Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Nhà thơ Xuân Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.96 KB, 3 trang )

Xuân Diệu (2 tháng 2, 1916 - 18 tháng 12, 1985) là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam.
Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Những bài được yêu
thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 - 1944, thể hiện một triết lý bi quan,
tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ
đó, ông được mệnh danh là "ông hoàng thơ tình". Ông từng được Hoài Thanh và Hoài Chân đưa
vào cuốn Thi nhân Việt Nam (1942).
Ngoài làm thơ, Xuân Diệu còn là một nhà văn, nhà báo, nhà bình luận văn học.
Tiểu sử, sự nghiệp
Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng Trảo Nha, huyện
Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha
là ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.
Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ
Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự Lực Văn
Đoàn (1938–1940). Ông tốt nghiệp cử nhân Luật 1943 và làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho
một thời gian trước khi chuyển về ở Hà Nội.
Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ
Ngày Nay

Tiên Phong
. Ông là một
trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam [1] .
Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng
mạn trữ tình, "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới", "ông hoàng của thơ tình".
Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong
trào "Thơ Mới". Tác phẩm tiêu biểu của ông ở giai đoạn này:
Thơ
(1938),
Gửi hương cho gió

(1945), truyện ngắn
Phấn thông vàng


(1939),
Trường ca
(1945).
Hai tập
Thơ thơ

Gửi hương cho gió
được giới văn học xem như là hai kiệt tác của ông ca ngợi
tình yêu và qua các chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự sống, niềm vui và đam mê sống. Và ca ngợi
tình yêu thì làm sao mà không ca ngợi tuổi trẻ, mùa xuân, ca ngợi thiên nhiên là tổ ấm và cái nôi
của tình yêu. Và Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc đến đau đớn nỗi thời gian trôi chảy, sự mong manh
của đời người cũng như lòng khát khao vĩnh cửu, tất cả đã được diễn tả bằng những câu thơ xúc
động, có khi đậm đà triết lý nhân sinh. (Huy Cận, tháng 4 năm 2000)
Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động
trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí
Tiền phong
của Hội. Sau đó ông công tác trong
Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí
Văn nghệ
ở Việt Bắc.
Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một "dòng
thơ công dân". Bút pháp của ông chuyển biến phong phú về giọng vẻ: có giọng trầm hùng, tráng
ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. Tiêu biểu là:
Ngọn quốc kỳ
(1945),
Một khối
hồng
(1964),
Thanh ca

(1982),
Tuyển tập Xuân Diệu
(1983).
Là cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số
lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn
học.
Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện
Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983.
Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).
Tên của ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội.
Đời sống riêng
Xuân Diệu đã lập gia đình riêng một lần với NSND Bạch Diệp nhưng hai người đã ly dị và họ
không có con chung[2]. Sau khi ly dị ông sống độc thân cho đến lúc mất vào năm 1985. Xuân
Diệu là người cùng quê Hà Tĩnh với Huy Cận (làng Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh) nên khi
gặp nhau, hai ông đã trở thành đôi bạn thân. Vợ của Huy Cận, bà Ngô Xuân Như là em gái của
Xuân Diệu. Có người cho rằng Xuân Diệu cùng với Huy Cận là hai nhà thơ đồng tính luyến ái [3] .
Huy Cận và Xuân Diệu từng sống với nhau nhiều năm. Những bài thơ "Tình trai", "Em đi" của
Xuân Diệu và "Ngủ chung" của Huy Cận được cho là viết về đề tài đó. Theo hồi ký
Cát bụi chân ai

của Tô Hoài thì Xuân Diệu từng bị kiểm điểm về việc này[4] [5] .
Câu nói nổi tiếng
Trong tập
Chân dung và đối thoại
, Trần Đăng Khoa ghi lại câu nói của Xuân Diệu:
"Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết."
Tác phẩm
Thơ

Thơ thơ

(1983, 1939, 1968, 1970)

Gửi hương cho gió
(1945, 1967)

Ngọn Quốc kỳ
(1945, 1961)

Hội nghị non sông
(1946)

Dưới sao vàng
(1949)

Sáng
(1953)

Mẹ con
(1954)

Ngôi sao
(1955)

Riêng chung
(1960)

Mũi Cà Mau - Cầm tay
(1962)

Một khối hồng

(1964)

Hai đợt sóng
(1967)

Tôi giàu đôi mắt
(1970)

Hồn tôi đôi cánh
(1976)

Thanh ca
(1982)
Văn xuôi

Phần thông vàng
(1939, truyện ngắn)

Trường ca
(1945, bút ký)

Miền Nam nước Việt
(1945, 1946, 1947, bút ký)

Việt Nam nghìn dặm
(1946, bút ký)

Việt Nam trở dạ
(1948, bút ký)


Ký sự thăm nước Hung
(1956, bút ký)

Triều lên
(1958, bút ký)
Tiểu luận phê bình

Thanh niên với quốc văn
(1945)

Tiếng thơ
(1951, 1954)

Những bước đường tư tưởng của tôi
(1958, hồi ký)

Ba thi hào dân tộc
(1959)

Phê bình giới thiệu thơ
(1960)

Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm
(1961)

Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ
(1961)

Dao có mài mới sắc
(1963)


Thi hào dân tộc Nguyễn Du
(1966)

Đi trên đường lớn
(1968)

Thơ Trần Tế Xương
(1970)

Đọc thơ Nguyễn Khuyến
(1971)

Và cây đời mãi xanh tươi
(1971)

Mài sắt nên kim
(1977)

Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy
(1978)

Các nhà thơ cổ điển Việt Nam
(tập I, 1981; tập II, 1982)

Tìm hiểu Tản Đà
(1982).
Dịch thơ

Thi hào Nadim Hitmet

(1962)

V.I. Lênin
(1967)

Vây giữa tình yêu
(1968)

Việt Nam hồn tôi
(1974)

Những nhà thơ Bungari
(1978, 1985)

Nhà thơ Nicôla Ghiđen
(1982).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×