Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Về dạy học Sử địa phương & Lịch sử Đắk Lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.34 KB, 74 trang )

NỘI DUNG TÀI LIỆU:
I. VIỆC DẠY HỌC SỬ ĐỊA PHƯƠNG (THCS, THPT).
II. VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 7 (chương trình mới).
III. THIẾT KẾ BÀI HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG.
IV. LỊCH SỬ ĐẮK LẮK. CÁC DANH NHÂN, ĐỊA DANH, DI TÍCH.
Nguồn: Đồng nghiệp.
Thời gian: 2004.
Sưu tầm và biên tập:
VĂN BẢN 1.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
a. Chủ trương đổi mới của Đảng và nhà nước ta đối với sự nghiệp Giáo
dục và Đào tạo:
Đại hội Đảng lần thứ VI tháng 12 năm 1986 đã mở ra một bước ngoặt cho
nước ta bằng đường lối đổi mới một cách toàn diện. Bắt đầu từ đây, vấn đề giáo
dục, khoa học và công nghệ được đặt đúng vị trí và được quan tâm một cách
thích đáng. Tiếp đó, Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX lần lượt củng cố và
hoàn thiện thêm đường lối đổi mới trong đó coi giáo dục là quốc sách hàng đầu
và đề cao “chiến lược con người”. Để thực hiện được chiến lược này, rõ ràng
không thể xem nhẹ việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần dân tộc
và đặc biệt là thái độ của lớp trẻ đối với lịch sử, đối với cội nguồn, đó chính là
những viên đá đặt nền móng cho sự nghiệp hiện đại hoá - công nghiệp hoá để
đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, trở thành giàu mạnh và phồn
vinh.
b. Chủ trương của đảng và nhà nước trong việc gìn giữ và phát huy vốn
văn hoá truyền thống và bản sắc dân tộc.
Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, trong nghị quyết của mình, Đảng ta
chỉ ra rằng cần thiết phải xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc theo định hướng XHCN. Tiếp đó, đại hội lần thứ VIII của Đảng cũng đã
nhận định: trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa giao lưu, mở rộng quan


hệ quốc tế có rất nhiều sự tác động tiêu cực từ bên ngoài làm ảnh hưởng xấu đến
tư tưởng, đạo đức, lối sống và cách nghĩ của nhiều người, nhất là giới trẻ. Vì
vậy, cần phải có những chính sách, giải pháp kịp thời và khả thi trong việc giáo
dục truyền thống tốt đẹp của cha ông, của đất nước đối với lớp trẻ. Mỗi công
dân trong tương lai phải ý thức được rằng tất cả những gì chúng ta có được ngày
nay đều được đánh đổi bằng xương máu của cha ông chúng ta, do đó chúng ta
không ai được phép quên đi nguồn cội của mình. Để làm được điều này, nghị
quyết của Đảng cũng chỉ ra rằng cần phải khôi phục, tôn tạo và giữ gìn những di
tích Lịch sử - Văn hoá của dân tộc.
c. Vị trí - vai trò của Lịch sử địa phương
Lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc có một mối quan hệ biện chứng
không thể tách rời, nằm trong cặp phàm trù “cái chung và cái riêng”. Tri thức
lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể, sinh động và đa dạng của tri thức lịch sử
dân tộc. Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Nói cách
khác, lịch sử dân tộc được hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử
địa phương đã được khái quát và tổng hợp ở mức độ cao.
Chúng ta đều biết rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra
đều mang tính chất địa phương, vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể của
một địa phương nhất định dù rằng các sự kiện đó có tích chất, quy mô và mức
độ ảnh hưởng khác nhau. Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có tác dụng ảnh
hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp nhưng cũng có những sự kiện, hiện tượng mà tác
động của nó vượt ra khỏi khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia, thậm
chí là ý nghĩa quốc tế. Mặt khác, tìm hiểu về lịch sử địa phương không chỉ là
việc riêng của các nhà nghiên cứu mà còn là nhu cầu của mỗi con người. Từ thời
cổ đại, Xixirôn - một chính trị gia nổi tiếng của La Mã đã nói: “Lịch sử là cô
giáo của cuộc sống”. Chính vì lẽ đó, sự hiểu biết về lịch sử dân tộc còn bao hàm
cả sự am tường cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết về quê hương, xứ sở,
nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và
lịch sử dân tộc. Chính Bác Hồ kính yêu, vừa là vị lãnh tụ thiên tài, vừa là nhà sử
học đã dạy rằng:

“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
(Hồ Chí Minh – Lịch sử nước ta)
d. Chủ trương kế hoạch đổi mới chương trình sách giáo khoa lớp 1 – 6.
Năm 2002, nhằm từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới sự nghiệp giáo
dục, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã trình lên Quốc hội và được Quốc hội phê
chuẩn kế hoạch đổi mới chương trình sách giáo khoa lớp, bắt đầu từlớp 1 và lớp
6 cho đến hết. Việc thay sách được triển khai thực hiện theo hình thức cuốn
chiếu. Cho đến nay, chủ trương và kế hoạch này mặc dùđã được thực hiện qua
hai năm học nhưng vẫn còn hết sức mới mẻ,thậm chí còn nhiều ý kiến tranh luận
sôi nổi, đòi hỏi cần phải có thời gian thể nghiệm và kiểm chứng để có cơ sở thực
tiễn tốt hơn cho việc hoàn thiện thay sách giáo khoa.
2. Cơ sở thực tiễn
a. Thực tiễn dạy và học lịch sử địa phương trong trường học nói chung và
ở cấp THPT nói riêng
Trên thế giới, nhất là ở các nước tiên tiến, công tác nghiên cứu và giảng dạy
lịch sử địa phương rất được chú trọng. Ngành “địa phương học” đã ra đời và có
vị trí, vai trò đáng tin cậy trong việc hoạch định và thực thi những nhiệm vụ
kinh tế-xã hội của từng địa phương trong tổng thể chiến lược quốc gia. Nghiên
cứu, tìm hiểu Lịch sử địa phương không chỉ là công việc của giới nghiên cứu mà
đã được xã hội hoá, thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhiều tầng lớp và
nhiều ngành, trong đó ngành công nghiệp du lịch là đáng kể nhất. Đặc biệt,
trong thời kỳ đổi mới và mở rộng giao lưu quốc tế, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu
lịch sử địa phương lại càng được chú trọng.
Ở nước ta, việc nghiên cứu lịch sử địa phương, với tư cách là một ngành
khoa học được bắt đầu từ sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc. Từ sau ngày
miền Nam giải phóng, công tác này được tiến hành trên phạm vi cả nước. Hầu
hết các tỉnh đã biên soạn được lịch sử của tỉnh và kể cả của huyện, xã. Tuy
nhiên, việc dạy và học lịch sử địa phương chưa được tiến hành đều khắp trong
phạm vi cả nước mà mới chỉ dừng lại ở một số điển hình như các trường THPT

