Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.17 KB, 18 trang )

Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Như chúng ta đã biết giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ
trẻ. Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người quyết
định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng sống,
các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng
và xã hội.
Trong trường học, việc giáo dục kĩ năng sống và rèn luyện sức khỏe cho học
sinh là vấn đề hết sức cần thiết. Nó góp phần hình thành nhân cách cho các em,
giúp các em tự tin chủ động, biết cách xử lý tình huống trong cuộc sống và quan
trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy, sáng tạo.
Từ năm 2010 – 2011, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục kĩ năng
sống lồng ghép vào các môn học như: Tự nhiên và Xã hội, Tiếng Việt, đạo đức, lịch
sử- Địa lí, Âm nhạc, Mĩ thuật…. và các hoạt động ngoài giờ lên lớp ở bậc tiểu học.
Tuy nhiên, để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố
chứ không chỉ từ các bài giảng. Kĩ năng sống không phải tự nhiên có được mà phải
hình thành dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá
trình hình thành kĩ năng sống diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục.
Thực tế cho thấy, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị
nhân cách, giàu ước mơ, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về
xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động... Đặc biệt trong bối
cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu
tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn
cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức.
Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống các em dễ bị lôi kéo
các hành vi tiêu cực, bạo lực, lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về
nhân cách. Một trong nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ
phận học sinh phổ thông trong thời gian qua như: đua xe, nghiện hút, bạo lực, ăn
chơi sa đoạ... chính là do các em thiếu những kĩ năng sống cần thiết như: kĩ năng
xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ
năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp... Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ


là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi và trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp trẻ có ứng phó tích cực trước các tình huống
trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người,
sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh.
Đối với học sinh lớp 1, là lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học, các em mới gia
nhập cuộc sống nhà trường, chưa biết ứng xử với mọi người xung quanh, chưa biết
tự tin trước đám đông, lúng túng khi gặp tình huống nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ
lúc nào… Vì vậy, sáng kiến được thực hiện áp dụng cho học sinh lớp 1 dân tộc
thiểu số qua môn đạo đức ngay từ lớp học đầu tiên, bậc học đầu tiên trong hệ thống
giáo dục quốc dân là vô cùng cấp thiết.
1


Giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức không những thể hiện ở nội dung
môn học mà còn được thể hiện ở phương pháp dạy học đặc trưng của môn học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Qua đó, học sinh đã
được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với
lứa tuổi.
Thực tế cho thấy, khi xã hội ngày càng phát triển thì cha mẹ có rất ít thời gian
chăm sóc con cái hoặc có xu hướng trái ngược là quan tâm thái quá, việc gì cũng
muốn làm thay cho trẻ. Với học sinh lớp 1 đa số các em là người dân tộc sống tại
địa bàn vừa bước chân vào môi trường học tập mới, các em chưa biết ứng xử với
mọi người xung quanh, còn rụt rè, nhút nhát… mà nguyên nhân bắt đầu từ thiếu kĩ
năng sống.
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số nói
riêng, cho học sinh bậc học phổ thông nói chung là vô cùng quan trọng. Và đạo đức
là môn học có tiềm năng to lớn trong việc giáo dục kĩ năng sống cho Tiểu học.
Từ những thực tế trên, tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình
thông qua đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1
dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức”.

II. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng việc dạy lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh lớp 1 dân
tộc thiểu số trong phân môn đạo đức. Trên cơ sở đó đề xuất rút ra ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân và nêu lên giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh trong thời gian tới.
Giúp học sinh có khả năng ứng xử trước các tình huống xảy ra trong cuộc
sống như tự tin, tự phục vụ, mạnh dạn giao tiếp và hợp tác, trung thực, có khả năng
tự giải quyết vấn đề.
Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
1. Kĩ năng sống là gì?
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là khả năng để có hành vi
thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày.
- Theo UNICEF, kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành
hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức hình
thành thái độ và kĩ năng.
- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO),
kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết, học làm người, học
để sống với người khác, học để làm.
Từ những quan niệm trên có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ
năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ
năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự
lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là
khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những
2


người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong
cuộc sống.

Quá trình dạy học tiết Đạo Đức là quá trình tổ chức cho học sinh thực hiện các
hoạt động học tập phong phú, đa dạng như : kể truyện theo tranh; quan sát hình
ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lý tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu
phẩm, múa hát,…Thông qua các hoạt động đó sự tương tác giữa GV - HS, HS GV, HS - HS được tăng cường và học sinh có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức
mới.
2. Đạo đức và vị trí môn Đạo đức trong giáo dục.
2.1 Khái niệm về đạo đức
- Đạo đức (đạo: lẽ phải, đức: điều tốt lành) là nguyên lí phải theo trong quan
hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội, tùy theo yêu cầu của chế độ
chính trị và kinh tế nhất định. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản văn hóa và thanh
niên, năm 2001)
- Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định
hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, là phẩm chất tốt đẹp
của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn nhất định mà có.
2.2 Vị trí của môn Đạo đức
Môn Đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng mà không một môn học nào có thể
thay thế được. Bởi lẽ, chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học
với hệ thống chuẩn mực hành vi đạo đức được quy định trong chương trình môn
học này. Môn đạo đức thực hiện ba nhiệm vụ sau:
+ Hình thành cho học sinh ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức (tri
thức và niềm tin), từ đó định hướng cho các em những giá trị đạo đức phù hợp với
những chuẩn mực được quy định trong chương trình môn Đạo đức.
+ Giáo dục cho học sinh những xúc cảm, thái độ, tình cảm đạo đức đúng đắn
liên quan đến các chuẩn mực hành vi quy định.
+ Hình thành cho các em những kĩ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực
và trên cơ sở đó, rèn luyện thói quen đạo đức tích cực.
2.3 Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc
thiểu số qua môn Đạo đức
Đạo đức là một môn học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5 ở trường Tiểu học, nhằm
giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực

xã hội. Dạy học môn đạo đức kết hợp hài hòa giữa việc trang bị kiến thức với bồi
dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kĩ năng hành vi cho học sinh.
Bản thân nội dung môn Đạo đức chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kĩ
năng sống như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử (với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè,
thầy cô giáo và mọi người xung quanh); kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng
ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi; kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá
nhân, kĩ năng tự phục vụ và tự quản lí thời gian, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin
về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở cộng đồng có liên quan đến
chuẩn mực hành vi đạo đức …
3


Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống qua môn đạo đức cho học sinh lớp 1dân
tộc thiểu số nói riêng, cho học sinh bậc học phổ thông nói chung có tầm quan trọng
rất lớn trong việc giáo dục học sinh những kĩ năng cần thiết khi các em mới bước
vào lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học..
II. Thực trạng vấn đề
1. Đặc điểm tình hình
Trường tiểu học Ea Bông có tổng số học sinh lớp Một là 66 em được chia
thành 03 lớp, trong đó có 02 lớp nằm trên địa bàn vùng khó khăn của xã Ea Bông –
huyện Krông Ana – tỉnh Đăk Lăk. Năm học 2018 – 2019, tôi được nhận nhiệm vụ
chủ nhiệm lớp 1C, với 22 em và 100% là học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu
số. Trong số đó có nhiều gia đình có vợ, chồng hoặc cả vợ và chồng đi làm ăn xa.
Có em bố mẹ ly hôn phải ở với ông bà từ khi còn nhỏ.
Thực tế, khi các em rời trường Mầm non và bước chân vào lớp 1, tất cả mọi nề
nếp, giờ giấc học tập, sinh hoạt còn xa lạ chưa vào một khuôn khổ nhất định, các
em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến nhất là các
em học sinh dân tộc thiểu số có sự chênh lệch rất lớn về kỹ năng sống so với các
em học sinh ở vùng thuận lợi, khả năng giao tiếp, ứng xử của các em thấp, nhiều
em rụt rè, nhút nhát, không tự tin, buông thả không điều chỉnh được hành vi của

mình. Chính vì lẽ đó mà việc giáo dục kĩ năng sống cho các em lồng ghép vào môn
học Đạo đức là rất cần thiết, để học sinh mạnh dạn hơn trước chỗ đông người, tự tin
chủ động trong tình huống cũng như biết cách ứng xử đơn giản nhất trong đời sống
hằng ngày.
2. Những thuận lợi và khó khăn
2.1 Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tổ khối và các thầy cô
trong nhà trường thường xuyên trao đổi qua các tiết dạy tốt, dạy chuyên đề, dự giờ,
sinh hoạt ngoại khóa tôi đã rút ra được nhiều điều bổ ích.
- Qua các phương tiện thông tin như: ti vi, đài, sách, báo….tài liệu giảng dạy.
- Lứa tuổi các em học mà chơi, chơi mà học nên các em rất dễ thâm nhập, tiếp
thu năng động và sáng tạo.
2.2 Khó khăn
Trường tiểu học Ea Bông là một trường thuộc vùng khó khăn có hai phân hiệu
thuộc xã Ea Bông – huyện Krông Ana – tỉnh Đắk Lắk. Đa số các em là dân tộc
thiểu số chủ yếu là dân tộc Ê – đê chiếm trên 70%. Trình độ dân trí còn thấp, cuộc
sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ giáo viên trong tổ chưa đồng
đều, kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Chất lượng giáo dục còn thấp.
Năm học 2018 – 2019, với tổng số học sinh là 66 em chia thành 3 lớp, trong
đó học sinh dân tộc thiểu số là 51 em chiếm tỉ lệ 77,3%. Đa số phụ huynh không có
nghề nghiệp ổn định, kinh tế khó khăn nên ít có điều kiện quan tâm các em. Phần
lớn các em chưa được gia đình chú ý quan tâm bồi dưỡng vốn kinh nghiệm trong
giao tiếp nên đến lớp các em thường hay nhút nhát. Mặc dù các em đã qua lớp
Mầm non song trong thực tế các em còn hạn chế về ngôn ngữ, về kĩ năng giao tiếp,
4


kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng tự phục vụ…. Khi tôi nhận lớp, đã sau
một thời gian học nhưng vẫn còn một số em đến lớp còn hay khóc. Gọi đọc bài
không dám đọc, không dám xung phong phát biểu, nhiều em còn chưa biết nói lời

thưa gửi, còn nói trống không, ngại giao tiếp với các bạn và thầy cô giáo.
Các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô giáo và các bạn, nhiều em
chưa nói được cụ thể họ và tên mình, họ tên bố mẹ, chưa phân biệt được anh em
trong nhà với anh em họ. Một số học sinh gần như ngồi im, chưa biết nói đủ một
câu, chưa có ý thức về học tập nghe giảng, chưa biết lĩnh hội kiến thức.
Đa số các em là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn sử dụng cả hai ngôn
ngữ: tiếng mẹ đẻ và Tiếng Việt, trong đó ngôn ngữ Tiếng Việt còn hạn chế và có
nhiều khó khăn, các em nói tiếng phổ thông chưa rành nên khi giảng dạy Kĩ năng
sống cho các em rất khó tiếp cận nhất là các kĩ năng giao tiếp, ứng xử đối với ông
bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh, kĩ năng bày
tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ về các
vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở nhà có liên quan đến chuẩn mực
hành vi đạo đức….. hầu như các em còn hạn chế.
Nhà trường, đoàn đội chưa tổ chức được nhiều các hoạt động ngoại khóa như:
Thi kể chuyện đạo đức, học tập tấm gương người tốt việc tốt để học sinh được thực
hành hành vi đã học vào những tình huống cụ thể trong cuộc sống. Đối với bản
thân là giáo viên chủ nhiệm, tôi thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn
khá nhiều bỡ ngỡ về nội dung giáo dục, phạm vi giáo dục, chưa có kế hoạch cụ thể,
rõ ràng nên chưa có được sự phối hợp đồng điệu giữa phụ huynh học sinh. Việc rèn
kĩ năng sống qua môn đạo đức còn chưa được chú trọng. Công tác tuyên truyền cho
các bậc cha mẹ thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho các em chưa nhiều. Trước
những khó khăn trên tôi luôn trăn trở làm thế nào giúp các em có được các kĩ năng
cơ bản để vận dụng trong cuộc sống hằng ngày. Sau khi điều tra học sinh tôi tiến
hành khảo sát phân các nhóm đối tượng như sau:
Năm
TS
Kĩ năng
học
HS
Biết nói năng Bạo dạn trong Ngại giao tiếp, Học sinh học hòa

