Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

(TH) Sáng kiến một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy học môn đạo đức lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.2 KB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ...
TRƯỜNG TIỂU HỌC ...

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến:
“Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy học
môn Đạo đức lớp Một”
Thuộc lĩnh vực: 9 môn Tiểu học

Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học ...
huyện ..., tỉnh ...

..., tháng 4 năm 2019
1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện ....
Tôi:

T
T

Họ tên tác giả

1



...

Ngày tháng
năm sinh

Nơi
công tác

Chức
vụ

Tỷ lệ
(%)
Trình
đóng góp
độ
vào việc
chuyên
tạo ra
môn
sáng
kiến

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số phương pháp nâng

cao chất lượng dạy học môn Đạo đức lớp 1”.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: ... - Giáo viên, Chủ tịch công đoàn trường
Tiểu học ... - ... - ....
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Đạo

đức tại lớp 1D, từ đó góp phần phát triển nhân cách; phẩm chất của học sinh.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 01/11/2018
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1.Thực trạng giảng dạy môn Đạo đức
Dạy - học môn Đạo đức được tiếp cận theo hướng đi từ quyền đến trách
nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó giúp cho việc dạy - học môn
Đạo đức trở nên nhẹ nhàng, sinh động, tránh được sự áp đặt, nặng nề.
Dạy - học môn Đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực tế của các
em. Vì đây là dạy cho các em những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức xã hội và quyền trẻ em những tình huống cụ thể hàng ngày. Hơn nữa,
môn Đạo đức không chỉ giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh với gia
đình, nhà trường, xã hội và môi trường tự nhiên, mà còn giáo dục trách nhiệm
của các em đối với bản thân mình.
2


Dạy học môn Đạo đức là sự kết hợp hài hòa giữa việc trang bị kiến
thức với bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kỹ năng hành vi cho
học sinh.
Dạy - học môn Đạo đức theo phân phối chương trình mỗi tuần 1 tiết và mỗi
bài được dạy trong 2 tiết.
- Lớp 1D tôi đang chủ nhiệm là lớp học 2 buổi/ ngày.
- Lớp học khang trang, thoáng mát, trang trí thân thiện với môi trường.
- Cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học trang bị đẹp, sinh động.
- Đa số học sinh chăm ngoan, biết vâng lời, lễ phép với thầy cô giáo và
người lớn tuổi.
- Học sinh có ý thức trong học tập, biết đoàn kết giúp đỡ bạn bè.
- Đa số gia đình có quan tâm đến việc học của con em, tạo điều kiện mua
sắm đầy đủ đồ dùng học tập.
- Được sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời từ phía Ban chấp hành Cha mẹ học

sinh, và các ban ngành, đoàn thể trong trường với những em có hoàn cảnh gia
đình khó khăn, hộ nghèo, mồ côi…
Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn khi dạy môn Đạo đức đó là:
- Đồ dùng dạy học môn Đạo đức còn ít, chưa phong phú.
- Khả năng tiếp thu kiến thức của các em chưa đều. Các em còn nhút nhát,
chưa mạnh dạn phát biểu ý kiến hay nhận xét bạn trong giờ học.
- Một số học sinh gia đình ít quan tâm, nhắc nhở các hành vi đạo đức của
các em chưa kịp thời còn khoán trắng cho nhà trường. Hơn nữa đa số cha mẹ
học sinh thường chú ý cho con em mình tập trung vào các môn Toán, Tiếng Việt
ít để ý đến môn Đạo đức.
- Một số ít giáo viên còn coi nhẹ dạy môn Đạo đức, coi môn học này là
môn phụ nên chưa đầu tư chuyên môn nhiều cho môn học này.
- Việc phối kết hợp giữa giáo viên với cha mẹ học sinh còn khó khăn, gặp
nhiều hạn chế khi liên lạc.
Vì vậy Dạy - học môn Đạo đức sẽ chỉ đạt được hiệu quả khi học sinh
hứng thú và tích cực, chủ động tham gia vào quá trình học. Phải là quá trình
giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm
và thói quen đạo đức, trên cơ sở đó các em tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức
mới, kĩ năng mới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là
giảng dạy môn Đạo đức ở lớp 1, vậy làm thế nào để học sinh tiếp thu kiến thức
đã học một cách nhẹ nhàng, sinh động, không nhàm chán, không bị áp đặt, gò bó
hay gượng ép? Chuyển tải đến các em cảm giác “Học mà chơi, chơi mà học”
Tôi đã áp dụng một số biện pháp sau trong trong quá trình giảng dạy và đạt được
một số hiệu quả nhất định.
4.2.Các phương pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Đạo đức lớp 1.
4.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện:
a. Tìm hiểu học sinh:
3



