Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

IFRS6 thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.05 KB, 23 trang )

Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
LỜI MỞ ĐẦU
Nguồn tài nguyên khoáng sản của một nước tương ứng với cơ sở nguyên liệu khoáng
mà nước đó dùng làm căn cứ để vừa phát triển nền kinh tế trong nước vừa tham gia vào thị
trường nguyên liệu quốc tế. Để có những số liệu đáng tin cậy làm cơ sở cho sự phát triển
bền vững nền kinh tế xã hội mỗi một nước phải có sự đánh giá tài nguyên khoáng sản của
nước mình. Trong nhiều năm qua các chương trình quốc gia về thăm dò và đánh giá tài
nguyên khoáng sản đã được thực hiện ở hầu hết các nước phát triển và đang được triển
khai ở các nước đang phát triển.
Như vậy, phương pháp luận về thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản vẫn đang
trong bước đường không ngừng đổi mới để hoàn thiện.
Nước ta có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng. Mặc dù trong điều kiện lịch sử
của nước ta có nhiều khó khăn, Nhà nước đã đầu tư không nhỏ cho các ngành địa chất và
mỏ phát triển. Năm mươi năm qua công tác điều tra địa chất đã phát hiện và đánh giá nhiều
loại khoáng sản, trong đó có nhiều mỏ có giá trị đã được thăm dò và đưa vào khai thác ,
từng bước tạo ra cơ sở nguyên liệu khoáng để xây dựng và phát triển một số ngành công
nghiệp nặng then chốt của đất nước. Nguồn tư liệu hết sức to lớn về địa chất và tài nguyên
khoáng sản của đất nước được thu thập và tích lũy trong nhiều năm qua đã và sẽ được khai
thác đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế trước mắt và lâu dài.
Tuy nhiên so với yêu cầu của thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì mức
độ điều tra địa chất và tài nguyên khoáng sản của nước ta còn thấp nguồn tài nguyên
khoáng sản chưa được đánh giá đầy đủ.
Để có đủ dữ liệu cho việc xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp khai khoáng và
hoạch định chính sách bảo vệ, khai thác sử dụng hợp lí tài nguyên khoáng sản và bảo vệ
môi trường trong hoạt động khai khoáng, cần phải có chương trình thăm dò và đánh giá tài
nguyên khoáng sản dựa trên những quan điểm và phương pháp luận được đổi mới theo
hướng hòa nhập vào môi trường địa chất-mỏ quốc tế và khu vực.
Kế toán thực hành trong các ngành công nghiệp khai khoáng đầu tiên trên chương trình
nghị sự của kế toán quốc tế Ủy ban Tiêu chuẩn (tiền thân của ban tiêu chuẩn kiểm toán
quốc tế, hoặc IASB) năm 1998. Chấp nhận tầm quan trọng của từng lĩnh vực đến nền kinh
tế, IASB đã đề xuất phát triển một dự án toàn diện liên quan đến các vấn đề báo cáo tài


chính mà nhiều khu vực trên quốc gia phải đối mặt- và phải mất một thời gian dài để các
quốc gia chấp nhận và phát triển.
Trong một thời gian ngắn, IASB đã ban hành IFRS 6 “thăm dò và đánh giá tài nguyên
khoáng sản để giải quyết các vấn đề kế toán liên quan đến chi phí phát sinh trong quá trình
thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản. IFRS 6 cho phép tiếp tục các chính sách kế
toán hiện hành về chi phí thăm dò và đánh giá cho đến khi hoàn thành các dự án toàn diện.
Kết cấu đề án:
SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 1
Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
Đề án môn học “IFRS 6: Thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản” ngoài
phần mở đầu, tóm tắt, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề án môn
học gồm 6 phần:
I.Khái niệm và phân loại tài nguyên khoáng sản.
II.Xác định giá trị.
III.Chi phí phát triển
IV.Tổn thất
V. Chính sách kế toán
IV. Trình bày
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn tậm tình của thầy giáoTrần Đình
Khôi Nguyên trong suốt quá trình làm đề án.Vì đây là đề tài mà tài liệu tham khảo toàn
bằng tiếng anh nên đòi hỏi vừa nghiên cứu vừa phải dịch thuật nên không tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy để em có thể học
hỏi, mở rộng kiến thức nhiều hơn nữa.
Sinh viên thực hiện
Hồ Nguyễn Quỳnh Trang
SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 2
Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN:
1. Khái niệm:

Thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản có nghĩa là việc tìm kiếm các nguồn tài
nguyên khoáng sản, kể cả khoáng sản, dầu, khí đốt tự nhiên và tài nguyên không tái sinh
tương tự sau khi tổ chức đã thu được các quyền hợp pháp để khám phá trong một khu vực
cụ thể, cũng như xác định tính khả thi kỹ thuật thương mại và khả năng tồn tại từ việc khai
thác tài nguyên khoáng sản.
Thăm dò và đánh giá chi phí là chi phí phát sinh liên quan đến việc thăm dò và đánh
giá tài nguyên khoáng sản trước khi tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại của các
chiết xuất một tài nguyên khoáng sản là có thể chứng minh.
Đánh giá tài nguyên khoáng sản được hiểu là sự xác định giá trị các nguồng khoáng
sản và năng lượng đã biết hoặc dự đoán tồn tại, có giá trị kinh tế vào thời điểm hiện tại
hoặc tương lai. Chính vì vậy việc thăm dò và đánh giá không chỉ riêng cho các đối tượng
khoáng sản đã được tìm kiếm thăm dò, đã được tính trữ lượng hoặc đã được xem là khai
thác có lãi tại thời điểm đánh giá, mà còn bao gồm cả những đối tượng có khả năng phát
hiện bằng phương hpáp nhận dạng và lí giải địa chất ở trình độ cao cũng như các đối tượng
đã được phát hiện nhưng vì các lí do kinh tế, công nghiệp nên chưa có kế hoạch sử dụng.
Để đạt được mục đích này cần xác định giá trị và phân loại tài nguyên trên nguyên tắc
kết hợp hai yếu tố về sự gia tăng độ tin cậy địa chất (mức độ chi tiết về tìm kiếm thăm dò)
và tính khả thi về công nghệ (sản xuất có lãi tại thời điểm đánh giá).
Tài nguyên tổng thể hay tài nguyên nguyên trạng (original) là tài nguyên tồn tại trong
lòng đất bao gồm tài nguyên đã được khai thác, đã phát hiện hoặc được dự báo, trong đó
phân ra:
Tài nguyên được xác định (Identifìed) là tài nguyên mà vị trí, chất lượng, và số lượng
đã được biết hoặc đã được đánh giá. Tài nguyên được xác định bao gồm các mức kinh tế
(economic) và dưới mức kinh tế (subeconomic). Thuật ngữ kinh tế ở đây nói đến việc khai
thác có lãi với số vốn đầu tư nhất định. Phần tài nguyên kinh tế mà có mức độ điều tra địa
chất theo các mạng lưới xác định cho các loại hình mỏ khác nhau thì được gọi là trữ lượng.
Để phản ánh mức độ khác nhau về điều tra địa chất, trữ lượng có thể phân ra các cấp chắc
chắn (measured), tin cậy (indicated), dự tính (inferred).
Tài nguyên chưa xác định (undiscovered) là tài nguyên về cơ bản chưa được xác định
cụ thể nhưng có khả năng trở thành có giá trị kinh tế hoặc dưới mức kinh tế. Để phản ánh