lễ phép, tự tin, giao tiếp
trầm lặng,
nhập, giao tiếp
biết hợp tác nhưng nói
nhút nhát
chưa rõ và nhận
trống không
thức chưa ghi nhớ
được.
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu kì I 22
1
4,5
9
41
10
45,5
2
9
Điểm qua một số hành vi đạo đức của các em tôi thấy trạng thái chú ý không
bền khi giao tiếp với thói quen ngại suy nghĩ, ngại động não, khả năng ghi nhớ
chậm hình thành, khả năng tưởng tượng của các em thiếu sinh động nên tỉ lệ học
5



sinh phát triển chưa toàn diện rất là ít, đa phần các em chưa tự tin trong giao tiếp
còn rụt rè, nhút nhát, giao tiếp chưa rõ.
Từ tình hình thực tế trên chúng ta phải biết đặc điểm tình hình của từng đối
tượng học sinh và có các giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng giảng dạy cũng
như trang bị cho học sinh những kĩ năng sống cơ bản thì mỗi giáo viên là một tấm
gương sáng mẫu mực cho học sinh noi theo, giáo viên cần phải gần gũi, thường
xuyên khuyến khích, tạo môi trường học tập công bằng, tôn trọng, động viên kịp
thời để học sinh thích học, ham học. Giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và
ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã hội thông qua môn đạo đức. Phối kết hợp
với gia đình trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, thông qua hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp, các hoạt động Đội trong và ngoài nhà trường để quản lý
và giáo dục học sinh.
Nhận thức rõ điều này, thấy những khó khăn cơ bản trên tôi đã thực hiện một
số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn
Đạo đức.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
- Một bài giáo dục kĩ năng sống thường được thực hiện theo 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Khám phá
Tìm hiểu kĩ năng hiểu biết của học sinh về những việc làm hoặc sự kiện diễn
ra trong cuộc sống .
Giai đoạn 2: Kết nối
Giới thiệu thông tin, kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo “cầu nối”
liên kết giữa cái đã biết và “cái chưa biết”.
Giai đoạn 3: Thực hành / Luyện tập
Tạo cơ hội cho người học vận dụng kiến thức và kĩ năng mới học vào hoàn
cảnh, điều kiện có ý nghĩa.
Giai đoạn 4: Vận dụng
Nâng cao hơn mức độ vận dụng kiến thức và kĩ năng.

Điều chỉnh hiểu biết và kĩ năng còn sai lệch.
Luyện tập thực hành kĩ năng.
- Kĩ năng sống là nền tảng để hoàn thiện nhân cách của con người, nhằm đảm
bảo cho mọi cá nhân có thể tồn tại, phát triển và khẳng định giá trị của mình trong
cộng đồng. Đây không phải là trách nhiệm riêng của thầy cô giáo, ngành giáo dục
mà đòi hỏi có sự chung tay góp sức của gia đình và xã hội.
Môn Đạo đức 1 lồng ghép kĩ năng sống có 10 bài gồm 3 chủ điểm:
* Gia đình
: 2 bài
* Nhà trường : 3 bài
* Xã hội
: 5 bài
Qua quá trình khảo sát thực tế, sử dụng các phương pháp vấn đáp, phương
pháp quan sát,… tôi xin nêu ra một số biện pháp nhằm giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn Đạo đức như sau:
6


1. Biện pháp 1: Giáo viên là tấm gương sáng mẫu mực cho học sinh noi
theo
Rõ ràng, khi tôi được giao trách nhiệm làm chủ nhiệm một lớp, bản thân phải
chịu hoàn toàn trách nhiệm trước nhà trường về lớp mình phụ trách, chịu trách
nhiệm về mọi quyền lợi cũng như nghĩa vụ học tập, rèn luyện của từng học sinh
trong lớp mình. Từ khâu hoạch định kế hoạch cho đến khâu điều hành thực hiện
đều từ giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, trước hết bản thân tôi phải có năng lực tổ chức,
phải có tình thương và trách nhiệm cao thì mới có thể hoàn thành tốt công tác của
mình. Để học sinh nghe và làm đúng những yêu cầu của giáo viên, trước hết các em
phải có niềm tin yêu vào thầy cô giáo. Muốn tạo được uy tín đó thì không chỉ có
năng lực là đủ mà phải thực sự gương mẫu, là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo, tất cả những cử chỉ, hành động của chúng ta trong con mắt trẻ thơ luôn là