Muốn giáo dục học sinh về đạo đức thì ta phải hiểu biết học sinh về mọi
mặt. Thật vậy muốn tác động lên học sinh, người giáo viên phải biết các em đã
tốt mặt nào, chưa tốt mặt nào, bao nhiêu em đạt, bao nhiêu em chưa đạt. Từ đó
giáo viên mới đưa ra biện pháp giáo dục cụ thể cho từng đối tượng một cách phù
hợp hơn. Với mục đích này đòi hỏi người giáo viên phải tìm hiểu kỹ đối tượng
mình cần giáo dục. Cụ thể:
b. Tìm hiểu hoàn cảnh cụ thể:
Lớp 1D do tôi chủ nhiệm có 32 em, đầu năm khi mới nhận lớp có 2/3 học
sinh chưa biết cầm bút, chưa nhận biết được 29 chữ cái Tiếng Việt. Qua tìm hiểu
tôi được biết số học sinh này bố mẹ đi làm ăn xa và đi làm công ty nên thường ở
với ông bà. Các em không được sự quan tâm của bố mẹ nên các hành vi ứng xử
của các em chưa biết rõ sai ,trái; đôi khi các em chưa nhận thức được. Mặt khác
đối với các em học sinh lớp Một, một số em chưa được tham gia sinh hoạt ở
trường, lớp nên các hiểu biết về chuẩn mực hành vi đạo đức của các em gần như
là một tờ giấy trắng. Vì vậy vấn đề giáo dục đạo đức cho các em là rất cần thiết
để xây dựng cho học sinh có được những điều sơ đẳng của phép ứng xử đúng
đắn trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục đạo đức nhằm tạo cho học sinh những
chuẩn mực hành vi đạo đức tốt trong các hoạt động ứng xử và các mối quan hệ
xã hội.
c. Tìm hiểu đặc điểm tâm lý học sinh lớp Một:
Để giáo dục học sinh có hiệu quả, giáo viên cần hiểu rõ đặc điểm của học
sinh lớp mình phụ trách. Học sinh lớp Một thường có tâm lý “thích được khen”.
Đây là một qui luật không thể thiếu trong đời sống tập thể của trẻ. Do đó tiết
Đạo đức giáo viên cần động viên khuyến khích khen thưởng tổ, cá nhân học sinh
đã thực hiện tốt các hành vi đã học. Bên cạnh đó cần nhắc nhở những em chưa
thực hiện tốt, song phải lấy động viên, khuyến khích là chính. Mặt khác ở lứa
tuổi học sinh này đã xuất hiện những nhu cầu mới về cả đối tượng thỏa mãn, lẫn
cách thức thỏa mãn. Như chúng ta đều biết, học sinh tiểu học có tính hồn nhiên,
khả năng phát triển tính cách của trẻ tạo cơ sở cho khả năng phát triển một hệ