ở Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nam Định…Đối với các tỉnh miền núi thì
công tác này hầu như chưa được coi trọng. Hiện trạng trên là do nhiều nguyên
nhân, cả khách quan lẫn chủ quan mà chúng ta đều đã biết như: địa hình phức
tạp, giao thông cách trở, thiếu cán bộ nghiên cứu, thiếu kinh phí đầu tư thích
đáng; chế độ, chính sách đối với những người làm công tác nghiên cứu chưa hợp
lý… Trong điều kiện đó, tôi thiết nghĩ rằng việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử
địa phương là trách nhiệm của đội ngũ giáo viên dạy bộ môn lịch sử.
b. Thực tiễn hết sức phong phú của nguồn tư liệu kiến thức lịch sử địa
phương:
Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta, mỗi tấc đất đều thắm đượm
máu cha ông và ghi dấu những trang oanh liệt của cuộc đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Mỗi tên đất, tên người đều là một niềm tự hào của cả dân tộc. Có thể
khẳng định rằng: không một địa danh nào của dân tộc ta là không gắn liền với
một sự kiện lịch sử nào đó. Người ngoại quốc đã phải thốt lên rằng:
“…Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng,
Đến em thơ cũng hoá những anh hùng
Đến ong dại cũng hoá thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng trở thành vũ khí…”
(Tố Hữu tuyển tập – NXB Văn học)
Ở Dak Lak, mảnh đất chứa đựng trong lòng nó tính đặc sắc của nền văn
hoá các dân tộc thiểu số cũng là một kho tư liệu hết sức phong phú về lịch sử địa
phương (Xem phần phụ lục). Vì lẽ đó, không có lí do nào để chúng ta - những
người dạy sử lại bỏ trống mảng này. Cá nhân tôi cho rằng, với nguồn tư liệu sử
địa phương hết sức phong phú như vậy thì hai tiết trong phân phối chương trình
quả là quá ít bởi vì chúng ta có quá nhiều điều cần giảng dạy cho các em và các
em cũng có quá nhiều điều chưa biết.
II. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1. Thứ nhất, đề tài nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu cấp bách của giáo viên
dạy Lịch sử THCS về mặt tài liệu phương pháp giảng dạy. Trong điều kiện tài
liệu hướng dẫn của Bộ cũng như của Sở GD & ĐT chưa có thì giáo sinh và kể

cả giáo viên đang dạy chỉ biết hy vọng vào người thầy của họ. Do vậy, tôi hy
vọng đề tài của tôi sẽ giúp các em phần nào khắc phục được khó khăn trong việc
giảng dạy chương trình SGK mới, phần Lịch sử địa phương. Ngay từ khi mới
tập huấn về vấn đề thay sách, rất nhiều giáo viên tìm gặp tôi để hỏi ý kiến và
mượn tài liệu về phần này. Đó chính là vấn đề chủ yếu thôi thúc tôi thực hiện đề
tài này càng sớm càng tốt.
2. Thứ hai, Thông qua việc giảng dạy Lịch sử địa phương, đề tài góp phần
nâng cao sự hiểu biết của các em học sinh về nguồn kiến thức lịch sử địa
phương hết sức phong phú và quý giá. Chính những kiến thức đó có ngay xung
quanh các em, các em bắt gặp, tiếp xúc thường xuyên nhưng các em chưa hiểu
được hoặc chưa có ai giảng giải cho các em hiểu được một cách tường tận về
nguồn gốc, nội dung cũng như ý nghĩa của từng sự kiện, hiện tượng lịch sử đó.
Để làm được điều này không phải là ngày một, ngày hai song chúng ta hoàn
toàn tin tưởng rằng, sự đóng góp của chúng ta sẽ là viên gạch dần dần hoàn thiện
bức tường. Tâm lý chung của con người, nhất là người Á đông chúng ta là
hướng về nguồn cội. Ai cũng có một quê hương, một nơi chôn nhau cắt rốn và ai
cũng tự hào về nơi ấy.
3. Thứ ba, Thông qua việc giảng dạy Lịch sử địa phương, đề tài sẽ góp phần
giáo dục các em học sinh ở độ tuổi mới lớn lòng tự hào, tình yêu quê hương, yêu
xứ sở của mình. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi hai lẽ. Trước hết, các em
học sinh lớp 6 vừa ra khỏi cấp tiểu học bước vào một cấp học mới, lần đầu tiên
tiếp xúc với Lịch sử với tư cách là một môn học chính khoá. Việc đặt những
viên gạch nền móng ban đầu cực kỳ có ý nghĩa đối với các em trên con đường
hình thành cách nhìn, thái độ đúng đắn đối với quê hương, xứ sở của mình. Mặt
khác, chúng ta không thể không nhắc tới một thực tế đau lòng là trong nhiều
năm gần đây, DakLak chúng ta cũng như nhiều tỉnh khác đang có hiện tượng mà
người ta quen gọi là “chảy máu chất xám” về các thành phố lớn. Các em học
sinh học giỏi, thành đạt trên con đường học vấn thì bằng cách này hay cách khác
ở lại công tác, lập nghiệp tại những thành phố, trung tâm lớn. Gạt sang một bên
những nguyên nhân thuộc về chế độ, chính sách thì thử hỏi chúng ta có trách

nhiệm gì không trước thái độ ngoảnh mặt, thờ ơ với quê hương của các em.
IV. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Về Lịch sử địa phương cũng như phương pháp sưu tầm, nghiên cứu và biên
soạn Lịch sử địa phương đã có rất nhiều nhà khoa học cũng như nhà sư phạm đề
cập đến. Riêng phần Lịch sử DakLak, đáng kể nhất là các công trình:
+ “Sơ thảo lịch sử đảng bộ tỉnh Daklak” – Ban NCLS đảng DakLak- xuất
bản năm 1981.
+ “Tây nguyên sử lược”- T/s Phan Văn Bé- xuất bản năm 1993
+ “Việc dạy học lịch sử địa phương ở các trườngTHPT tỉnh DakLak”- Luận
án SĐH của Phan Văn Bé.
+ Các bài viết của các học giả Phan Ngọc Liên, Nguyễn Phan Quang… về
Lịch sử Daklak đăng trên tạp chí nghiên cứu Đông nam Á, tạp chí nghiên cứu
Lịch sử…
+ Các công trình nghiên cứu lịch sử huyện đảng bộ của các huyện Krông
Ana, Krông Pắc…
Nhìn chung, các công trình, bài viết về Lịch sử địa phương Daklak đã có
cho tới hiện nay hầu hết là những công trình mang tính khảo cứu.
V. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
1. Như đã xác định, đối tượng, phạm vi vận dụng của đề tài là chương trình
Lịch sử lớp 11, cụ thể là phần Lịch sử địa phương. Vì vậy, trước hết cần phải
nghiên cứu kỹ chương trình sách giáo khoa.
2. Tiến hành sưu tầm, tập hợp tất cả những sử liệu lịch sử địa phương (cả lý
thuyết và thực tế) theo yêu cầu của phần gợi ý liên liên quan đến phần giới hạn
nội dung. Đây là một vấn đề rất khó. Kiến thức lịch sử địa phương thì cả một
rừng, một biển. Vấn đề quan trọng và cần thiết là khai thác những cái nào, khai
thác như thế nào để vừa đạt được cái chung (lịch sử dân tộc) và làm nổi bật cái
riêng (lịch sử địa phương). Đó mới là cái đích của vấn đề.
3. Thiết lập tài liệu hướng dẫn giảng dạy (sơ thảo) cho một số giáo viên
THPT, trước hết là cho giáo viên trường mình tham khảo và ứng dụng, nếu có
thể, kết hợp dự giờ để kiểm nghiệm mức độ hiệu quả của sáng kiến, từ đó rút

kinh nghiệm để hoàn thiện hơn.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ DAKLAK TỪ CỘI NGUỒN ĐẾN THỜI
BẮC THUỘC:
1. Khái quát về điều kiện tự nhiên-xã hội
Tỉnh DakLak nằm về hướng phía tây dãy Trường sơn, trải dài từ 14 độđến
13 độ 45 phút vĩ tuyến Bắc, trải rộng từ 107 độ 12 phút đến 108ˆ độ 54 phút
kinh đông. Phía bắc giáp tỉnh Gia Lai, nam giáp Lâm Đồng, Bình Phước, đông
giáp Phú Yên, Khánh Hoà, tây giáp vương quốc Campuchia. Với tổng diện tích
tự nhiên là 19800 km vuông, DakLak là tỉnh lớn nhất Việt Nam.
Dak Lak nằm ở độ cao trung bình 536m nên khí hậu mát mẻ, ôn hoà. Nhiệt
độ trung bình là 20
o
C. Tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất chỉ chênh nhau 2-
3
o
C. Rừng chiếm 4/5 diện tích đất đai, có rất nhiều gỗ quý hiếm như thuỷ tùng,
cẩm lai, cà te, hương, sao, trẩu… cùng với nhiều loại thú rừng quý hiếm như
voi, bò tót, hổ, gấu, hươu, nai… Lượng mưa trung bình hàng năm là 2050mm.
Trong hơn 40 dân tộc thì người Ê đê, Mơ nông là cư dân bản địa lâu đời nhất ở
Dak Lak.
Dak Lak được xếp là vùng Trung Cao nguyên với bạt ngàn rừng núi trên
nền đất đỏ bazan phì nhiêu, trù phú. Tuy đất đai trù phú, màu mỡ như vậy nhưng
phương pháp canh tác của đồng bào ở đây còn đơn giản, lạc hậu. Đồng bào sống
thành những đơn vị cơ sở là buôn. Hợp thành buôn là những gia đình theo chế
độ mẫu hệ với những quan hệ thân tộc khiến cho cộng đồng được duy trì khá
bền vững.
Con người Dak Lak thật thà, chất phác và giàu tình cảm, rất mến khách,
thậm chí khách của một người nào đó cũng được coi là khách của làng. Tôn
giáo, tín ngưỡng của các dân tộc ở đây bắt nguồn từ tín ngưỡng nguyên thủy,