khuôn mẫu. Mọi vấn đề thầy cô giải quyết, mọi việc thầy cô làm, mọi điều thầy cô
nói với các em luôn là đúng. Đặc biệt với học sinh lớp 1 các em nghe, làm theo
thầy cô còn hơn ông bà, cha mẹ. Các em thường rất hay bắt chước thầy cô của
mình từng nét chữ, lời nói đến cả cử chỉ, điệu bộ và nhất là cách ứng xử của cô
trước các tình huống. Vì thế bản thân phải luôn mẫu mực trong mọi cử chỉ, hành
động, lời nói, phải nghiêm minh, công bằng khách quan trong đánh giá học sinh,
cần cụ thể gương mẫu về mọi mặt như: về trang phục và thời gian làm việc; về
chào hỏi, xưng hô, xã giao, khi tiếp đón khách, tiếp dân, ứng xử trong sử dụng điện
thoại, ứng xử trong liên hoan, chiêu đãi, ứng xử trong nhận và tặng vật lưu niệm,
ứng xử đối với những bất đồng, mâu thuẫn, ứng xử trong công bố, tiếp nhận thông
tin... Đặc biệt là trong cách xử lý công việc hàng ngày, bản thân tôi không dám tuỳ
tiện theo kiểu “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột”; mà phải thấu đáo, đã nói
là làm, làm đến nơi đến chốn và thật thấu tình đạt lý. Có như thế mới thuyết phục
được học sinh, mới tập hợp được các em xung quanh mình cùng hoàn thành tốt kế
hoạch đã định.
Việc đánh giá học sinh cũng cần khách quan và công bằng.Với học sinh Tiểu
học nói chung và học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số nói riêng, việc các em được khen
trước bạn bè, được cô giáo động viên kịp thời đúng lúc sẽ là động lực rất lớn giúp
các em mạnh dạn, tự tin và hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Để động viên, khuyến
khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện kĩ năng, ngay từ đầu năm học tôi đã lên
kế hoạch rèn luyện cho các em, hằng ngày các em được phân công theo dõi các
bạn, ghi vào sổ đến cuối tuần, cuối tháng bình chọn ra những bạn thực hiện tốt,
những bạn ngoan, luôn được tôi tuyên dương, khen thưởng. Cuối tháng, tôi luôn
dành những phần quà nho nhỏ, bất ngờ cho các em. Khi thì chiếc bút chì hay những
viên kẹo, những cục tẩy, viên phấn… Tất cả chỉ là sự động viên, khích lệ các em và
đó là động lực để các em có sự tiến bộ. Những học sinh chưa biết vâng lời tôi luôn
nhắc nhở bằng cử chỉ nhẹ nhàng và cả tình thương yêu. Tôi cho các em thấy sự gần
gũi trong mỗi việc làm. Khi đã xóa dần khoảng cách, việc giáo dục sẽ nhẹ nhàng
hơn.
7



Ví dụ: Vào đầu năm học hầu hết các em rất rụt rè khi vào lớp cũng như khi ra
về chỉ im lặng không chào hỏi, xin phép cô giáo, cô hỏi cũng không nói. Trước
những khó khăn đó, trong tiết học đầu tiên, tôi tổ chức cho các em làm quen nhau.
Đầu tiên tôi tự giới thiệu mình với cả lớp sau đó cho từng em giới thiệu, hướng dẫn
cho các em tỉ mỉ từng chi tiết khi đến lớp, khi đến nhà người khác, khi gặp nhau thì
chào hỏi, khi nào ra về, khi muốn nghỉ học thì xin phép. Còn khi được giúp đỡ thì
nói cảm ơn, khi mắc lỗi nói lời xin lỗi. …Cứ như vậy cho từng cặp thực hiện các
em quen dần dần. Và từ buổi học lần sau tôi đã được nghe lời chào hỏi xin phép
của các em.
2. Biện pháp 2: Giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn đạo đức
Khi học sinh bắt đầu bước vào môi trường giáo dục ở nhà trường thì thầy cô
giáo chính là người đặt nền móng đầu tiên, người tạo nên những kĩ năng quan trọng
cho trẻ sau này.
Giáo viên cũng có thể tập dần cho các em kĩ năng đặt mục tiêu từ những việc
nhỏ như thói quen dậy sớm tập thể dục, đi học đúng giờ, phụ mẹ việc nhà, giữ lời
hứa với mọi người…
Kĩ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ,
hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Muốn vậy, giáo viên phải linh hoạt trong
việc sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để lôi cuốn số đông học
sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục. Cụ thể qua các bài học trong môn Đạo
đức 1 như sau:
Bài 3: Gia đình em
Qua bài học “Gia đình em” giáo viên giúp học sinh hiểu trong gia đình thường
có ông bà, cha mẹ, anh chị em. Ông bà, cha mẹ có công sinh thành, nuôi dưỡng,
giáo dục, rất yêu quý con cháu nên các em cần phải lễ phép, vâng lời ông bà, cha
mẹ, anh chị để mau tiến bộ cho ông bà, cha mẹ vui lòng.
Thông qua bài học tôi lồng ghép giáo dục kĩ năng giới thiệu về những người
thân trong gia đình; kĩ năng giao tiếp, ứng xử với những người thân trong gia đình,

kĩ năng giải quyết vấn đề để thể hiện lòng kính yêu đối với ông bà, cha mẹ. Ví dụ:
Qua bài tập 1 tôi yêu cầu từng cặp học sinh kể cho nhau nghe về gia đình mình
( gia đình em có những ai? Thường ngày những người trong gia đình em làm gì?
Mọi người trong gia đình yêu quý nhau như thế nào?...) Tôi nhận thấy các em rất
vui khi nói về các thành viên trong gia đình mình, kể cả những em ngại giao tiếp,
rụt rè nhút nhát cũng thấy được những nụ cười, ánh mắt khi nói về gia đình em.
Mỗi bài tập tôi lại dạy bảo các em những điều hay, lẽ phải như: đi phải xin phép, về
phải chào hỏi, ăn nói nhẹ nhàng, phải có thưa gửi, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, nghe
theo lời chỉ bảo của người lớn…Có như vậy các em mới là người con ngoan, cháu
ngoan, ông bà cha mẹ vui lòng.
Bài 11: Đi bộ đúng quy định

8


Qua bài học “ Đi bộ đúng quy định” giúp học sinh hiểu đi bộ đúng quy định là
đi trên vỉa hè, theo tín hiệu giao thông, theo vạch sơn quy định; ở những đường
giao thông khác thì đi sát lề đường phía bên tay phải.
Thông qua bài học tôi lồng ghép kĩ năng an toàn khi đi bộ. Ví dụ: Qua bài tập
5 tôi lồng ghép kĩ năng sống qua phần tham gia trò chơi. Tôi phổ biến luật chơi, tổ
chức cho các em đứng tại chỗ khi cô hô “Đèn xanh” học sinh cho hai tay quay
nhanh, khi cô hô “Đèn vàng” học sinh cho hai tay quay từ từ, khi cô hô “Đèn đỏ”
học sinh tay không chuyển động. Kết thúc trò chơi tôi luôn tuyên dương những em
thực hiện đúng đồng thời nhắc nhở các em về việc đi lại hằng ngày, trong đó có
việc đi học, luôn lưu ý những đoạn đường nguy hiểm dễ xảy ra tai nạn giao thông.
Đối với học sinh dân tộc thiểu số lớp tôi đa số các em sống gần trường nên
thường đi bộ đi học, các em sang đường thường thiếu quan sát, cũng chính bởi các
em còn quá nhỏ chưa ý thức được hành vi của mình, gia đình điều kiện kinh tế khó
khăn, thiếu thốn nên có những hôm không thể đưa đón con đi học bởi vậy tôi luôn
nhắc nhở các em hằng ngày, hàng giờ: đi học phải chú ý quan sát khi sang đường,