các mức độ khác nhau về điều tra địa chất có thể phân ra tài nguyên giả định,
(hyphothetical) và phỏng vấn (speculative).
Công tác thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản hiện nay vừa phải tổng hợp thống
kê các tài liệu tìm kiếm thăm dò địa chất trong mấy thập kỉ qua, xem xét các con số trữ
SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 3
Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
lượng khoáng sản đã tính trước đây và chọn ra các số liệu đủ tiêu chuẩn nêu trên chuyển
thành số trữ lượng khoáng sản có thể dùng làm cơ sở để lựa chọn đối tượng đầu tư khai
thác khoáng sản. Các con số trước đây được xếp vào trữ lượng cấp thấp chưa đáp ứng mức
độ chi tiết của thăm dò hoặc chưa tính đến yếu tố kin tế sẽ chuyển thành các con số tài
nguyên và dùng làm căn cứ để xây dựng kế hoạch điều tra địa chất các bước tiếp theo.
Đối với các biểu hiện quặng chưa được điều tra đánh giá sẽ dựa vào các tiền đề địa
chất, các quan điểm mới về kiến tạo và sinh khoáng, áp dụng các phương pháp hiện đại để
dự báo định lượng tài nguyên giả định và phỏng đoán, khoanh vùng ra các vùng triển vọng
khoáng sản mới , định hướng cho các hoạt động điều tra địa chất trong thời gian tới, tạo ra
đầu vào cần thiết để hình thành một chương trình phát triển tài nguyên khoáng sản tông thể
trên quy mô cả nước. Trong chương trình đánh giá tài nguyên khoáng sản còn cần áp dụng
rộng rãi hệ thống phương pháp đánh giá cơ sở hạ tầng, nguồn lao động, vốn đầu tư cho
khai thác và chế biến khoáng sản gắn với phát triển kinh tế xã hội theo vùng lãnh thổ, tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển các vùng kinh tế trọng điểm miền núi, và các vùng sâu
vùng xa.
2. Phân loại:
2.1. Phân loại tài sản
IFRS 6 yêu cầu các doanh nghiệp phải phân loại một cách riêng rẽ mỗi loại E&E tài
sản như chi phí vô hình và chi phí hữu hình dựa vào tính chất của tài sản.
Nhiều E & E tài sản có thể nhận biết được rõ ràng là chi phí hữu hình(ví dụ:xe cộ,dàn
khoan) và chi phí vô hình (ví dụ:giấy phép thăm dò). Cũng sẽ có một phần E&E tài sản dôi
ra mà phần tài sản này không dễ để phân loại và thành phần quan trọng của E&E tài sản
dôi ra này gồm có chi phí phải chịu trong quá trình thăm dò giếng dầu và mỏ.
Dựa vào tính chất của tài sản để phân loại thành chi phí hữu hình hay chi phí vô hình,

nó rất hữu ích cho việc hình thành chi phí cho từng khoản mục là tài sản hữu hình mà bản
thân nó sẽ được sử dụng hoặc sự hiểu biết về vị trí của chi phí vô hình, về cơ bản chỉ để
xây dựng tài sản hữu hình.Ví dụ, giếng dầu sẽ được sử dụng để hút ra dự trữ có thể là tài
sản hữu hình.Tuy nhiên, việc thăm dò giếng dầu có thể là kết quả của sự am hiểu. Những
chi phí liên quan đến việc xây dựng để thăm dò giếng hoặc hoạt động địa chất và hoạt
động địa lý được phân loại như E&E tài sản vô hình.
Việc phân loại E&E tài sản thành vô hình hoặc hữu hình dựa trên nền tảng là việc lựa
chọn chính sách kế toán,đo lường tài sản sau khi ghi nhận và mục đích trình bày.
Sự phân chia thành E&E tài sản thành vô hình và hữu hình được áp dụng một cách
nhất quán:
2.1.1. Tài sản vô hình
Tài sản vô hình được định nghĩa trong IFRSs có thể xem như là những tài sản phi tiền
tệ không gồm chất hữu hình.Không có yêu cầu tài sản được tổ chức cho mục đích chi tiết.
Ví dụ về E&E tài sản có thể được phân loại thành chi phí vô hình phù hợp với định
nghĩa này gồm:
• Quyền khoan
• Quyền được thăm dò
SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 4
Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
• Chi phí cho việc quản lí các nghiên cứu đo vẽ,địa chất,hóa học,địa lý.
• Chi phí thăm dò các dàn khoan
• Chi phí đào hầm
• Chi phí lấy mẫu
Những chi phí liên quan đến đánh giá tính khả thi và khả năng sinh lời kinh tế của tài
nguyên khoáng sản.
2.1.2. Tài sản hữu hình
IFRSs không có định nghĩa “hữu hình”. Tuy nhiên hầu hết tài sản hữu hình có thể
được định nghĩa là những khoản mục bất động sản, nhà máy, phân xưởng và máy móc
thiết bị. Theo định nghĩa này thì những khoản mục được tổ chức để dùng cho sản xuất
hoặc cung cấp hàng hóa và dịch vụ,để cho thuê hoặc để phục vụ cho mục đích quản lí; và