thờ cúng Yàng và các thần linh. Yàng có một quyền lực rất lớn trong đời sống
tâm linh của cư dân các dân tộc ở đây. Tuy chữ viết xuất hiện muộn nhưng văn
học dân gian của đồng bào Dak Lak nói riêng và Tây nguyên nói chung khá phát
triển và đặc sắc. Những trường ca như Đam San, Xinh Nhã… không những là
niềm tự hào của các dân tộc ở đây mà còn là những viên ngọc quý trong kho
tàng văn học Việt Nam.
Bên cạnh những vẻ đẹp truyền thống, đồng bào Dak Lak còn duy trì khá
nhiều phong tục, tập quán lạc hậu, nhất là trong ma chay, cưới hỏi. Từ khi đất
nước độc lập, thống nhất và đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, được sự quan
tâm đầu tư đúng mức của Đảng và nhà nước, DakLak đang từng ngày thay da
đổi thịt, trở thành một vùng đất đầy hứa hẹn, giàu tiềm năng.
2. Vài nét về văn hoá Ốc Eo:
Những năm 40 của thế kỉ này, L.Marlleret-nhà khảo cổ học người Pháp đã
phát hiện ra nền văn hoá Ốc Eo. Từ ấy đến nay, những kết quả khai quật, khảo
cổ của giới khoa học đã làm nền văn hoá Ốc Eo dần dần hiện ra những dáng vẻ
đẹp đẽ, đặc sắc và lộng lẫy của nó.
Vào những thế kỉ đầu công nguyên, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long
là vùng đất có cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái phức tạp. Các dòng
sông thay dòng đổi nhánh. Cư dân Ốc Eo đã trụ lại trên vùng đất này. Những di
tích liên quan đến chủ nhân của nền văn hoá Ốc Eo, hiện tại phân bố ở các vùng:
tứ giác Long Xuyên với khu di tích Ốc Eo-Ba Thê; vùng Đồng Tháp Mười với
di tích Gò Tháp; vùng U Minh-Năm Căn với khu di tích Cạnh Đền; vùng rừng
Sác Duyên Hải với khu di tích Cần Giờ; vùng ven biển Đông với di tích Trà Cú,
Gò Thành; vùng Đông Nam Bộ với khu vực hạ lưu sông Đồng Nai, Bình Tả,
Thanh Điền. Sự phân bố các di tích ấy, chứng tỏ thời xưa, cư dân đã cư trú trên
một diện rộng ở châu thổ sông Cửu Long. Nối tiếp dòng chảy của cư dân Đồng
Nai, cư dân Ốc Eo đã mở rộng địa bàn cư trú, triển khai ngành nghề và tổ chức
cuộc sống ở vùng sinh thái đầy biến động phức tạp.
Trước hết, cư dân Ốc Eo vẫn là cư dân nông nghiệp sống với phương thức
trồng lúa. Dù còn có tranh luận về các loại lúa, nhưng các nhà khoa học trong và

ngoài nước đều thống nhất, cư dân Ốc Eo có nhiều giống lúa khác nhau. Nghề
trồng lúa nước phát triển, một nền văn minh nông nghiệp lúa nước bắt đầu hình
thành. Cùng với trồng lúa, cư dân Ốc Eo còn trồng mía, cau, dừa. Hoạt động
chăn nuôi thuần dưỡng đã phát triển. Căn cứ vào các hiện vật tìm thấy ở các di
tích khi khai quật như hạt chuỗi hình ống, hình thoi, hình nút áo… Kích thước
và màu sắc khác nhau, được làm bằng các loại đá quý, đá màu, thuỷ tinh và đất
nung, như vòng tay, khuyên tai, nhẫn, lục lạc, xập xoã… các nhà khoa học đã
khẳng định kỹ thuật chế tác của cư dân Ốc Eo đã đạt đến trình độ cao, tinh xảo,
nhất là gia công đồ trang sức bằng vàng, bằng đá quý.
Mặt khác, đồ gốm cũng là loại vật dụng trong sinh hoạt khá phổ biến hàng
ngày của cư dân Ốc Eo. Gốm Ốc Eo đều đã được làm bằng bàn xoay. Nếu như ở
văn hoá Đồng Nai, đồ đá được sử dụng nhiều thì ở văn hoá Ốc Eo sự sử dụng đồ
đá đã giảm xuống. Nhưng đồ sắt lại có sự tiếp nối giữa hai thời kỳ văn hoá. Với
cư dân Ốc Eo, đồ sắt được dùng phổ biến.
Ngoài các hoạt động sản xuất, hoạt động trao đổi buôn bán cũng khá phát
triển ở cư dân Ốc Eo. Khảo sát các di tích, các nhà khoa học đã cho biết: “ Có 12
đồng tiền và mảnh cắt của tiền đã được phát hiện ở các di tích” (văn hoá Ốc Eo,
những khám phá mới, Lê Xuân Diệm, Đào Linh Sơn, Võ Sĩ Khải, Nxb KHXH,
H.1995, Tr.337).
Về mặt cư trú, cư dân Ốc Eo có hai kiểu cư trú: thứ nhất lối cư trú nhà
sàn; thứ hai lối cư trú trên nền đất đắp, của cá thể và gia đình. Trong khi đó, đền
thờ, đền thánh, nói cách khác là những di tích của cộng đồng được xây cất bằng
những vật liệu nặng. Chẳng hạn đền tháp ở Bình Tả, Thanh Điền. Đồng thời, các
đô thị cũng xuất hiện nhiều trên đồng bằng sông Cửu Long thời này.
3. Khái lược về thời công xã nguyên thuỷ ở Dak Lak
Cho tới hiện nay, nguồn gốc của các tộc người ở Tây nguyên đang là vấn đề
quan tâm nghiên cứu của các nhà Sử học, Dân tộc học và Khảo cổ học. Dựa vào
nhiều nguồn tài liệu đáng tin cậy khác nhau: những vết tích trong lòng đất qua
các cuộc khai quật khảo cổ học ở Lak, DakR’lấp, Dak Nông… trong các huyền
thoại, trong các địa danh, các nhà khoa học đưa ra ý kiến xác đáng về tổ tiên xa