thống tính cách của các em. Đặc điểm này nói lên rằng cái xuyên suốt trong tâm
hồn của học sinh tiểu học là ngây thơ, trong trắng, hồn nhiên và ẩn chứa những
tiềm năng phát triển lớn. Học sinh tiểu học có niềm tin tuyệt đối vào thầy cô, vì
vậy mọi hoạt động trên lớp cũng như lời nói của giáo viên phải chính xác, mẫu
mực để các em noi theo. Ngoài ra ta còn thấy học sinh tiểu học có tính sẵn sàng
hành động, khuynh hướng hành động ngay lập tức dưới tác động của các kích
thích mà không kịp suy nghĩ, cân nhắc. Vì thế giáo viên cần hướng các em cách
phân tích hành vi ứng xử trước một tình huống trước khi đưa ra quyết định cuối
cùng. Ở học sinh tiểu học ta còn thấy các em rất thật thà, các em không thích
khoe khoang, không suy nghĩ đến điều phức tạp, thích bộc lộ nguyên dạng bản
thân mình. Do đó giáo viên cần hướng dẫn các câu hỏi tình huống gắn gọn ,
4


chân thật gắn với cuộc sống hàng ngày. Ngoài việc tìm hiểu học sinh, là giáo
viên cần phải quan tâm hàng ngày và phải đề ra những phương pháp và kỹ năng
như thế nào để dạy cho các em nắm được các hành vi ứng xử đạo đức của các
em đem lại kết quả cao.
d. Xây dựng kế hoạch phân loại học sinh:
Muốn giáo dục được tất cả học sinh, giáo viên cần phân loại học sinh để có
phương pháp cho phù hợp. Tôi nhận thấy nguyên nhân các em chưa nắm rõ các
hành vi trong ứng xử là do các em chưa được qua trường lớp hay chưa được cha
mẹ quan tâm, giáo dục thường xuyên. Để khắc phục tình trạng trên của các em
do lớp tôi phụ trách tôi đã phân đối tượng học sinh như sau:
+ Nhanh nhẹn, biết ứng xử tình huống nhạy bén: 7 em.
+ Nhanh nhẹn, ứng xử tình huống Tốt: 6 em.
+ Biết ứng xử tình huống, chậm: 7 em.
+ Chậm không biết ứng xử: 12 em
4.2.2. Những biện pháp giải quyết vấn đề
- Đạo đức là môn học tưởng chừng như đơn giản, dễ dạy nhưng đối với học

sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh đầu cấp ở lớp Một lại rất khó truyền tải kiến
thức đến với các em. Vậy làm thế nào để các em có được những thói quen đạo
đức tốt, những hành vi đạo đức chuẩn mực phù hợp với lứa tuổi? Đó là cả một
quá trình rèn luyện lâu dài, thường xuyên, liên tục không ngừng. Có sự kết hợp
nhịp nhàng đồng thời cả ba môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội.
Dần dần những hành vi đạo đức đó trở thành thói quen của các em. Đó là sự
chuyển hóa giữa giáo dục và tự giáo dục, chuyển hóa những yêu cầu về chuẩn
mực hành vi đạo đức đã học thành hành vi và thói quen tương ứng.
- Tôi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc dạy - học môn Đạo đức là rất
cần thiết. Chính vì thế đòi hỏi người giáo viên không chỉ giảng dạy một cách lý
thuyết mà “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức để học sinh noi theo”
đó cũng là một trong những phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện
- Học sinh tích cực - Giáo viên mẫu mực”.
- Để tiết dạy - học môn Đạo đức đạt hiệu quả cao:
+ Giáo viên phải nghiên cứu kĩ giáo án, bài giảng để tìm phương pháp tổ
chức tiết học một cách hợp lý, khoa học.
+ Sử dụng thiết bị đồ dùng day học phong phú, đa dạng, đưa ra đúng lúc và
khoa học.
+ Phương pháp dạy lý thuyết khác với phương pháp dạy thực hành.
+ Giáo viên phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh của lớp
mình chủ nhiệm.
+ Luôn tạo không khí trong tiết học thoải mái, nhẹ nhàng.
+ Gần gũi, thân thiện với học sinh nhất là những học sinh cá biệt,
nhút nhát.
* Một số phương pháp dạy – học môn Đạo đức ở lớp 1:
5


