và chính
sách kinh tế của Nhà nước đều có thể gây ra các ảnh hưởng nhất định tới hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra cũng phải quan tâm
đến sự ảnh hưởng của giá cả trên thị trường để có kế hoạch dự trữ nguyên vật liệu kịp
thời cho sản xuất.
Thứ hai, doanh nghiệp cần xem xét, tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu của thị trường
về các loại sản phẩm hàng hóa mà doanh nghiệp đang có hướng đầu tư, từ đó có
phương án sản xuất hợp lý, huy động vốn đầy đủ đảm bảo cho quá trình sản xuất được

liên tục.
Thứ ba, lập kế hoạch huy động sử dụng và bố trí cơ cấu vốn một cách phù hợp.
Khi có nhu cầu về vốn, trước hết doanh nghiệp cần tận dụng triệt để vốn bên trong để
kịp thời đáp ứng vốn cho sản xuất, và giảm được chi phí sử dụng vốn không cần thiết.
Đồng thời, doanh nghiệp cần phải xem xét thực tế của mình để xây dựng một kết cấu
vốn tối ưu và huy động các nguồn sao cho chi phí sử dụng vốn bình quân là thấp nhất.
Thứ tư, trên cơ sở phân loại vốn kinh doanh, doanh nghiệp cần đưa ra biện
pháp sao cho phù hợp với từng loại vốn.
- Đối với vốn cố định
+ Huy động tối đa tài sản cố định hiện có vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
nâng cao năng lực sản xuất góp phần tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm,
giảm hao mòn vô hình.

25


×