xưa của cư dân Tây nguyên. Đó là những người thuộc đại chủng Ôxtralôit, một
giống người lùn, da đen, tóc quăn, hiện nay không còn nữa. Họ chỉ còn lưu lại
những vết tích nhân chủng trên người hiện đại do sự hoà huyết của hai chủng
Ôxtralôit và Môngôlôit với hai ngành Anhđônêdiêng và Nam Á.
DakLak cũng nằm trong tổng thể chung của toàn bộ vùng Tây nguyên. Để
minh chứng và giúp chúng ta hình dung rõ nét hơn về thời cổ đại của Tây
nguyên, chúng ta hãy nhìn nhận kết quả của đợt khai quật khảo cổ mới nhất về
Tây nguyên. Đó là di chỉ Lung Leng (Sa Thầy, Kon Tum) đã làm xôn xao giới
nghiên cứu khảo cổ học.
Với mục đích giải phóng lòng hồ phục vụ tích nước cho nhà máy
thuỷ điện Yaly, thu thập di tích và di vật khảo cổ, góp phần dựng lại bức tranh
toàn cảnh về quá khứ xa xưa của các cộng đồng cư dân cổ đã cư trú ở khu vưc
xã Sa Bình, huyện Sa Thầy; được sự đồng ý của Bộ Văn hóa - Thông tin, từ đầu
tháng 6-2001, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử, Trưởng phòng nghiên
cứu Thời đại đá (Viện khảo cổ học) làm trưởng đoàn cùng hầu hết chuyên gia
hàng đầu của ngành khảo cổ học Việt Nam đã có mặt tại Lung Leng. Chỉ riêng
Viện khảo cổ học Việt Nam đã cử tới đây hơn 40 người, với 2 phó giáo sư, 12
tiến sĩ, còn lại đều là thạc sĩ chuyên ngành. Vào thời điểm này tại Lung Leng
cũng có hơn 600 lao động làm việc thường xuyên trên công trường cùng với
nhiều trang thiết bị hiện đại. Trên một diện tích khai quật hơn 10.000m
2
,các nhà
khảo cổ học đã mở được gần 100 hố, mỗi hố có diện tích 100m
2
.
Qua hai đợt khai quật, các nhà khoa học đã thu được gần 30 tấn hiện vật,
gồm 8000 tiêu bản đá, hàng triệu mảnh gốm, trên 100 mộ nồi vò, gần 40 khu
bếp, lò nung, cùng với các hiện vật như chuỗi đã, rìu, chận đèn, bát… Trong
tầng văn hoá, các nhà khoa học còn tìm thấy một số đồ gốm sứ có niên đại từ thế
kỷ XIV trở lại, trong đó có cả gốm sứ Việt Nam. Đó là kết quả các nhà khảo cổ

học thu được ở di chỉ khảo cổ Lung Leng (thuộc xã Sa Bình, huyện Sa Thầy,
tỉnh Kon Tum). Đây là vết tích văn hoá từ thời đại đá cũ, đến hậu kỳ đá mới và
sơ kỳ kim khí.
Căn cứ vào những gì đã khai quật và xác định niên đại, các nhà khoa học
đã dựng lại một bức tranh toàn cảnh về người tiền sử Việt Nam thuộc nhiều giai
đoạn khác nhau. Sớm nhất là dấu ấn văn hoá của người tiền sử hậu kỳ đá cũ. Đó
là những cư dân chế tác và sử dụng đá cuội ghè đẽo. Tiếp đến là lớp cư dân tiền
sử hậu kỳ đá mới, sơ kì kim khí với những công cụ đá mài rất sắc nét, hoàn thiện
như rìu, bàn mài, chân đèn. Đặc biệt các nhà khảo cổ đã tìm thấy những viên đá
cuội tròn dẹt, được đục lỗ và chế tác đến độ tinh xảo thời đó. Các chuyên gia
cũng nhận định, qua nghiên cứu những di vật thu lượm được thì cư dân tiền sử
vùng Lung Leng này không chỉ đạt trình độ cao về kỹ thuật mài đá, chế tác công
cụ, mà họ còn là những người thợ chế tác gốm rất giỏi. Từ thời sơ khai đó, họ đã
biết pha chế một tỉ lệ đất sét thích hợp với cát, bã thực vật và hiểu rõ kỹ thuật
đắp lò nung gốm để chế tác từng loại vật dụng sinh hoạt như chén, bát, chân
đèn, đồ trang sức với nhiều nghệ thuật, kích thước khác nhau., Phó Giáo sư -
Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử cho biết đây là một trong những di tích khảo cổ học có
tầng văn hoá dày, có quy mô lớn và chứa đựng vết tích văn hoá nhiều thời đại.
Chính toàn bộ những tư liệu khai quật của đợt này sẽ góp phần nghiên cứu thời
kỳ quá khứ xa xưa của Tây Nguyên, để minh chứng Tây Nguyên trong quá khứ
là một vùng năng động và có sự giao lưu rộng mở. Ở đây đã chứa đựng vết tích
văn hoá của những cư dân từ xa xưa cho đến giai đoạn bước vào văn minh. Khai
quật di chỉ lần này chính là giải phóng khỏi lòng hồ của thuỷ điện Yaly một di
tích quan trọng để các nhà làm điện ở Việt Nam có thể yên tâm trữ nước, chủ
động các vấn đề phát điện và cung cấp điện cho đồng bào các dân tộc bản địa
biết được di tích văn hoá lịch sử của mình và càng thêm yêu quý mảnh đất quê
hương của chính mình.
4. DakLak thời kỳ Bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập:
Theo ý kiến của các nhà sử học Ke-nơ (Kern, người Đức), Ca-ba-tông
(Cabaton, người Pháp), Hô-lơ (D.G.E.Hall, giáo sư sử học đại học Luân Đôn),

vào thế kỉ II trước công nguyên, những người Hindu (Ấn Độ) từ khu vực phía
tây thiên di đến lập nghiệp tại vùng hạ lưu sông Mê Kông. Là một dân tộc có
nền văn minh lâu đời, họ không gặp khó khăn khi tập hợp một số bộ lạc sống rải
rác trong vùng lập thành vương quốc Phù Nam, vương đô đóng ở ỐcEo mà ông
vua đầu tiên là Kaudinya. Những người M’nông sống xa vương đô hơn, không
chịu khuất phục sự cai trị của người Hindu, đã tìm cách chuyển cư dần dần vào
vùng nội địa, tây Trường Sơn. Tuy nhiên, từ thế kỉ I đến thế Kỉ V, vương quốc
Phù Nam trở thành một quốc gia hùng cường đầu tiên ở vùng Đông Nam Á, mà
biên cương của nó chạy dài từ bở biển Đông sang vịnh Ben-gan (Ấn Độ). Do
vậy khu vực nội địa Trường Sơn của người M’nông và các cư dân khác ở Dak
Lak không tránh khỏi sự thống trị của đế quốc Phù Nam.
Đến thế kỉ VI, Chetoseuna, quốc vương xứ Chân Lạp - một chư hầu của
đế quốc Phù Nam (nằm ở khu vực Lục Chân Lạp sau này) - đã hưng binh, tiêu
diệt đế quốc Phù Nam và lên ngôi vua, lấy hiệu là Bhavaraman. Chân Lạp trở
thành một đế quốc hùng mạnh, thôn tính toàn bộ đất đai của đế quốc Phù Nam.
Đến đây, người M’nông và các dân cư ở Dak Lak lại chịu sự thống trị của Chân
Lạp.
Đối với cư dân nói tiếng Malayô-Pôlinêxia (tức người Êđê, Gia rai, Chăm,
Raglay. Churu), họ lại xuất phát từ ven biển Quảng Đông (Trung Quốc) tràn
xuống vùng Đông Nam Á và Đông Dương, từ thiên niên kỉ thứ II trước công
nguyên hay sớm hơn, bằng nhiều con đường khác nhau. Những người Malayô-
Pôlinêxia sau khi dừng lại ven bờ biển Đông trở thành tổ tiên người Chàm, một
số tiếp tục thiên di lên vùng núi Trường Sơn, chinh phục và hoà huyết với cư
dân bản địa tại Cao nguyên Dak Lak và Cao nguyên Plâycu.
Sau khi thiết lập vương quốc Phù Nam, người Hindu tiếp tục tiến về phía
đông dọc theo các sườn đồi tràn xuống vùng đất người Chàm áp đặt nền văn
minh Ấn Độ lên vùng đất này. Đến cuối đời nhà Hán, một người Chàm gốc Ấn
tên là Khu Liên (Kiu Liên) ở Tượng Lâm nổi dậy tiêu diệt huyện lệnh nhà Hán,
thiết lập vương quốc Lâm Ấp (có sách viết là Lin-ye) vào năm 192. Biên cương
của Lâm Ấp lúc này kéo từ quận Nhật Nam vào giáp ranh giới Chân Lạp (Tức từ