Dạy học các bài Đạo đức có thể được tiến hành với các phương pháp khác
nhau và linh hoạt, tùy thuộc vào nội dung của bài, dạng bài và hình thức tổ chức

dạy học. Tuy nhiên các bài Đạo đức ở lớp 1 đều có thể bắt đầu từ việc tổ chức
cho học sinh quan sát tranh, ảnh, trò chơi, thảo luận nhóm phân tích hành vi,
việc làm của các nhân vật trong đó.
Muốn cho học sinh Tiểu học nói chung cụ thể là học sinh lớp 1D tôi đang chủ
nhiệm nói riêng học tốt được môn Đạo đức. Giáo viên không chỉ truyền đạt kiến
thức bài giảng theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa, trong các sách hướng
dẫn thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc, làm cho học sinh học tập thụ
động. Nếu chỉ dạy như thế thì tiết dạy sẽ không đạt yêu cầu theo phương pháp mới
đã đề ra với phương châm “Lấy học sinh làm trung tâm” trong đó học sinh tích cực
tham gia giải quyết các tình huống có vấn đề bằng mối quan hệ: Giữa thầy với trò và
trò với trò qua các hình thức dạy học. Là giáo viên chủ nhiệm lớp 1D, tôi luôn tham
khảo tìm kiếm những phương pháp dạy học tích cực, chủ động và sáng tạo phù hợp
với thực tế để áp dụng vào tiết dạy của mình, tạo cho tiết dạy – học môn Đạo đức
một không khí thoải mái qua các hình thức như: Kể chuyện, đóng vai, chơi trò chơi,
thảo luận, hỏi đáp,… Với nội dung dạy học mới mẻ, hấp dẫn, linh hoạt phù hợp với
lứa tuổi học sinh không trùng lặp, đơn điệu, áp đặt thì học sinh sẽ tiếp thu bài tốt, giờ
học đạt hiệu quả cao hơn. Nếu chúng ta áp dụng được các phương pháp dạy học một
cách thường xuyên, khoa học chắc chắn chất lượng dạy – học môn Đạo đức sẽ ngày
một nâng cao. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu:
1. Phương pháp động não:
Đây là phương pháp giúp cho học sinh, trong một thời gian ngắn, nảy sinh
được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
- Giáo viên cần nêu vấn đề được tìm hiểu trước lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu, đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt. Đồng thời
trong quá trình các em đưa ra ý kiến cần tìm hiểu bằng nhữn câu hỏi tạo cho các em
được giao lưu với nhau, cùng làm sáng tỏ những vấn đề chưa rõ ràng.
- Giáo viên liệt kê tất cả các ý kiến mà học sinh phát biểu sau đó phân loại,
thảo luận sâu từng ý để làm rõ những ý kiến chưa rõ ràng. Cuối cùng là tổng hợp ý
kiến của các em và hỏi xem các em cần thắc mắc hay bổ sung gì thêm không.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn, bằng một từ hay một câu thật ngắn.

Đặc biệt tất cả mọi ý kiến đều cần được giáo viên hoan nghênh, chấp nhận mà
không cần phê phán, nhận định đúng, sai.
Phương pháp động não có thể dùng để lý giải bất kì một vấn đề đạo đức
nào, song đặc biệt phù hợp với các vấn đề học sinh đã có kinh nghiệm ứng xử.
+ VD: Trong bài: “Đi học đều và đúng giờ”, giáo viên đưa ra các câu hỏi
cho cả lớp thảo luận: Đi học đều và đúng giờ có lợi gì?
- Các em đưa ra ý kiến: Thực hiện tốt qui định của nhà trường, không làm
mất thời gian của cô giáo và các bạn, học được đầy đủ bài, không làm mất trật tự
trong giờ học, biết vâng lời cô giáo…
6