tài sản này được sử dụng từ một chu kì kinh doanh trở lên.
Dựa vào định nghĩa này ví dụ của E&E tài sản có thể được định nghĩa là tài sản hữu
hình bao gồm(không có giới hạn rõ ràng):
• Máy móc thiết bị được sử dụng để thăm dò,như xe cộ và dàn khoan
• Hệ thống ống dẫn và máy bơm
• Bể chứa dầu
Trên thực tế hiện nay các doanh nghiệp xem E&E tài sản như là tài sản vô hình trong
khi những doanh nghiệp khác lại xem chúng như là tài sản hữu hình.Ví dụ ở Bắc Phi,phần
lớn các doanh nghiệp phân loại E&E tài sản như tài sản hữu hình. Tuy nhiên, tài sản sử
dụng còn lại là tài sản hữu hình.
Trong một phạm vi nào đó một tài sản hữu hình được tiêu thụ sẽ phát sinh các tài sản
vô hình, phản ánh số tiền tiêu thụ do một phần chi phí ma tài sản vô hình đã tạo ra.
Ví dụ một dàn khoan được sử dụng chỉ để thăm dò thì máy móc thiết bị là chi phí hữu
hình và sẽ được phân loại thao cách thông thường. Chi phí khấu hao được ghi nhận theo
dàn khoan sẽ được trình bày trên lượng tiêu thụ của tài sản hữu hình trong quá trình phát
sinh thêm E&E tài sản vô hình.Việc khấu hao nên được xem xét để vốn hóa như là một
phần chi phí của mỏ và giếng dầu.Tương tự,các tàu chở dầu được dùng để dự trữ khí lỏng-
kết quả từ việc thăm dò giếng dầu được phân loại như tài sả hữu hình,chi phí khấu hao của
những tàu chở dầu này hoặc các hợp đồng cho thuê có thể là một phần chi phí E&E tài sản
vô hình.
Về phía những người sử dụng IFRSs hiện hành và những người thông qua đầu tiên,họ
muốn phân biệt E & E tài sản thành các khoản mục hữu hình và vô hình có thể thay đổi tùy
tình hình thực tế của doanh nghiệp. Các ngành công nghiệp hiện hành việc phân loại E&E
tài sản khác nhau và không nhất thiết phản ánh việc quản lí những chi phí và quy trình sản
xuất của doanh nghiệp. Thêm vào đó rất khó để khái quát việc phân loại thực tế dựa vào
quy mô và bản chất của doanh nghiệp và không khó để tìm thấy E&E tài sản trong phạm vi
tài sản vô hình hoặc một phần riêng rẽ cấu thành tài sản hữu hình. Ví dụ một doamh nghiệp
dầu khí áp dụng những biện pháp nỗ lực thành công có thể vốn hóa chi phí E&E như tài
sản vô hình khi nợ và sau khi chuyển các chi phí sang tài sản hữu hình thì đưa ra quyết
định mở rộng phạm vi khai thác. IFRS 6 yêu cầu các doanh nghiệp phải tách rời tài sản

SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 5
Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
E&E hữu hình và vô hình và mở rộng chính sách phân loại lại những tài sản này khi tính
khả thi và khả năng sinh lời kinh tế có thể được giải thích.
Thăm dò và đánh giá tài sản sẽ không được phân loại như vậy nữa khi tính khả thi cao
và khả năng độc lập thương mại của tài nguyên khoáng sản có thể được giải thích. Thăm
dò và đánh giá tài sản sẽ được ước lượng thông qua sự yếu kém của chuẩn mực và sự thiếu
sót trong ghi nhận trước khi phân loại lại thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản.
2.2. Phân loại lại tài sản E&E:
Theo IFRS 6, khi ngừng các hoạt động thăm dò và đánh giá trong một khu vực, doanh
nghiệp phải (a) dừng việc cung cấp các chi phí vốn ở khu vực đó; (b) kiểm tra việc ghi
nhận E & E cho tài sản tổn thất, và (c) dừng việc phân loại tài sản E&E không mang lại
tổn thất (hữu hình và vô hình) khi thăm dò và đánh giá.
Tài sản E & E có thể được phân loại lại hoặc là phát triển từ tài sản hữu hình hoặc vô
hình. Việc phân loại lại tài sản E & E để phát triển tài sản là một sự lựa chọn chính sách kế
toán phải được áp dụng thống nhất.
2.2.1. Nhận dạng E& E tài sản:
Nhìn chung nhận dạng tài sản hữu hình E & E chẳng hạn như một giàn khoan thăm dò
sẽ tiếp tục được sử dụng bởi một tổ chức thực hiện E & E hoạt động cho các dự án khác,
phân loại lại các tài sản này sẽ không được thích hợp. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng các
doanh nghiệp cần phải đánh giá lại sự phù hợp của thời gian khấu hao và phân bổ các tài
sản này để CGUs hoặc các nhóm của các đơn vị tại thời điểm tài sản được phân bổ cho các
dự án thăm dò và đánh giá khác.
Nhận dạng tài sản hữu hình phải ngừng sự phân loại lại khi tài sản E&E nói chung
được phân loại như việc phát triển tài sản hữu hình theo quy định của IAS 16, ví dụ, một
chiếc xe sử dụng cho sản xuất. Trong khi nhận dạng, E& Etài sản vô hình sẽ tiếp tục được
phân loại như tài sản vô hình, ví dụ một giấy phép thăm dò.
2.2.2. Không thể nhận dạng tài sản E&E:
Nói chung, khitính khả thi của hoạt động thương mại và kỹ thuật có thể được chứng
minh, một trữ lượng khoáng sản cụ thể sẽ được xác định để phát triển. Trong thực tế, trữ

lượng khoáng sản rất đa dạng được phân loại như tài sản hiện hữu (ví dụ, hữu hình) hoặc
tài sản vô hình.
trong trường hợp không có hướng dẫn, một doanh nghiệp nên chọn một chính sách kế
toán để phân loại trữ lượng khoáng sản hoặc là hữu hình hoặc tài sản vô hình và áp dụng
chính sách nhất quán. Theo chúng tôi là khoáng sản dự trữ được phân loại là tài sản hữu
hình phát triển.
Sơ đồ sau đây minh họa việc phân loại lại tài sản nhất định được sử dụng trong các
ngành công nghiệp khai khoáng khi xác định tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại
trên giả định rằng giàn khoan thăm dò tiếp tục được sử dụng trong hoạt động thăm dò và
đánh giá.
Loại tài sản E+E Phân loại lại Phát triển
IFS6 ghi nhận vàđo lường IFS 6
SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 6
Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
nguên tắc áp dụng không được
Phân loại theo tính chất, áp dụng
áp dụng ISA 16 và ISA 38
mô hình thích hợp
Xe Hữu hình Hữu hình
Giàn khoan
thăm dò Hữu hình Không AD
Nền tảng sản xuất Không áp dụng Hữu hình
Giấy phép
thăm dò Vô hình Vô hình
Không nhận
dạng Hữu hình
E+E tài sản hoặc vô hình Hữu hình
Or vô hình
Dự trữ, giếng Không áp dụng
II. XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ:

E&E chi phí được định nghĩa trong IFRS6: một khoản mục xác định mà chi phí thỏa
mãn các định nghĩa đó. Chi phí E&E hiếm khi bao gồm chi phí thăm dò lại,và không bao
gồm chi phí phát sinh.
Trong mỗi loại chi phí E & E, mỗi khoản mục thông qua một chính sách chi phí trực
tiếp hoặc chi phí vốn hóa có chức năng một E&E tài sản. Nhà quản lí phải dựa vào phán
đoán của mình để bày tỏ luận điểm và áp dụng chính sách thích hợp với các thông tin phù
hợp và đáng tin cậy.
Chính sách chi phí hoặc vốn nên phản ánh quy mô của các loại chi phí E&E liên quan
đến những nguồn tài nguyên khoáng sản nhất định.
Để thừa nhận tính linh hoạt của IFRS 6 nên xem xét yêu cầu của IFRSs liên quan đến
việc lựa chọn chính sách kế toán đối với chi phí E&E. Trong thực tế, để phát triển một
chính sách quản lí không cần xem xét đến IFRSs khác (về sự tương đồng) và không cần đề
cập đến định nghĩa có trong IASB Framework (nói riêng về tài sản và chi phí).
IFRS 6 chứa các yêu cầu xác định gắn liền với những thay đổi của chính sách KT đối
với chi phí E&E
 Chi phí E&E:
Chi phí E&E không được ghi nhận là E&E tài sản mà được xem là chi phí phải chịu
Các loại chi phí E&E không có họ gần với nhau thỏa mãn là tài nguyên khoáng sản
nhất định để hỗ trợ vốn được xem là chi phí phải chịu.Ví dụ, chi phí thu thập dữ liệu về
SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 7
Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
động đất nói chung không có họ gần với nhau, thỏa mãn là một tài nguyên khoáng sản xác
định, được vốn hóa như là E&E tài sản.
1. Ghi nhận và đo lường ban đầu:
Trong một chừng mực nào đó,một đơn vị quy định vốn hóa chi phí E&E như một E&E
tài sản, tài sản đó được đo lường theo chi phí ban đầu.
1.1. Ghi nhận giá gốc:
Để phù hợp với các chính sách kế toán, một doanh nghiệp có thể ghi nhận giấy phép
thăm dò như là E&E tài sản. Theo chúng tôi chi phí cho giấy phép đó bao gồm chi phí mua
trực tiếp. Theo sự hướng dẫn về chi phí trực tiếp được trình bày trong IAS 38. Ví dụ như