Quảng Bình, Quảng Trị đến vịnh Cam Ranh). Không chịu được sự thống trị của
người Hindu, một số người Malayô-Pôlinêxia từ bỏ nước Lâm Ấp thiên di lên
vùng núi Trường Sơn chinh phục và hoà huyết với dân cư bản địa, hình thành
người Êđê, Gia rai hiện đại khai phá Cao nguyên Dak Lak-Plâycu.
Cho đến thế kỉ VII, sau những cuộc giao tranh với vương quốc Chân Lạp,
Chiêm Thành chiếm lĩnh thung lũng sông Mê kông, sông Sêsan, sông Ba và các
núi non phụ cận. Họ chiếm đóng từ tây Trường Sơn sang tận bờ tả ngạn sông
Mê Kông và từ Stung-Treng sang đến sông Mun. Bắt đầu từ đấy, cư dân Tây
Nguyên rơi vào sự đô hộ của Chiêm Thành, cho mãi đến thế kỉ XV.
Trong giai đoạn này, các vương triều Ăngko và Chiêm Thành đã tiến
hành nhiều cuộc chiến tranh và lôi kéo cư dân ở Tây Nguyên vào những cơn lốc
chinh chiến triền miên, buộc họ phải chịu những gánh nặng thuế má, phu phen,
cống nộp. Giai cấp thống trị đã cướp bóc của họ vô số vàng bạc, ngà voi, sừng tê
giác, nhựa thông, hổ phách, gỗ, trầm hương, các cây thuốc quý, đồng thời bắt họ
lao động sản xuất, phục dịch nặng nề.
Trước sự giày xéo, cướp bóc dã man của quân xâm lược, nhân dân Tây
Nguyên đã vùng dậy đấu tranh anh dũng. Xuất phát từ bản năng tự vệ, từ tinh
thần quả cảm, từ mối dây ràng buộc huyết thống trong cộng đồng thị tộc, họ tổ
chức chống lại ách thống trị của ngoại bang. “Làng chiến đấu” và các “liên minh
quân sự” giữa các bộ lạc - những khái niệm mà các nhà dân tộc học thường hay
nói đến - chính là dấu tích truyền thống chống ngoại xâm từ xa xưa còn tồn tại
cho đến ngày nay.
Cuộc tiếp xúc với văn hoá nước ngoài, do điều kiện chiến tranh và sinh
sống cũng ảnh hưởng không giống nhau giữa các tộc người ở Tây Nguyên xưa.
Người M’nông chuyển cư vào trú ẩn ở vùng rừng già tây Trường Sơn, xây dựng
các làng chiến đấu vững chắc. Do đó, sự tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ của họ
không sâu sắc. Những cuộc đổi chác, mua bán của người M’nông với người Hoa
(trực tiếp hay gián tiếp qua thương lái từ sông Mê kông sang) không được
thường xuyên, nên văn hoá Trung Quốc cũng không ảnh hưởng sâu đậm gì đến
họ. Vì vậy, cho đến khi Pháp xâm lược, cuộc sống người M’nông vẫn còn mang

nhiều màu sắc nguyên thuỷ.
Trong khi đó, người Ê đê, Gia rai trên cao nguyên Dak Lak, Plâycu lại bị
sự thống trị trực tiếp của các thế lực phong kiến Chiêm Thành và Chân Lạp. Họ
chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ tương đối sâu đậm hơn người M’nông.
85% ngôn ngữ Êđê, Gia rai đều mang dấu ấn sâu sắc nền văn minh Chàm. Do
đó, trình độ văn minh của hai dân tộc này cao hơn so với các dân tộc khác ở Tây
Nguyên.
Vào khoảng thế kỉ VII-XV, trong xã hội Tây Nguyên nói chung cũng dần
dần hình thành bộ máy nhà nước sơ khai, có người đứng đầu, như hiện tượng
các Patau Ia “Vua Nước”, Patau Pui “Vua Lửa”.
II. GỢI Ý GIẢNG DẠY
1. Chuẩn bị:
2. Thiết kế giáo án giảng dạy:
Như trên đã trình bày, kiến thức lịch sử địa phương rất phong phú, đa dạng
và cũng rất phức tạp. Trong cái mênh mông đó, người giáo viên phải chọn lựa,
sàng lọc ra những sự kiện, những vấn đề cần thiết để khai thác và sử dụng. Đặc
biệt khung thời gian lịch sử trong chương trình lớp 6 là từ cội nguồn cho đến thế
kỷ X. Phần này, như chúng ta đã biết là giai đoạn rất phức tạp, còn nhiều vấn đề
chưa thống nhất. Đối với tỉnh DakLak chúng ta, do có chung biên giới với
Campuchia nên vấn đề này rất nhạy cảm. Khai thác như thế nào cho đúng mức
và hiểu như thế nào để không sai lệch, méo mó là cả một vấn đề. Hơn nữa, thời
lượng mà phân phối chương trình quy định chỉ có 2 tiết dạy, đòi hỏi người giáo
viên phải biết vận dụng hợp lý. Theo chúng tôi, trong điều kiện thiếu thốn tài
liệu, lại mới tiếp xúc với nội dung này ở chương trình lớp 6 nên rất có thể diễn
ra hai khuynh hướng đối với giáo viên: một là không biết giảng gì cả; hai là
giảng sa vào kể chuyện ôm đồm. Để tránh được tình trạng này, theo chúng tôi,
trước hết giáo viên phải định hình ra được cái “ sườn” cho từng tiết dạy. Nói
cách khác là phải trả lời được câu hỏi: trong tiết này, ta sẽ dạy cho các em cái
gì? “ Sách Giáo viên” về phần này chỉ là vài dòng gợi ý rất chung. Theo chúng
tôi, từ gợi ý đó kết hợp với vốn kiến thức Lịch sử địa phương mà mình có (tỉnh,

huyện, xã), chúng tôi đề xuất cách thiết kế như sau:
Tiết thứ nhất: Giảng khái quát về lịch sử tỉnh DakLak bao gồm những nội
dung và bố cục chúng tôi đã trình bày ở trên. Việc còn lại của giáo viên là tóm
lược những ý chính, thật gọn và khái quát. Có thể chia ra làm các mục:
1. Khái quát về điều kiện tự nhiên (Có sử dụng bản đồ)
2. Vài nét về Daklak thời đại nguyên thuỷ.
3. Tình hình Daklak thời kỳ Bắc thuộc và đấu tranh giành độclập.
Tiết thứ hai:Giảng về lịch sử của Huyện (nơi trường mình dạy) Ở tỉnh ta,
theo chúng tôi được biết thì không tính đến một số huyện mới thành lập như
Buôn Đôn, DakSong, hầu hết các huyện đều đã có Lịch sử huyện do các huyện
đảng bộ biên soạn. Theo chúng tôi, bố cục tiết này có thể chia thành các mục:
1. Khái quát về điều kiện tự nhiên của huyện (ta)
2. Tình hình sơ lược huyện.....từ thời nguyên thủy đến thế kỷ X.
3. Giới thiệu một di tích Văn hoá, hay di tích lịch sử của huyện, xã ở địa
phương (nếu có)
Chúng ta đều biết Daklak chúng ta có một kho tàng Văn hoá tổng hợp hết
sức phong phú và đa dạng. Cho đến tháng 5 năm 1997, Bộ Văn hoá và thông tin
đã công nhận 6 di tích ở Daklak gôm 3 di tích Lịch sử cách mạng, 1 di tích kiến
trúc tôn giáo và 2 danh lam thắng cảnh. Trong đợt tổng kiểm kê di tích toàn tỉnh
(1996) đã khảo sát được 71 di tích thuộc các loại hình, trong đó có 23 di tích lịch
sử cách mạng, 13 di tích kiến trúc nghệ thuật và kiến trúc tôn giáo, 2 di tích lịch
sử văn hoá, 8 di tích khảo cổ và 25 di tích danh thắng. Nhằm giúp cho các giáo
sinh cũng như giáo viên có nguồn tư liệu dồi dào, chúng tôi đã tập hợp và giới
thiệu cụ thể ở phần Phụ lục. Do tính chất của đề tài, phần Phụ lục chúng tôi
thực hiện khá công phu và coi đó là một nội dung rất quan trọng, không thể
thiếu của đề tài. Đó là những nội dung kiến thức khá phong phú để giáo viên
khai thác và sử dụng.
Để thực hiện phần soạn giảng, chuẩn bị được tốt hơn, giáo viên cần đề xuất
phương hướng của mình đối với 2 tiết này lên cán bộ phụ trách chuyên môn của
trường xin ý kiến. Cán bộ chuyên môn của trường lại xin ý kiến chỉ đạo của cán