khi đi nhớ đi vào phía bên phải, đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông…. Ngoài
các các bài học đã nêu ở trên thì tùy vào tình hình thực tế ở địa phương, tôi còn
lồng ghép một số kỹ năng phòng đuối nước, hỏa hoạn, biết tự bảo vệ mình và an
toàn giao thông... cho học sinh ở mọi lúc, mọi nơi.
3. Biện pháp 3: Phối kết hợp với gia đình trong việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh
Trong thực tế, trong môi trường mà trẻ sống, học tập và phát triển; bên cạnh
các mặt tác động tốt, các ảnh hưởng tích cực luôn luôn tồn tại, hàm chứa các yếu
tố có thể gây nguy hại đến sự phát triển nhân cách của trẻ và với đặc điểm hiếu
động và ít vốn sống trẻ dễ bắt chước theo, dần dần trở thành thói quen xấu, tác
động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Nhất là khi thiếu sự phối hợp
đúng đắn, thiếu sự thống nhất giáo dục giữa nhà trường và gia đình thì hậu quả xấu
trong giáo dục sẽ xuất hiện, nếu không kịp thời khắc phục hậu quả sẽ rất tai hại.
Ngay từ khi trẻ bắt đầu nhận thức về hành vi đạo đức của mình thì gia đình đã góp
phần vào nhận thức giáo dục và hình thành những kĩ năng ban đầu cho trẻ. Vì vậy,
cha mẹ học sinh cần biết những kĩ năng nào được giáo dục ở gia đình, những kĩ
năng được hình thành và phát triển ở trường học để kết hợp với nhà trường và xã
hội.
Tuy nhiên, trong thực tế tiếp xúc với cha mẹ học sinh, tôi nhận thấy rõ một
điều là: Không phải quý vị phụ huynh nào cũng nhiệt tình, tận tâm với công việc
phối hợp này, họ có đủ muôn vàn lí do để “xin lỗi” hoặc “phó thác” thậm chí một
số phụ huynh còn không quan tâm tới việc học của con em mình, có em không có
nổi một bộ quần áo mới để đi học, sách vở đồ dùng học tập chưa đầy đủ, có em thì
nghỉ học không lí do nhất là vào ngày mùa. Vì vậy mà đa phần học sinh có sai
phạm đều do giáo viên chủ nhiệm phát hiện rồi tìm cách tháo gỡ chứ không phải do
gia đình nhận biết để nhờ nhà trường quan tâm giúp đỡ cùng giáo dục con em
mình. Đây cũng là một khó khăn lớn mà tôi phải luôn trăn trở để tìm giải pháp khắc
9



phục tốt nhất nhằm nâng cao không ngừng chất lượng toàn diện cho các em học
sinh.
Thông qua những buổi họp phụ huynh hay những lần trao đổi với cha mẹ các
em cần đặc biệt quan tâm tôi luôn gợi ý phụ huynh học sinh xây dựng và kiểm tra
việc thực hiện thời gian biểu ở nhà. Tôi sẽ chịu trách nhiệm hướng dẫn các em thực
hiện thời gian biểu phù hợp. Ngay từ đầu năm học tôi đã hướng dẫn cho phụ huynh
và các em chọn sách vở, đồ dùng học tập theo đúng quy định, hướng dẫn, nhắc nhở
các em giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập, tôi quy định cách sắp xếp sách vở ở lớp
cũng như ở nhà. Ở lớp các em được treo cặp rõ ràng, sách vở đồ dùng học tập sử
dụng chúng đúng mục đích, dùng xong sắp xếp đúng nơi quy định, luôn giữ sạch
sẽ, không được bôi bẩn, vẽ bậy, viết bậy vào sách vở, không làm rách nát hỏng đồ
dùng học tập, ở nhà các em treo đúng nới quy định, soạn sách vở đầy đủ theo từng
ngày học trách mang hết sách vở, đồ dùng học tập gây nhàu nát, hư hỏng. Ngày đầu
đi học tôi cùng các em phân loại sách vở, ghi nhãn tên, bao bọc gọn gàng, kiểm tra
và tuyên dương những em thực hiện tốt trước lớp, động viên giúp đỡ các em còn
khó khăn hoàn thành tốt kĩ năng tự phục vụ cho học tập. Nhà trường chỉ quản lí học
sinh trong thời gian ở trường còn khi ra đường về nhà thì cha mẹ mới là người thầy,
người cô thực sự, việc phối hợp với phụ huynh là cực kỳ quan trọng. Nhà trường và
gia đình cùng chung tay chỉ bảo các em đồng thời phụ huynh học sinh cũng phải là
tấm gương cho các em noi theo. Phối hợp trong việc tạo điều kiện cho các em tham
gia các hoạt động ngoại khóa, tham gia Hội khỏe Phù Đổng, biểu diễn văn nghệ mà
nhà trường tổ chức, hỗ trợ kinh phí cho việc khen thưởng động viên các phong
trào, phối hợp tổ chức lao động định kì. Việc phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm
và phụ huynh học sinh nhằm mục đích cùng chăm lo giáo dục học sinh chưa ngoan
về đạo đức, chưa ngoan về học tập. Đặc biệt đối với diện học sinh chưa ngoan, mối
quan hệ này lại cần thiết hơn bao giờ hết.
Trong nhà trường học sinh thường mắc những sai lệch mà chúng ta cùng với
phụ huynh phải lo toan cần giáo dục. Theo tôi các em thường có những biểu hiện
sai lệch sau:
- Ý thức tự giác học tập chưa cao.