chi phí có thể bao gồm thuế không hoàn lại và chi phí hợp lí phải chịu khi tiến hành làm
các giấy phép.
1.2. Các chi phí hành chính và chi phí chung khác:
IFRS6 yêu cầu một đơn vị lựa chọn một chính sách kế toán về các chi phí hành chính
và chi phí chung khác hoặc vốn hóa chúng trong quá trình đo lường và ghi nhận ban đầu
của E&E tài sản.Theo quan điểm của chúng tôi,lựa chọn chính sách kế toán nên phù hợp
với phương thức tiếp cận trong IFRSs như những chi phí phải chịu liên quan đến hàng tồn
kho (IAS 2 hàng tồn kho),tài sản vô hình (IAS 38),hoặc bất động sản,nhà máy,phân xưởng,
máy móc thiết bị.
Nếu một đơn vị lựa chọn chính sách kế toán về các chi phí hành chính và chi phí sản
xuất chung khác nhất quán với sự nghiên cứu bất động sản, nhà máy, phân xưởng và máy
móc thiết bị,thì chi phí hành chính và chi phí sản xuất chung khác sẽ không đủ điều kiện
ghi nhận ban đầu như E&E tài sản; thay vào đó chúng được xem như chi phí phải chịu.
Một chính sách dựa vào sự nghiên cứu hàng tồn kho hoặc chi phí vô hình sẽ đòi hỏi
một số vốn cho các chi phí hành chính và chi phí sản xuất chung khác mà khoản chi phí
này trực tiếp ảnh hưởng đến tài sản.
IFRSs có thể áp dụng với hàng tồn kho bao gồm sự tư vấn thêm về phân bổ chi phí
chung và năng lực sản xuất mà nói chung sẽ không có liên quan đến E&E tài sản khi việc
sản xuất không được tiến hành.
Nếu một đơn vị lựa chọn chi phí vốn trực tiếp,thì tôi cho các chi phí hành chính và chi
phí chung khác có thể đủ điều kiện như là E&E tài sản bao gồm:
 Chi phí về tổng tiền lương phải trả cho nhân viên làm việc trực tiếp trên mỗi dự án,
bao gồm chi phí về tiền trợ cấp cho mỗi nhân viên.
 Chi phí quản lí phải trả nếu một mình họ thực hiện một dự án xác định.
 Kí kết các khoản tiền thưởng phải trả cho nhà thầu liên quan quan đến dự án.
 Những khoản chi phí hợp pháp hoặc chi phí chuyên môn khác liên quan đến dự án,
ví dụ như: những chi phí cụ thể để đạt được giấy phép và giấy chứng nhận
Danh sách trên đây không thể hiện hết mọi khía cạnh. Trong một chừng mực nào đó,
một đơn vị mong muốn vốn bỏ ra là thích hợp cho các chi phí hành chính và chi phí chung
khác. Sau khi xem xét kĩ lưỡng nên đưa ra hệ thống thông tin cần thiết để nhận biết các chi