- Giáo viên viết tất cả các ý kiến của các em lên bảng.
- Hỏi các em: Tại sao bạn lại trả lời như vậy?
- Giáo viên tổng hợp lại: Đi học đầy đủ và đúng giờ là các em đã biết vâng
lời cô, thực hiện tốt qui định của nhà trường; đi học đều sẽ không bị mất bài,
được nghe cô giảng bài; đến trễ sẽ làm mất thời gian cô giảng bài cho các bạn,
làm lớp học đang chăm chú tìm hiểu bài phải ngừng lại vì bạn đến trễ. Đây là tất
các ý kiến của cả lớp đưa ra. Nếu các em đã biết ích lợi của việc đi học đều và
đúng giờ, cô mong bạn nào cũng thực hiện tốt.
2. Phương pháp đóng vai:
Để các chuẩn mực hành vi đạo đức trở thành thói quen tốt trong cuộc sống
hàng ngày đòi hỏi học sinh cần phải luyện tập thường xuyên. Không phải ngày
một, ngày hai mà thói quen ấy được hình thành. Cụ thể là phải được luyện tập
trong giờ thực hành môn Đạo đức. Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học
sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Qua
tiết thực hành đóng vai giúp các em hình thành được thao tác hành động phù
hợp với mẫu hành vi đạo đức đã học.
Qua sử dụng phương pháp này học sinh được thực hành những kĩ năng ứng xử
và bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định, gây sự chú ý và hứng thú cho học

sinh khi đóng vai tạo điều kiện nảy sinh óc sáng tạo của học sinh. Khích lệ sự thay
đổi thái độ, hành vi của các em theo chuẩn mực hành vi đạo đức. Có thể thấy ngay
tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm thông qua các vai diễn.
Để áp dụng phương pháp đóng vai vào trong bài giảng một cách tự nhiên
và đạt hiệu quả cao:
- Trước tiên giáo viên phải chia nhóm, giao nhiệm vụ đóng vai cho từng
nhóm và quy định thời gian chuẩn bị.
- Giáo viên đưa tình huống phải phù hợp với chủ đề nội dung bài học, với
trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
- Tình huống mở, gần gũi với đời sống thực tế hàng ngày. Không cho trước
kịch bản và lời thoại.
- Yêu cầu học sinh phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để
không lúng túng và lạc đề. Cố gắng nhập mình với vai diễn một cách tự nhiên,
không gò bó, phải biết phối hợp tốt các vai “diễn” khi thực hiện. Đặc biệt nên
khích lệ cả những học sinh còn nhút nhát chưa mạnh dạn cùng tham gia.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên thực hiện vai diễn.
- Cả lớp thảo luận nhận xét sau khi đóng vai. Đây là bước quan trọng, có
ý nghĩa thiết thực trong việc sử dụng phương pháp đóng vai:
+ Yêu cầu các em học sinh tham gia đóng vai nêu cảm xúc khi thể hiện
vai “diễn” của mình trước lớp:
+ Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa? Chưa phù hợp ở chỗ nào?
+ Cảm xúc của các em khi thực hiện cách ứng xử? Và khi nhận được cách
ứng xử (Đúng hoặc Sai)?
7


+ Yêu cầu các học sinh khác nhận xét cách ứng xử và sự nhập vai của các
vai “diễn”. Ở bước này giáo viên tạo điều kiện để học sinh đưa ra nhiều cách
ứng xử khác nhau:

+ Thực tế nếu là các em trong trường hợp đó em thể hiện cách ứng xử như
thế nào?
- Giáo viên chốt lại định hướng cho học sinh về cách ứng xử tích cực, cần
thiết trong tình huống.
- Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp đóng vai:
+ Đối với học sinh lớp Một, tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề
giáo dục của bài, vừa sức đối với các em.
+ Chỉ tổ chức đóng vai khi cần thiết, có tác dụng giáo dục thiết thực trong
đời sống hàng ngày của các em.
+ Khi tổ chức đóng vai nên hóa trang, đạo cụ đơn giản sẵn có nhằm tăng
tính hấp dẫn, tạo điều kiện cho học sinh nhập vai dễ dàng.
+ VD: Trong bài “Lễ phép, vâng lời thầy cô giáo”.
Giáo viên đưa ra nhiệm vụ: đóng vai học sinh mang vở lên nộp bài
cho cô giáo.
- Các nhóm thảo luận cách đóng vai và phân công người lên đóng
vai cô giáo.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Lớp thảo luận, nhận xét theo gợi ý của giáo viên: Các bạn đóng vai như
vậy đã phù hợp chưa? Khi đóng vai (cô giáo hoặc bạn học sinh) em cảm thấy
như thế nào?
- Giáo viên chốt lại ý kiến kết luận: Các em biết đóng vai tình huống như
vậy là rất tốt. Các em nên nhớ rằng khi đưa một vật gì cho thầy cô giáo hoặc
người lớn tuổi hơn các em thì các em phải đưa bằng hai tay để tỏ lòng kính
trọng, lễ phép của mình.
3. Phương pháp trò chơi:
Trò chơi là phương pháp giúp học sinh phát hiện và chiếm lĩnh những nội
dung học tập thông qua việc chơi trò chơi.
Trò chơi học tập nói chung và trò chơi trong dạy – học môn Đạo đức nói
riêng có tác dụng giúp học sinh biết vận dụng kiến thức đã học phát triển tư duy,
tạo thói quen tập trung, tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận. Khi

chơi các em thay đổi đội hình, các em được khởi động tự do thoải mái trong giới
hạn cho phép; chống mệt mỏi, tăng cường khả năng thực hành,… Được thử
nghiệm, tưởng tượng, suy ngẫm, lập luận để trò chơi đạt kết quả nhanh nhất và
chính xác nhất mà không nghĩ là mình đang học. Vì cùng với học, chơi là nhu
cầu không thể thiếu được của học sinh tiểu học. Dù không phải là hoạt động chủ
đạo, song vui chơi vẫn giữ một vai trò rất quan trọng trong hoạt động sống của
các em. Qua trò chơi trẻ không những phát triển về mặt trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi đạo đức.
8


Lý luận thực tiễn đã chứng tỏ rằng: Nếu biết tổ chức cho trẻ vui chơi một
cách hợp lý, đúng đắn thì đều mang lại hiệu quả giáo dục toàn diện.
+ Qua trò chơi, học sinh được luyện tập những kĩ năng, những thao tác
hành vi đạo đức, được thể hiện hành vi một cách đúng đắn, tự nhiên, rèn khả
năng biết lựa chọn cho mình cách ứng xử phù hợp trong tình huống. Các em
được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, biết đanh
giá hành vi của người khác là phù hợp hay không phù hợp với chuẩn mực đạo
đức xã hội. Khi chơi trò chơi trong giờ học, học sinh có cơ hội thể nghiệm
những chuẩn mực hành vi. Nhờ vậy sẽ hình thành được ở các em niềm tin về
những chuẩn mực hành vi đã học, tạo động cơ bên trong cho hành vi ứng xử
trong cuộc sống thực tế; tạo cơ hội để học sinh tham gia vào các mối quan hệ
giao tiếp làm tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh và giữa
học sinh với giáo viên một cách tự nhiên và dễ dàng.
Dạy – học môn Đạo đức quan trọng chủ yếu là giáo dục tư tưởng, ý thức,
hành vi phẩm chất đạo đức cho học sinh. Thực tế trong giảng dạy trò chơi là
phương pháp dạy học được sử dụng nhiều và rất đa dạng. Dù với hình thức hay
phương pháp nào thì đích cuối cùng cũng là giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và
cũng cố khắc sâu các tri thức đã học biến nó thành những chuẩn hành vi đạo đức
cho riêng mình.