bộ chuyên môn Phòng, Sở. Có như vậy thì giáo viên sẽ tự tin hơn trong công
việc của mình.
3.Đề xuất một giáo án (1tiết) cụ thể:
Giáo án tiết thứ nhất: TỈNH DAKLAK (Từ cội nguồn đến thế kỷ X
A. Mục đích yêu cầu:
vNhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết khái quát về tỉnh DakLak từ
cội nguồn cho đến thế kỷ X.
vThông qua đó, giáo dục các em lòng yêu quê hương mình, lòng tự hào về
quá khứ dựng nước và giữ nước của cha ông.
vGóp phần rèn luyện kỹ năng nhận thức Lịch sử qua bản đồ, tranh ảnh.
B. Các bước lên lớp:
1. Ổn định lớp và kiểm tra bài cũ:(7 phút)
a. Vì sao nói: trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938 là một chiến thắng vĩ
đại của dân tộc ta?
b. Trình bày bài tập chuẩn bị ở nhà: Lập bảng thống kê những sự kiện lớn
đáng ghi nhớ của Lịch sử nước ta từ khi dựng nước đến năm 938.
Mỗi câu gọi một học sinh trả lời. Câu b có thể gọi thêm các học sinh khác bổ
sung. Giáo viên nhận xét và củng cố phần trả lời của các em rồi cho điểm công
khai trước lớp.
2.Giảng bài mới: (35 phút)
a.Khái quát về điều kiện tự nhiên-xã hội: (7 phút)
Tỉnh DakLak nằm về hướng phía tây dãy Trường sơn. Phía bắc giáp tỉnh
Gia Lai, nam giáp Lâm Đồng, Bình Phước, đông giáp Phú yên, Khánh Hoà,
tây giáp vương quốc Campuchia. Diện tích tự nhiên 19800 km vuông.
Dak Lak có rất nhiều gỗ quý hiếm như thuỷ tùng, cẩm lai, cà te, hương,
sao, trẩu… cùng với nhiều loại thú rừng quý hiếm như voi, bò tót, hổ, gấu,
hươu, nai…. Trong hơn 40 dân tộc thì người Ê đê, Mơ nông là cư dân bản địa
lâu đời nhất ở Dak Lak. (Giáo viên sử dụng bản đồ hành chính để giới thiệu
phần này)
b.Sơ lược về thời công xã nguyên thuỷ ở Dak Lak (10 phút)

Dựa vào nhiều nguồn tài liệu đáng tin cậy khác nhau: những vết tích
trong lòng đất qua các cuộc khai quật khảo cổ học ở Lak, DakRlấp, Dak
Nông… trong các huyền thoại…người ta khẳng đinh rằng: cư dân Tây nguyên
nói chung và Daklak nói riêng là các dân tộc Êđê, Mơ nông, Giarai…có mặt từ
thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên hoặc sớm hơn. Họ ở thành buôn,
làng, dựa vào rừng núi, sống bằng săn bắn, hái lượm, trồng trỉa trên nương
rẫy.
Họ vừa phải kiếm ăn, xây dựng buôn làng vừa phải chiến đấu chống lại
kẻ thù xâm lược, bảo vệ quê hương.
c. DakLak thời kỳ Bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập:(18 phút)
Theo ý kiến của các nhà khoa học, vào thế kỉ 2 trước công nguyên,
những người Hindu (Ấn Độ) từ phía tây thiên di đến lập nghiệp tại vùng hạ
lưu sông Mê Kông,lập thành vương quốc Phù Nam. Từ thế kỉ 1 đến thế Kỉ 5,
vương quốc Phù Nam trở thành một quốc gia hùng cường đầu tiên ở vùng
Đông Nam Á. Do vậy, cư dân Tây nguyên nói chung và Daklak nói riêng đã rơi
vào sự thống trị của đế quốc Phù Nam.
Đến thế kỉ 6, Chân Lạp - một chư hầu của đế quốc Phù Nam đã tiêu diệt
đế quốc Phù Nam. Chân Lạp trở thành một đế quốc hùng mạnh, thôn tính
toàn bộ đất đai của đế quốc Phù Nam. Đến đây, người Mơ nông và các dân cư
ở Dak Lak lại chịu sự thống trị của Chân Lạp.
Sau khi thiết lập vương quốc Phù Nam, qua hàng nghìn năm hoà huyết
giữa các tộc người đã hình thành nên người Êđê, Gia rai, Mơ nông hiện đại
khai phá Cao nguyên Dak Lak - Plâycu.
Cho đến thế kỉ 7, sau những cuộc giao tranh với vương quốc Chân Lạp,
Chiêm Thành chiếm lĩnh toàn bộ khu vức này. Bắt đầu từ đấy, cư dân Tây
Nguyên rơi vào sự đô hộ của Chiêm Thành, cho mãi đến thế kỉ 15.
Trong giai đoạn này, các vương triều Ăngko và Chiêm Thành đã tiến
hành nhiều cuộc chiến tranh và lôi kéo cư dân ở Tây Nguyên vào những cơn
lốc chinh chiến triền miên, buộc họ phải chịu những gánh nặng thuế má, phu
phen, cống nộp. Giai cấp thống trị đã cướp bóc của họ vô số vàng bạc, ngà voi,

sừng tê giác, nhựa thông, hổ phách, gỗ, trầm hương, các cây thuốc quý, đồng
thời bắt họ lao động sản xuất, phục dịch nặng nề.
Trước sự giày xéo, cướp bóc dã man của quân xâm lược, nhân dân Tây
Nguyên đã vùng dậy đấu tranh anh dũng. Xuất phát từ bản năng tự vệ, từ tinh
thần quả cảm, từ mối dây ràng buộc huyết thống trong cộng đồng thị tộc, họ tổ
chức chống lại ách thống trị của ngoại bang. Làng chiến đấu” và các - liên
minh quân sự” giữa các bộ lạc - chính là dấu tích truyền thống chống ngoại
xâm từ xa xưa con tồn tại cho đến ngày nay.
Cuộc tiếp xúc với văn hoá nước ngoài, do điều kiện chiến tranh và sinh
sống cũng ảnh hưởng không giống nhau giữa các tộc người ở Tây Nguyên
xưa. Người Mơ nông chuyển cư vào trú ẩn ở vùng rừng già tây Trường Sơn,
xây dựng các làng chiến đấu vững chắc.
Vào khoảng thế kỉ 7, trong xã hội Tây Nguyên nói chung cũng dần dần
hình thành bộ máy nhà nước sơ khai, có người đứng đầu, là Vua Nước, Vua
Lửa.
3.Củng cố, dặn dò: (3 phút)
 Nhắc lại và nhấn mạnh lại kiến thức cần ghi nhớ
 Dặn dò các em ôn tập và chuẩn bị bài cũ.
 Nếu có thể, giới thiệu các em tìm đọc một số tài liệu Lịch sử đại
phương (tuỳ chọn)
Trên đây là một giáo án giới thiệu. Chúng tôi chủ yếu thiên về phần chuẩn
kiến thức. Tùy điều kiện từng trường, có thể tổ chức cho các em tham quan, học
tập một số di tích, địa danh quan trọng. (Ví dụ, các trường THCS trong T.P
Buôn Ma Thuột có thể cho các em tham quan viện bảo tàng tỉnh DakLak). Còn
về vấn đề phương pháp thì ngoài những phương pháp truyền thống là thuyết
trình, giáo viên phải đặc biệt chú ý sử dụng hợp lý tối đa đồ dùng trực quan mà
chúng tôi đã chuẩn bị ở phần Phụ lục và giáo viên chuẩn bị ở nhà. Phần chúng
tôi in nghiêng được xem như là phần ghi nhớ (ghi chép) đối với học sinh. Tất
nhiên không phải là máy móc tuyệt đối.
III. PHẦN KẾT LUẬN