phí trực tiếp.
SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 8
Đề án môn học GVHD:Trần Đình Khôi Nguyên
Chính sách về chi phí hành chính và chi phí chung khác được áp dụng nhất quán để so
sánh chi phí và báo cáo giữa các giai đoạn.Những thay đổi xảy ra sau báo cáo được đề cập
trong các chính sách kế toán.
1.3. Các chi phí đi vay:
Theo tôi chi phí đi vay không phải là chi phí E&E mà có thể được ghi nhận như E&E
tài sản phù hợp với chính sách kế toán. Thay vào đó ta có thể xem xét sự hướng dẫn trong
IAS 23 chi phí đi vay nên được áp dụng như thế nào.
Một đơn vị có thể lựa chọn chính sách kế toán về chi phí vốn vay để phù hợp với một
phần chi phí tài sản. Nếu một doanh nghiệp chọn cách sử dụng vốn đi vay thì tất cả các chi
phí đi vay đủ tiêu chuẩn về tài sản hạch toán phải được vốn hóa.
Tài sản hạch toán là tài sàn có chu kì trọng yếu cần thiết được chuẩn bị cho mục đích
sử dụng hoặc bán. Nói chung, tài sản hạch toán là những thứ chịu ảnh hưởng của việc mở
rộng và xây dựng các dự án trọng yếu. Không có sự chỉ dẫn chính xác nào về chu kì trọng
yếu là bao lâu, tuy nhiên theo chúng tôi một chu kì tốt nên kéo dài hơn 6 tháng.
Chi phí đi vay là chi phí trực tiếp phục vụ cho hoạt động mua bán,xây dựng hoặc sản
xuất của tài sản hạch toán được vốn hóa, chỉ khi chúng mang lại lợi ích kinh tế trong tương
lai.
Chi phí đi vay cũng như E&E tài sản đủ tiêu chuẩn có thể bao gồm một phần chi phí
phù hợp với chính sách kế toán tại đơn vị nếu chúng có đầy đủ tiêu chuẩn về vốn.
Nói chung không dễ dàng để trình bày các lợi ích kinh tế trong tương lai khi áp dụng
chi phí thăm dò và đánh giá cũng như chi phí đi vay. Nếu theo yêu cầu của IAS 23, trong
trường hợp E&E tài sản hạch toán, thì các tiêu chuẩn về vốn có thể gặp khó khăn trong
trình bày các lợi ích kinh tế trong tương lai.
Chi phí đi vay được vốn hóa là chi phí phải trả. Bao gồm lãi trên số tền vay sử dụng
cho mục đích dành được việc thăm dò và đánh giá tài sản theo tiêu chuẩn và những chi phí
khác liên quan đến khoản tiền vay sẽ được hoàn trả lại nếu các khoản chi phí trên phần tài
sản không phải chịu.

Bao gồm các Chi phí vay vốn hợp lí, nhưng không giới hạn về lãi suất, những khoản
chiết khấu giảm dần, hoặc phí bảo hiểm và phí giao dịch đang sử dụng theo hệ thống lãi
suất thực tế, phí tài chính đặc biệt về sự cho thuê tài chính và sự thay đổi trong các phạm vi
khác nhau, chúng được coi như là sự điều chỉnh các khoản phí tổn trả lãi. Tuy nhiên, việc
chiết khấu để tu sửa sản xuất định kì sẽ không được tài trợ vốn.
1.4.Nợ phải trả:
Một doanh nghiệp áp dụng IAS 37 “dự phòng, các khoản nợ phát sinh, tài sản”, những
chi phí phát sinh dịch chuyển và sửa chữa là các khoản nợ phải trả khi đưa ra kết quả của
việc thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản. Nhiều doanh nghiệp trong công nghiệp
khai khoáng chịu trách nhiệm tu sửa liên quan đến kết quả công việc kinh doanh của những
hoạt động thăm dò và đánh giá.
Những khoản nợ có kết quả từ quá trình sản xuất (ví dụ trữ lượng khai khoáng) được
ghi nhận chỉ khi việc khai khoáng được thực hiện.
Quan hệ nợ có thể dựa trên pháp luật (ví dụ: luật hoặc các điều khoản về giấy phép
thăm dò) hoặc ngầm định. Các khoản nợ hình thành phát sinh - trình bày chi tiết, tỉ mỉ trên
SVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Trang Trang 9

×