Trò chơi có những quy định luật lệ nhất định. “Trò chơi học tập” mang tính
thi đua và đòi hỏi sự tự giác rất cao của học sinh, có như thế mới đem lại kết quả cao
trong học tập. Nó giáo dục cho các em tính thật thà, biết đánh giá chính xác kết quả
học tập của mình và bạn. Khi chơi các em thể hiện được tính trung thực của cá nhân.
Một số yêu cầu cần đảm bảo khi áp dụng phương pháp trò chơi:
+ Ở học sinh lớp Một cần tổ chức những trò chơi nhỏ, đơn giản, phù hợp
với tình hình lớp học, gây hứng thú cho học sinh. Trò chơi phải dễ tổ chức và dễ
thực hiện, phải phù hợp với chủ đề Đạo đức và đảm bảo tính giáo dục, nhằm
mục đích củng cố hoặc khắc sâu nội dung bài học. Phù hợp với đặc điểm và
trình độ học sinh, với thời gian, hoàn cảnh điều kiện thực tế của lớp.
+ Trò chơi chuẩn bị chu đáo, hình thức tổ chức phải đa dạng phong phú.
Thay đổi nội dung trò chơi để học sinh không bị nhàm chán.
+ Cần quy định rõ thời gian chơi (không quá 5 phút).
+ Luật chơi phải giới thiệu rõ ràng: nội dung trò chơi, cách tổ chức, cách
tính điểm (nếu cần giáo viên có thể vừa hướng dẫn, vừa thực hiện mẫu).
+ Trò chơi phải đảm bảo huy động nhiều học sinh tham gia, mang tính tập
thể. Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và tôn trọng luật chơi.
+ Khi tổ chức trò chơi thi đua tránh để học sinh đặt nặng vấn đề hơn thua
trong khi chơi.
+ Tạo điều kiện để học sinh tham gia, tổ chức, điều khiển toàn bộ các
khâu của trò chơi (Chuẩn bị, tiến hành, đánh giá sau trò chơi).
9


+ Địa điểm chơi phải đảm bảo an toàn cho học sinh trong khi tham
gia trò chơi.
+ Có thể đưa ra các tiêu chí cho nhóm thắng trong trò chơi, nhằm động
viên khuyến khích các em khi tham gia chơi. Mặt khác cũng cần khích lệ động
viên những nhóm chưa hoàn thành nhiệm vụ tránh cho các em sự lúng túng, mất
tự tin khi chơi.