v Đây là một đề tài mới và thú vị và cũng là một vấn đề khó vì tính đa dạng,
phức tạp của nó. Với phương châm đã nêu ở phần lý do chọn đề tài, chúng tôi cố
gắng đem hết tâm huyết và vốn hiểu biết của mình để hoàn thành đề tài. Bên
cạnh việc xây dựng một hướng đi chung, chúng tôi cũng đã cố gắng thiết kế và
đề xuất phần hướng dẫn cụ thể. Chúng tôi thiết nghĩ đây là một vấn đề có ý
nghĩa rất thiết thực nhất là trong thời điểm hiện nay.
v Dự định của chúng tôi thì rất lớn. Trong thời gian tới, cùng với các đồng
nghiệp và sự chỉ đạo của các cơ quan chuyên môn và chức nătag trên cơ sở điều
kiện cho phép,chúng tôi sẽ xây dựng một đề tài “ Hướng dẫn giảng dạy phần
lịch sử địa phương ở các trường THCS tỉnh DakLak” và tập giáo án giới thiệu.
Tại thời điểm này, chúng tôi tạm bằng lòng và dừng lại trong khuôn khổ đề tài
trên. Để hoàn thành được công trình này, một lần nữa chúng tôi xin chân thành
cảm ơn các đồng nghiệp: thạc sỹ Lê Xuân Diệu, cử nhân Lê Xuân Mợi cùng với
các đồng nghiệp, bạn bè khác đã gợi ý, góp ý và giúp đỡ chúng tôi. Chắc chắn
không tránh khỏi những hạn chế, kính mong các bạn bè, đồng nghiệp góp ý chân
thành để chúng tôi hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Buôn Ma Thuột, Tháng 02 năm 2004
PHỤ LỤC
F Năm 1899, thực hiện chính sách bình định Cao Nguyên, Tổng thống
Pháp cử viên cai Bu-rơ-goa (Bourgeois) từ phía bắc theo sông Mê-công rẽ
vào sông Sêrêpôk đến vùng đất Buôn Đôn, chọn nơi này làm đại lý, với mục
đích làm thí điểm trong cuộc bình định Cao Nguyên Trung phần. Tại đây,
Bu-rơ-goa chọn một số tù trưởng sơn cước làm cố vấn, đó là Phét Lasa và Y
Thu Knul (Khun Zu Nốp) người M’nông-Lào, coi họ là những cộng sự
trung thành của các viên khâm sứ ở Dak Lak. Tuy vậy, việc chọn Buôn Đôn
làm đại lý của người Pháp đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của đồng bào
nơi đây. Bu-rơ-goa không tài nào mở rộng được vùng đất cai trị của mình
mà còn bị mất uy tín với nhân dân bản địa.
Ngày 22/12/1904, thực dân Pháp chuyển đại lý từ Buôn Đôn về Buôn

Ma Thuột và chọn nơi này làm thủ phủ của Cao nguyên Dak Dak (thuộc
tỉnh Kon Tum), đồng thời giao cho triều đình Việt Nam phối hợp với người
Pháp để cai quản.
Ngày 02/7/1923, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định tách phần
đất Dak Lak ra khỏi KonTum và thành lập tỉnh riêng. Lúc mới thành lập,
dak lak chưa có huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng dựa theo các buôn có sẵn
của các dân tộc bản địa, như Ê đê có 151 làng, M’nông có 117 làng, Gia rai
có 11 làng, Bih có 24 làng, M’dhur có 120 làng…
Năm 1931, Pháp làm cuộc cải cách hành chính toàn Đông Dương, địa
bàn tỉnh Dak Lak được chia làm 5 quận là Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ, Dak
Song, Lak và M’drăk, gồm 440 làng. Tỉnh lỵ đóng tại Buôn Ma Thuột. Từ
đó cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 và suốt 9 năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, về mặt hành chính trên địa bàn tỉnh Dak Lak không
có gì thay đổi lớn. Ngày 15/10/1950, Bảo Đại ban hành Dụ số 6, đặt các tỉnh
Cao nguyên, trong đó có Dak Lak làm Hoàng triều Cương thổ, có quy chế
cai trị riêng.
Sau Hiệp định Genève, chính quyền Ngô Đình Diệm huỷ bỏ quy chế
Hoàng triều Cương thổ và đặt tỉnh Dak Lak cũng như các tỉnh khác thuộc
Cao nguyên Trung phần của “Việt Nam Cộng hoà”. Nghị định số 158
BNV/NĐ ngày 08/8/1957 chuyển đổi thị trấn Buôn Ma Thuột thành xã Lạc
Giao thuộc quận Buôn Ma Thuột. Nghị định số 356 BNV/NĐ ngày 2/7/1958
ấn định các đơn vị hành chính của tỉnh Dak Lak gồm 5 quận, 21 tổng, 77
xã. Riêng Buôn Ma Thuột có các tổng Ea Tam (10 xã), Cư Keh (4 xã), Cư
Ewi (6 xã), Drai Sáp (5 xã).
Ngày 20/12/1963, chính quyền Sài Gòn ban hành nghị định số 262
BNV/HC/NĐ thành lập thêm một quận mới của tỉnh Dak Lak, lấy tên là
quận Phước An. Lúc bấy giờ Dak Lak gồm có 4 quận: Buôn Ma Thuột,
Buôn Hồ, Lạc Thiện, Phước An. Quận Buôn Ma Thuột không còn tổng
nữa, có các xã: Cư Ebu Math, Cư Edru Math, Cư Kphong Math, Cư M’gar
Math, Cư Ming Math, Cuôr Dang Math, Chi Lăng, Đạt Lý, Ea Ana Math,

