Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Phân tích đoạn 2 bài thơ nói với con của y phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.15 KB, 6 trang )

Phân tích đoạn 2 bài thơ Nói với con của Y Phương
Mở bài:
Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ mai sau nối tiếp xứng đáng, phát huy
truyền thống của tổ tiên, dân tộc vốn là một tình cảm cao đẹp của người Việt Nam
suốt bao đời nay. Bài thơ Nói với con của Y Phương một nhà thơ dân tộc Tày, cũng
nằm trong nguồn cảm hứng nhân văn phổ biến ấy.

Tác giả mượn lời một người cha chân tình, dặn dò con về cội nguồn sinh dưỡng
của mỗi con người, về những đặt điểm tính cách cao đẹp của quê hương, dân tộc
với ước muốn đứa con hãy ghi nhớ, phát huy. Đoạn 2 bài thơ Nói với con đã thể
hiện qua cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh của người dân miền núi, đem đến cho
bài thơ giọng điệu thiết tha, trìu mến, tin cậy. Đoạn thơ là niềm tự hào lớn lao về
phẩm chất cao đẹp của người đồng mình và truyền thống quê hương:

“Người đồng mình….
(………………)
Nghe con”

Thân bài:
Đoạn thơ được nối tiếp theo sau đoạn cảnh người cha khơi gợi cội nguồn sinh
dưỡng giúp đứa con khôn lớn, trưởng thành. Bằng đoạn thơ trên, người cha đã ngợi
ca những đức tính cao đẹp của con người quê hương nằm khơi gợi cho con lòng từ
hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm
mong ước con hãy tiếp tục xứng đáng với truyền thống ấy.

Bắt đầu đoạn thơ bằng cụm từ “người đồng mình” với ý nghĩa là người vùng mình,
người miền mình, cách nói giản dị của miền núi và được lặp đi lặp lại ba lần trong


đoạn trích, Y Phương đã gửi vào đó niềm tự hào của mình về những đức tính cao
đẹp của người dân miền núi bằng tấm lòng yêu mến vô hạn.



Nếu trên kia “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ
mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây niềm ước vọng càng
thêm tha thiết: “thương lắm con ơi”. Tình cảm được nâng lên nhiều lần bởi sau từ
“thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương. Người
cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà
người đồng mình đã trải qua.

Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống
lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

“Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.

Ta dễ dàng nhận ra tính tả thực và phép ẩn dụ tượng trưng đã được nhà thơ vận
dụng ở đây. Với phép tả thực, Y phương đã vẽ ra cảnh người dân miền núi mà ở
đay dân tộc Tày có cội nguồn sinh dưỡng là những vùng núi cao ngút ngàn, rất
hoang vắng và rất buồn bởi cuộc sống nghèo khó, nhọc nhằn. Tuy buồn, tuy khó
khăn gian khổ nhưng họ vẫn bám đất, bám bán làng, vẫn thủy chung cùng quê
hương. Và càng ở cao, càng gian khổ mới thấy được tấm lòng quyết tâm gìn giữ
cội nguồn sinh dưỡng của người dân miền núi.

Tư duy của người miền núi mộc mạc chân tình hiện lên trong cách so sánh độc
đáo. Họ lấy hình sông, lấy dáng dáng để biểu thị vẻ đẹp của tinh thần và lối sống.
Cách sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nâng cao mức độ cho thấy khó
khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ, càng quyết tâm chinh
phục, vượt qua.


Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề

thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng
vào tương lai tốt đẹp của dân tộc và không ngừng mơ ước đến tương lai nơi mà chí
lớn sẽ vươn tới.

Chính từ niềm mơ ước ấy, người cha đã nhẹ nhàng nhắc nhở đứa con hãy khắc ghi,
rèn luyện, phát huy:

“Dẫu làm sao thì cha cũng muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”.

Đoạn thơ với những hình ảnh cụ thể như núi rừng quê hương được Y Phương nhắc
lại theo phép liệt kê: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”, “như sông”, “như suối” ,
“lên thác xuống ghềnh”…”kết hợp với các điệp ngữ: “sống…không chê…”, nhà
thơ đã gợi lại cuộc sống vất vả, gian nan đầy thử thắt đối cới người dân Tày giữa
hoan sơ đại ngàn.

Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người
đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng
đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như
dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.