- Không học bài, làm bài trước khi đến lớp.
- Nói chuyện trong giờ học.
- Gây gổ đánh nhau, nói tục, nói dối.
- Gian dối trong học tập (kiểm tra thi cử...)
- HS chưa mạnh dạn còn rụt rè, nhút nhát.
Vì vậy, ngay từ đầu năm học tôi phải tìm hiểu kỹ học sinh lớp của mình, tìm
hiểu qua học sinh để báo phụ huynh biết ngay buổi họp phụ huynh tất cả những sai
lệch, những biểu hiện tiêu cực mà học sinh dễ mắc phải để họ soi vào con em mình
mà có giải pháp kịp thời ngăn chặn, sửa chữa.
Ví dụ: Trong lớp tôi chủ nhiệm có em Y Pham Niê những buổi đầu tiên đến lớp
em thường xuyên khóc mà phải có bố mẹ ngồi bên thì mới chịu ngồi học, ảnh
hưởng không nhỏ đến việc ổn định nề nếp cũng như chất lượng dạy học chính vì
10


vậy tôi đã trực tiếp gặp bố của em trao đổi về việc em còn sợ sệt, nhút nhát, chưa
quen với môi trường có bạn mới, thầy cô mới và nêu ra hướng khắc phục. Còn có
trường hợp em H Xuân Mai Adrơng hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhà đông anh chị
em nên đến lớp em chỉ có mỗi bộ quần áo cũ mặc đi mặc lại nhiều lần, thường thiếu
đồ dùng học tập rất ngại giao tiếp với các bạn và thầy cô nên tôi đã đến trực tiếp
gặp mẹ của em trao đổi về việc học cũng như mua cho em bộ quần áo mới dù món
quà không lớn nhưng cũng góp một phần nào đó giúp em tự tin hơn, cởi mở hơn
trong giao tiếp. Chính bởi vậy cha mẹ hãy cùng giáo viên quan tâm chăm sóc, nhắc
nhở các em các kĩ năng trong cuộc sống như: biết sắp xếp ngăn nắp góc học tập, đi
học đúng giờ không la cà dọc đường, soạn sách vở đồ dùng học tập, vệ sinh thân
thể ăn mặc gọn gàng trước khi đến lớp. Mỗi ngày một ít sẽ tập được cho các em
thói quen tự phục vụ cho bản thân, phục vụ cho học tập, mạnh dạn hơn trong giao
tiếp….
Tóm lại bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho các
em những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh

trong nhận thức. Trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí
trong mọi tình huống. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập sinh
hoạt ở nhà trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều
đó, bản thân tôi cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt
quá trình giảng dạy, nâng dần kĩ năng giao tiếp – tự nhận thức cho các em như biết
sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép, cảm ơn, xin lỗi, … Biết cảm thông
cảm chia sẻ buồn vui với mọi người . Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc
thiểu số lại càng cần thiết bởi hầu hết các em chưa có khả năng: Tự phục vụ, tự
quản; Giao tiếp, hợp tác; Tự học và giải quyết vấn đề hiệu quả; Chăm học, chăm
làm, tích Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung thực, kỷ luật, đoàn kết; Yêu
gia đình, bạn bè và những người khác. Bên cạnh đó cần trang bị cho học sịnh các
kỹ năng cần thiết cho cuộc sống hiện nay: đề phòng hỏa hoạn, phòng đuối nước, tự
bảo vệ bản thân, phòng tránh bị xâm hại, phòng tránh tai nạn giao thông, tai nạn
thương tích.....Giúp những em có thói quen xấu và hành vi tiêu cực trở thành con
ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã hội sau này.
4. Biện pháp 4: Thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt
động Đội, trong và ngoài nhà trường để quản lý và giáo dục học sinh.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGD NGLL) là một bộ phận của quá
trình giáo dục ở nhà trường phổ thông nói chung và trường Tiểu học nói riêng. Đó
là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn học văn hoá ở trên lớp.
HĐGD NGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là cầu nối gắn lí thuyết với
thực tiễn và đời sống xã hội, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động,
góp phần hình thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở học sinh.
Các nghiên cứu về tâm lí - giáo dục cũng cho thấy, nhiều nét tính cách cơ bản
của con người được hình thành trước và trong tuổi học đường. Việc tham gia vào
nhiều hoạt động GDNGLL phong phú, đa dạng sẽ tạo cơ hội cho HS được thể hiện,
bộc lộ, tự khẳng định bản thân; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi bạn bè
11



và mọi người xung quanh; tạo cơ hội thuận lợi cho HS được tham gia một cách tích
cực vào đời sống cộng đồng … Từ đó sẽ tác động tích cực đến nhận thức, tình cảm,
niềm tin và hành vi của HS, giúp các em phát triển nhiều phẩm chất tích cực như:
tinh thần đồng đội, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái, khoan dung, sự cảm thông,
tính kỉ luật, trung thực, mạnh dạn, tự tin,…và giúp các em phát triển những kĩ năng
hoạt động tập thể và kĩ năng sống cơ bản như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận
thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kĩ năng
kiên định, kĩ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, kĩ năng ứng phó với căng
thẳng, kĩ năng thương lượng, kĩ năng hợp tác, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng trình
bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng quản lí thời gian, kĩ năng thu thập và xử lí thông
tin...
Thông qua các tiết HĐGD NGLL tôi luôn vạch ra kế hoạch cho tiết dạy bằng
những hình thức phong phú như: hát, múa, đọc thơ, thi kể chuyện, trò chơi theo
từng chủ điểm, các hoạt động này góp phần hình thành cho các em kĩ năng mạnh
dạn, tự tin trước đám đông. Trong giờ học, tôi luôn tạo cho cho các em bầu không
khí thân thiện, cởi mở, tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm
bạn, trước tập thể nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém, động viên,
khuyến khích các em bày tỏ quan điểm cá nhân, độc lập trong tư duy.
Hoạt động lao động công ích đây là một hoạt động đặc trưng của HĐNG LL
Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội, biết yêu
lao động từ đó trở thành người có ích cho xã hội chính vì vậy tôi luôn cùng các em
quét lớp, nhặt rác, nhổ cỏ, rửa tay, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh, chỉ các em cách đi
vệ sinh và giữ gìn vệ sinh, … Khi có giáo viên cùng làm, các em làm việc nghiêm
túc hơn, tự giác hơn và rất có hiệu quả. Tôi luôn lắng nghe những tâm tư tình cảm
của các em để từ đó có hướng giáo dục tốt nhất. Qua đó tôi đã rèn cho học sinh các
kỹ năng như vệ sinh cá nhân, kỹ năng giao tiếp. Đây là hoạt động cần thiết giúp các
em thích nghi với cuộc sống xung quanh, sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc
nghiệt nào các em vẫn có thể tồn tại được đó là nhờ các em biết lao động.
Tổ chức Đội trong nhà trường là một tổ chức quần chúng rộng rãi tập hợp tất
cả các em học sinh ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng. Vì thế, nhu cầu mở rộng phạm