Ea Emaih Math, Ea Hbong Math, Ea Hding Maath, Ea Net Math, Ea
Kwang Math, Ea Madong Math, Ea Mdhar Math, Ea Kmat Math, Ea Knir
Maath, Ea Ktur Math, Ea Pac Math, Ea Bour Math, Kmrong Prông Math,
Lạc Giao, Quảng Nhiêu, Tân Điền, Thọ Thành.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam (30/4/1975), chính quyền
Cách mạng đã sắp xếp lại địa bàn hành chính của Dak Lak gồm 5 huyện và
1 thị xã: Krông Buk, Krông Pawc, Dak Mil, Dak Nông, Lak, thị xã Buôn
Ma Thuột.
Ngày 21/1/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 08-NĐ/CP, chuyển
thị xã Buôn Ma Thuột thành thành phố trực thuộc tỉnh Dak Lak, lập thêm
hai phường mới, chuyển 3 xã qua huyện Ea Súp, 3 xã khác qua huyện Cư
Jút, 1 xã về huyện Krông Păc, Nghị định số 71/CP ngày 18/11/1996 của
Chính phủ cho phép việc thành lập thêm 4 phường mới thuộc thành phố
Buôn Ma Thuột. Như thế, trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột tính từ
thời điểm này có 18 phường, xã.
Đến nay, tỉnh Dak Lak có diện tích tự nhiên 19.599km
2
, dân số gần 2
triệu người, 44 dân tộc anh em, được phân bố trên 18 huyện, 1 thành phố,
đó là: Buôn Ma Thuột, Huyện M’drăc, Ea Kar, Krông Păc, Krông Bông,
Lak, Ea H’leo, Krông Năng, Krông Buk, Cư M’gar, Buôn Đôn, Ea Súp,
Krông Ana, Cư Jút, Krông Nô, Dak Mil, Dak Song, Dak Nông, Dak R’lấp.
FHuyền thoại về Hồ Lak:
Đã từ lâu lắm rồi, thanh niên và dân làng đi săn, săn được nhiều thú
rừng họ cùng nhau ăn uống, nghỉ ngơi và chia thuốc hút, nhưng không có ai
có lửa. Y Biên là một chàng trai nhanh nhẹn, khoẻ mạnh đã tìm cách làm ra
lửa để hút thuốc. Thấy vậy, mọi người thách nhau: Y Biên làm ra lửa, vậy
đố ai làm cháy được nước?
Mọi người ồ lên: Làm sao mà cháy được nước?…
Dân làng nói như vậy, nhưng hai thanh niên Y Lắc và Y Liêng đã làm

cho nước cháy được. Dân làng bắt đầu lo sợ vì không còn nước để uống như
ngày xưa nữa. Từ đó họ phải uống nước sương, và bắt Y Lắc, Y Liêng phải
làm nô lệ cho dân làng.
Vì không quen làm nô lệ cho dân làng nên hai người bàn việc trốn đi.
Đang lúc nằm ngủ trên tảng đá to, Lắc và Liêng đã được Giàng đến mách
bảo:
-Ơ các con “Nếu các con biết chặt cây m’ô thì có nước trong đó để
uống các con ạ!”
Được Giàng mách bảo, hai chàng thức dậy vội vã đi tìm cây m’ô.
Chặt một cây, chặt hai cây đã có nước, chặt ba cây thấy bên trong có một
chú lươn. Y Lắc và Y Liêng mừng lắm bèn đem nước và lươn về nuôi, và họ
không còn muốn bỏ buôn làng đi nữa. Ơ một ngày, một đêm, tới chiều con
lươn đã lớn. Lươn ở nồi đất, nồi đất chật, ở nồi đồng, nồi đồng cũng không
chứa nổi. Cuối cùng Lắc và Liêng phải đào sâu dưới đất làm chỗ ở cho
lươn. Con lươn ngày càng to, nước trong nhà mỗi ngày một nhiều. Sợ nước
tràn ra ngoài, Y Lắc và Y Liêng càng đào rộng và sâu mãi. Khi đã được
nhiều nước, hai chàng không nói cho ai hay, dân làng cũng không ai hay.
Một lần do mải chơi với con lươn nên có con chó đến ăn vụng cơm
của hai chàng. Nhờ vậy, dân làng mới biết rõ Lắc và Liêng đã có nhiều
nước, nấu được nhiều cơm, nên họ mừng lắm. Để có được nước, dân làng
đổi hết nồi đồng, nồi đất, đổi hết chiêng ché cho Lắc và Liêng nên hai chàng
bỗng trở nên giàu có. Họ được trả tự do, và hồ nước đã trở thành của
chung, không ai còn phải đổi chác gì nữa.
Con lươn của Lắc và Liêng mỗi ngày một lớn nên chỗ ở của nó ngày
càng trở nên chật chội. Một hôm lươn bảo với hai chàng trai: “Hãy làm cho
tôi hai cái sừng sắt cắm vào đầu tôi”. Hai chàng trai cùng họp với dân làng
nhưng chẳng ai làm ra vật bằng sắt được, chỉ có Y Biên, kẻ làm ra lửa nên
nung được sắt. Con lươn nhờ có sừng nên làm cho chỗ ở ngày càng rộng
hơn.
Chỗ ấy ngày nay là hồ Lak xinh đẹp và giàu có, trong xanh như chiếc

gường soi xinh xắn cho mọi người đến du ngoạn và nghỉ ngơi.
FDray H’Linh: (Thác nước mang tên nàng H’linh)
Chuyện xưa kể lại rằng: tại một buôn làng Ê đê có đôi trai gái yêu
nhau say đắm. Chàng trai tên là Dam Yông, tuy nghèo khó nhưng siêng
năng, dũng cảm. Nàng H’Linh xinh đẹp có bờ tóc dài chấm gót như dòng
suối chảy, tính tình nết na, hiền hậu. Nhưng tình yêu của họ đã không vượt
qua được phong tục có tự ngàn đời do cả hai đều nghèo, không đủ trâu bò
để mời làng, không có nhiều ché rượu để cúng làng xin làm đám cưới.
Thế rồi, dưới bóng cây Kơnia đầu làng, Dam Yông đã chia tay
H’Linh để quyết chí ra đi tìm cách làm lụng ra nhiều của cải để trở vể cưới
nàng H’Linh. Nàng H’Linh đã chảy không biết bao nhiêu dòng nước mắt
trong ngày tiễn biệt.
Một, hai, ba mùa làm rẫy, họ vẫn biệt tin nhau. Bao nhiều lần bồ câu
núi bay đi bay về, mà tin chàng Dam Yông vẫn mãi biệt tăm. H’Linh vẫn
ngóng trông với nỗi nhớ khắc khoải và thất vọng.
Nàng cất bước ra đi để tìm chàng nơi xa. Hết núi cao, sông sâu, buôn
xa, vượt qua hàng ngàn con suối nhưng vẫn không thấy bóng Dam Yông.
Bóng ông mặt trời, tiếng vọng của rừng in bóng, vọng lời gọi của H’Linh.
Khi đến một dòng sông lớn, nàng cất tiếng gọi tên chàng trong thất vọng, và
đã gieo mình xuống dòng sông ấy.
Chàng Dam Yông, sau bao lần đi khắp buôn này, làng nọ, bao lần
nương rẫy bị thất bại, bao mùa rẫy đi qua mà của cải cải cũng chẳng có là
bao. Chàng trở về buôn cũ thì được tin nàng đã đi tìm chàng. Chàng chạy
đi khắp nơi rừng sâu, núi cao, nhưng vẫn không gặp được nàng. Cuối cùng,
chàng cũng đến được bờ sông, nơi nàng đã gieo mình. Tiếng gọi của chàng
vọng trong lòng sông, lời suối, nhưng dòng sông vẫn ào ào tuôn trôi. Chạng
đã gieo mình xuống dòng sông ấy. Họ đã tron nghĩa thuỷ chung, kết nên
một tình yêu đẹp làm rung động lòng người. Chỗ ấy ngày nay gọi là thác
Dray H’Linh, trên dòng sông Sêrêpôk. Một công trình thuỷ điện mang tên
mối tình chung thuỷ, một tình yêu bất tử đã được xây dựng tại đây, tạo nên

dòng điện thắp sáng cho mọi buôn làng.
FDray-Sáp (Thác Khói):
Là một ngon thác cao vút, nước từ trên cao đỏ xuống tạo nên làn
sương khói kỳ ảo giữa những làn nước. Truyền thuyết về Dray Sáp được kể
như sau: Có một cô gái tên là Hơ Mi vẫn ngày ngày đi làm rẫy. Nàng và
một chàng trai của buôn làng hàng ngày bên nhau. Một hôm, trong lúc họ
đang ngồi nghỉ trên một hòn đá, bỗng thấy một con quái vật đầu to như quả
núi, mắt lớn tựa nồi đồng, râu dài, răng nhọn, toàn thân có vảy lấp lánh
như bạc hiện ra trên bầu trời rồi bất ngờ nó sà xuống đất. Chiếc vòi của con
quái vật cắm sâu vào đất. Bỗng một cột nước lớn từ dưới đất phun lên. Con

×