Cách gợi của nhà thơ được đặt trong giọng điệu mạnh mẽ, chắc nịch, đầy quyết
tâm và niềm tin tưởng. Một lần nữa y Phương trong vai người cha đã nhắc con nhớ
rằng người đồng mình, người trong cùng bản làng của mình dù sống trong nghèo
khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.


Thông qua đó, nhà thơ với vai trò người cha mong muốn đứa con phải biết tự hào
về truyền thống quê hương, phải luôn tự tin, vững bước trên đường đời:

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”.

Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua
cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong,
nhưng rất đúng với người miền núi. Tuy “người đồng mình” không mấy đẹp đẽ ở
hình thức nhưng luôn ẩn chứa một sức mạnh tinh thần lớn lao, không bao giờ nhỏ
bé, không bao giờ thôi ước vọng vươn cao.

Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Sự tương phản này đã tôn lên
tầm vóc của người đồngmình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể
“thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây
dựng quê hương.

Lời cha giản dị, ân cần trang nghiêm, chắc nịch đã giúp đứa con nhận ra rằng chính
nhờ những “người đồng mình” như thế, những con người có ước mơ xây dựng quê
hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:

“Người đồng mình tự đụng đá kê cao quê hương


Còn quê hương thì làm phong tục”.

Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo
tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình. “Đục đá” là công
việc vô cùng nặng nhọc, đòi hỏi phải bền bỉ, nhẫn nại. “Đục đá” vào ý thơ dã trở
thành hình ảnh sinh động, gợi cảm. Bởi qua ý thơ, hình ảnh ấy giúp ta hình dung

hiện thực người dân lao động miền núi bằng khát vọng và ý chí “đục đá kê cao quê
hương” đã tôn tạo vẻ đẹp văn hóa của dân trọi với bao thiên tai, bão lũ, bao bọn
giặc hung tàn để gìn giữ, bảo vệ quê hương của cả dân tộc.

Đó là hình ảnh Sơn Tinh (thời Hùng Vương thứ 18) bốc từng quả cũng chính là
hình ảnh anh hùng Núp và dân tộc Ba Na anh em đã quyết tâm không khuất phục
giặc Pháp bảo vệ cho vùng đất Chư-lây thân yêu, làm nên chiến tích lịch sử. Cách
mạng hào hùng cho quê hương, đất nước…. Hình dung ra điều ấy, ta mới thấy chi
tiết “đục đá kê cao quê hương” là một hình ảnh ấn tượng, chứa chan niềm tự hào
cao độ của nhà thơ đối với dân tộc thân yêu.

Lòng mong muốn ấy còn được thể hiện trong giọng thơ thiết tha, trìu mến bởi ngữ
điệu cảm thán: “con ơi”; “đâu con”; ở những lời tâm tình dặn dò: “nghe con”
nhưng lại chắc nịch niềm tin của nối nói của người dân miền núi, vừa giàu hình
ảnh vừa tự nhiên, xúc động lòng người. từ đó, ta cảm nhận diều lướn lao nhất là
người cha muốn truyền lại cho đứa con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền
bỉ với quê hương cao đẹp và niềm tin con bước vào đời:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.


Hành trang của người con mang theo khi “lên đường” không có gì khác ngoài niềm
tự hào về quê hương, nguồn cội cùng với ý chí, quyết tâm và hi vọng lớn lao về
một ngày mai tươi sáng. Người con lên đường khắc sâu lời cha dặn và không
ngừng nhắc nhở mình thực hiện điều tâm nguyện ấy. Lời dặn của cha thật mộc
mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ
tiếp tục vững bước trên đường đời,tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.


Kết bài:
Bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, lối nói miền núi mộc mạc, cách ví
von sinh động, giọng điệu thiết tha trìu mến, nhịp điệu lúc nhanh lúc chậm đầy
khát vọng làm người, đoạn thơ ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng
mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “uống nước
nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian
khó và vươn lên bằng ý chí của mình.

Y Phương đã rất tinh tế khi lựa chọn hình ảnh và giọng điệu khi biểu đạt. Hình như
ông đã không hề “mĩ lệ hóa” hay tô vẽ gì thêm cho hình ảnh thơ. Cứ thế, rất tự
nhiên, hình ảnh núi non và “người đồng mình” đi vào thơ ông một cách chân thực,
hồn nhiên mà sâu sắc đến kì lạ.



×