vi, môi trường hoạt động tập thể đa dạng hơn, phong phú hơn và sinh động lý thú
hơn là rất cần thiết. Tổ chức Đội với những hoạt động bổ ích đã thực sự đáp ứng
được nhu cầu chính đáng đó của các em. Với các chủ đề, chủ điểm thi đua phù hợp
với lứa tuổi, sinh động và hấp dẫn cho các em, phong trào hoạt động Đội trong và
ngoài nhà trường đã thu hút và lôi cuốn các em một cách lành mạnh, có tác dụng
tích cực cho việc hình thành nhân cách của các em. Chính vì vậy, giáo viên chủ
nhiệm cần phải “trẻ hoá” để cùng am hiểu tường tận về tổ chức Đội, cùng tham gia
hoạt động vui chơi với các em, cùng hoà nhập để hiểu hơn tâm tư, tình cảm và
nguyện vọng của các em để từ đó mà thông cảm hơn, yêu thương hơn, hiểu hơn và
có trách nhiệm nhiều với các em học sinh lớp mình phụ trách, mới thực sự trở
thành người mẹ, người cha, người chị, người anh gần gũi thân thiết của các em để
công tác giáo dục đạo đức học sinh đạt hiệu quả hơn.
12


Thành lập đội sao đỏ theo dõi chấm điểm thi đua và báo cáo kịp thời các bạn vi
phạm nội quy của nhà trường để thầy cô giáo chủ nhiệm cùng với thầy Tổng phụ
trách kịp thời chấn chỉnh.
Hàng tháng liên đội phải tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống đạo đức,
các hoạt động vui chơi nhằm thu hút các em tham gia và tạo luồng sinh khí mới
trong học tập như: Hội thi văn nghệ, tổ chức đố vui để học, tổ chức các trò chơi dân
gian, các hoạt động thể thao, các hoạt động ngoại khoá khác ...
Như chúng ta đã biết, Đội là nơi giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. Nhiều
khi học sinh thích được tham gia hoạt động Đội hơn là các hoạt động học tập, bởi ở
đó các em được tham gia các trò chơi, được chạy nhảy, và rất nhiều hoạt động khác
nữa.
Cũng chính bởi lý do trên, hằng tuần, tôi luôn trao đổi với cô tổng phụ trách về
nội dung, phương pháp và kết quả các hoạt động giáo dục học sinh. Đồng thời, tôi
còn nhờ thầy kiểm tra, nhắc nhở các mặt giáo dục học sinh của bản thân.
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi luôn cố gắng rèn cho học sinh

những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét sự tiến bộ của học sinh trong
nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi
trường hợp.
IV. Tính mới của giải pháp
Trong năm học vừa qua, nhiều trường cũng chú trọng rèn KNS cho học sinh,
nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay. Kỹ năng
sống sẽ hình thành một cách tự nhiên và hiệu quả trong môi trường hoạt động cụ
thể, chứ không từ các bài giảng trên lớp, chỉ từ các bài giảng các em không thể tự
hình thành kỹ năng sống cho mình mà chỉ có thể hình dung chung về nó.
Hơn nữa, việc giáo dục kỹ năng sống không phải là sự áp đặt. Giáo viên giảng
dạy phải có kiến thức tâm lí, kỹ năng sống, chứ không nên kiêm nhiệm hay dạy
theo ngẫu hứng và quan trọng hơn hết là cần có sự phối hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội.
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã
hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những
kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực,
vui vẻ .Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số qua môn đạo
đức ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời gian để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ
năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời. Chính vì vậy, các thầy cô giáo
tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Vì thế theo tôi để làm tốt việc rèn kĩ
năng sống cho học sinh qua môn đạo đức, mỗi thầy cô giáo cần phải:
- Mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt chuẩn mực, phải hết
lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.
- Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy phong
phú, đa dạng lồng ghép các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt
động khác.
13


- Tập trung vào việc đầu tư sọan giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các môn

học.
- Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt
các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà tôi luôn cố gắng để ươm
mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước,
là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nhân tố để cây đời
mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở thành
công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi giáo viên
chúng tôi phải cùng có trách nhiệm.
V. Hiệu quả Sáng kiến kinh nghiệm
Từ những khó khăn nhất định khi tôi nhận lớp 1C là đa số các em khá rụt rè
chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói
không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và không nói lời cảm ơn, xin lỗi
với thầy cô, ban bè.
Nhờ vận dụng các phương pháp giảng dạy như đã trình bày ở trên, đến giữa
học kì II, tôi thấy các em có tiến bộ rõ rệt, các em đã cởi mở hơn, thích thú bày tỏ ý
kiến hơn và quan trọng nhất đó là qua giờ đạo đức học sinh nắm bắt được những tri
thức sơ đẳng, những cần thiết về các chuẩn mực đạo đức, việc sinh hoạt ở lớp cũng
như ở nhà, trong việc giao tiếp bằng lời nói các em đã biết nói lời thân thiện vào
thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi... đã trở thành thói quen, được các em
vận dụng hằng ngày. Kĩ năng giao tiếp ,ứng xử của học sinh tiến bộ rõ rệt. Một số
học sinh đầu năm còn rụt rè nay đã trở nên tự tin thể hiện mình trước lớp trong việc
trình bày suy nghĩ và phát biểu ý kiến .
Thông qua dạy môn Đạo đức tôi luôn kết hợp giáo dục học sinh rèn kỹ năng
sống nhờ vậy mà các em tự tin hơn và đặc biệt các em chủ yếu là học sinh dân tộc
thiểu số, gia đình khó khăn nên bản thân các em đã tự mình làm lấy một số công
việc tự phục vụ cho mình mà không cần nhờ vả bố mẹ như: rửa ly chén, quét nhà,
nấu cơm, rửa bát, trông em,..
Tỉ lệ học sinh có các kỹ năng tự phục vụ, tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học, ...
tăng dần. Cụ thể như sau:

Năm TS
học HS

Trước khi áp dụng
Biết nói
năng lễ
phép, tự
tin, biết
hợp tác

Sau khi áp dụng

Bạo dạn Ngại giao
trong
tiếp, trầm
giao tiếp lặng, nhút
nhưng nhát:
nói
trống
không

SL % SL %

SL

Học sinh
học hòa
nhập, giao
tiếp chưa
rõ và nhận

thức chưa
ghi nhớ
được.
% SL %

14

Biết nói
năng lễ
phép, tự
tin, biết
hợp tác

SL

Bạo dạn
trong
giao tiếp
nhưng
nói
trống
không

% SL %

Ngại giao
tiếp, trầm
lặng, nhút
nhát:


SL

%

Học sinh học
hòa nhập,
giao tiếp
chưa rõ và
nhận thức
chưa ghi nhớ
được.
SL

%


Cuối
kì I

22

1 4,5

9 41

10 45,5

2

9


6 27,3

7 31,8

8 36,4

1

4,5

Mặc dù chưa đạt được kết quả như mong đợi, nhưng tôi hi vọng với những
phương pháp trên và lòng nhiệt tình của mình, đến cuối năm học số học sinh rụt rè,
nhút nhát sẽ giảm dần và không còn số học sinh thụ động.
Phần thứ 3: Kết luận, kiến nghị
I. Kết luận
Qua bài học, học sinh có được những kĩ năng cơ bản, biết phân biệt được cái tốt
với cái xấu, cái đúng với cái sai, việc gì nên làm và không nên làm, điều quan trọng
nhất là các em phát huy tính dân chủ. Học sinh có những xúc cảm đạo đức tích cực.
Yêu cái đúng, cái tốt. Ghét cái xấu xa, cái sai, không đồng tình và đấu tranh với các
biểu hiện sai trái, xấu xa. Học sinh có những kỹ năng hành vi đơn giản. Thực hiện
các hành vi phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.
Qua những phần trình bày ở trên, ta có thể thấy : Việc rèn kĩ năng sống qua
môn đạo đức lớp 1 có tầm quan trọng đặc biệt trong việc làm cho học sinh hiểu biết
các chuẩn mực đạo đức qua các mẫu hành vi đạo đức để từ đó các em ứng xử đúng
đắn với gia đình, cộng đồng ... Vì vậy công tác giáo dục đạo đức cho học sinh đó là
cái căn bản, cái gốc cho sự phát triển nhân cách.
Việc nâng cao chất lượng hiệu quả giờ dạy đạo đức lồng ghép kĩ năng sống cho
học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số trường TH Ea Bông nhằm khắc phục những khó
khăn từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Qua việc thực hiện các giải pháp đa

số các em đều đã có ý thức trong việc rèn kĩ năng được thể hiện rõ qua việc làm
hằng ngày ở trên lớp, các em đã biết vận dụng những lời nói vào thực tế nó góp
phần hình thành đạo đức, nhân cách của các em sau này.
II. Kiến nghị
- Về phía nhà trường: Mỗi thầy cô giáo phải là người tiên phong đặt nền móng
về kĩ năng cho thế hệ trẻ. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập –
sinh hoạt ở nhà trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được
điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt
quá trình giảng dạy.
- Về phía gia đình: Cha mẹ nên là người hướng dẫn cho trẻ chứ không làm mọi
thứ cho trẻ. Như vậy các em rất ỷ lại mà không phát huy được tính làm chủ bản
thân, không ý thức được khả năng của mình khi không có bố mẹ bên cạnh.
- Về phía xã hội: Vì các em là chủ nhân tương lai của đất nước, lứa tuổi các em
đang hình thành giá trị nhân cách, nếu không có kĩ năng sống các em sẽ không thực
hiện tốt trách nhiệm bản thân, gia đình và cộng đồng.
Vì thế việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội là một việc không thể
thiếu, có như thế thì các em mới cảm thấy hứng thú khi đi học và biết ứng xử phù
hợp trong các mối quan hệ. Sống chủ động, tích cực có mục đích, có kế hoạch, để
rèn luyện trở thành học sinh ngoan, công dân tốt của xã hội.
Trên đây là những định hướng hình thành kĩ năng sống qua môn Đạo đức do
lớp tôi giảng dạy.
15


Để thực hiện và hoàn thành tốt công tác chủ nhiệm cũng như trong giảng dạy,
tôi mong Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp nhiệt tình góp ý bổ sung thêm để
công tác giảng dạy của tôi ngày một tốt hơn, học sinh càng ngoan hơn và có nhiều
“con ngoan, trò giỏi” trong trường tiểu học Ea Bông.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
EaBông, ngày 15 tháng 4 năm 2019

Người viết

Nguyễn Thị Hằng

16


NHẬN XÉT CỦA HĐKH TRƯỜNG TIỂU HỌC EA BÔNG
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
NHẬN XÉT CỦA HĐKH HUYỆN KRÔNG ANA
………………………………………………………………………………………..
.
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên môn đạo đức, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, 2010.
2. Vở bài tập đạo đức, Lưu Thu thủy, Nhà xuất bản giáo dục
3. Tài liệu tham khảo giáo dục kĩ năng sống môn đạo đức tiểu học, Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam, 2010.
4. Tài liệu tham khảo giáo dục kĩ năng sống môn đạo đức lớp 1, Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam, 2010.
5. Giáo trình Tâm lí học Tiểu học, Ts Bùi Văn Huệ, Nhà xuất ban Đại học Sư
phạm, 2008.
6. Giáo trình phương pháp dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học, Ts Nguyễn Hữu
Hợp, Nhà xuất ban Đại học Sư phạm, 2008.
7. Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản văn hóa và thanh niên, 2001.

18



×