Ở lớp Một có thể tổ chức trò chơi “Tiếp sức”, “Giới thiệu tên”; “Cây hoa
kiến thức”, “xem tranh” …
+ VD: Trong bài “Ôn tập và thực hành kỹ năng giữa học kỳ I”.
Giáo viên tổ chức cho các em chơi trò chơi “Cây hoa kiến thức”. Giáo viên dùng
một cây gắn nhiều hoa, trong mỗi hoa đều có một câu hỏi về chuẩn mực hành vi
đạo đức hay thực hành một hành vi đạo đức nào đó.
Giáo viên hướng dẫn các em hình thành các nhóm thi đua, nhóm nào trả
lời được nhiều câu hỏi hay hành vi đạo đức thì nhóm đó sẽ thắng.
- Giáo viên hướng dẫn các em cách chơi.
- Tổ chức cho học sinh chơi
- Lớp nhận xét tuyên dương
- Giáo viên kết luận về các chuẩn mực hành vi các em đã thực hiện đúng.
Ngoài trò chơi “Cây hoa kiến thức” tôi còn tổ chức cho học sinh chơi một số trò
chơi khác như sau:
+ Trò chơi “Vòng tròn chào hỏi”
+ Mục đích: Trò chơi này là củng cố việc hình thành thái độ vâng lời, lễ
phép của học sinh đối với người lớn tuổi.
+ Cách chơi: Giáo viên cho học sinh đứng thành vòng tròn, sau lưng mỗi
em sẽ có tên một nhân vật có tuổi lớn hơn học sinh (cô giáo, anh năm, bác tư, bà
sáu ….). Đầu tiên, giáo viên cho học sinh đóng vai bạn học sinh, những bạn
khác khi được bạn học sinh mời đóng vai thì bạn đó đưa bông hoa quay về đằng
trước, hai bạn chào nhau. Bạn vừa được mời đóng vai lại có quyền mời bạn khác
…cứ như thế cho hết vòng tròn.
+ Kết quả đạt được: Sau trò chơi các em biết cách ứng xử chào hỏi khi
gặp người lớn tuổi hơn mình.
+ Trò chơi “Nếu …thì”
+ Mục đích: Ôn lại các kiến thức đã học
+ Cách chơi: Giáoviên cho từng cặp học sinh nói với nhau về một vấn đề
gì đó theo cách nói câu “Nếu …thì”…Ví dụ: “Nếu tôi nói chuyện thì tôi không
hiểu bài”, “Nếu tôi nói chuyện thì tôi không nghe được cô giảng bài”.…Các dãy

thi đua với nhau, dãy nào nói được nhiều câu thì dãy đó sẽ thắng.
+ Kết quả: Các em đã hiểu được các hành vi chuẩn mực đạo đức làm thế nào là
tốt, làm thế nào là không tốt từ đó học sinh có cách ứng xử phù hợp.
+ Trò chơi: Xem tranh
10


+ Mục tiêu: Học sinh phân biệt được việc làm nào có lợi, việc làm nào
không có lợi; từ đó có cách làm phù hợp trong trường hợp tương tự.
+ Cách chơi: Ví dụ: Khi học bài “Bảo vệ cây và nơi công cộng”. Tôi có
những tấm tranh vẽ về học sinh tưới cây, nhổ cỏ, vun gốc, bẻ cành, trèo cây, hái
hoa…tôi cho học sinh hát và truyền tấm tranh đó. Khi dứt bài hát bạn nào cầm
được tấm tranh sẽ cài lên hai bên theo yêu cầu: NÊN – KHÔNG NÊN. Sau đó
cả lớp theo dõi, nhận xét, giáo viên nhận xét kết luận và giáo dục.
+ Kết quả: Học sinh đã biết cách chăm sóc và bảo vệ cây và hoa.
4. Phương pháp thảo luận nhóm:
- Thảo luận nhóm là phương pháp nhằm giúp học sinh tham gia một cách
chủ động, tích cực vào quá trình học tập tạo điều kiện cho các em có thể chia sẻ
kinh nghiệm ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
- Khi sử dụng phương pháp này giáo viên hướng dẫn các em cách làm
nhóm trưởng, cách tổ chức hoạt động của nhóm, cách phản hồi kết quả các hoạt
động của nhóm. Thảo luận nhóm được sử dụng khi cần khuyến khích sự tham
gia suy nghĩ và phát biểu tích cực của mọi thành viên.
Khi tổ chức áp dụng phương pháp trong môn Đạo đức lớp 1 cần chú ý:
+ Hoạt động thảo luận nhóm có thể được dự kiến từ khâu giới thiệu giáo
án, cũng có thể tổ chức bất kì khi có tình huống vấn đề cần thảo luận chia sẻ.
+ Chỉ tổ chức thảo luận khi cần thiết, cần sự chia sẻ về một vấn đề đạo
đức nào đó mà nếu không tổ chức thảo luận nhóm thì sẽ không đạt được hiệu
quả mong muốn.
+ Đối với học sinh lớp 1, mỗi nhóm không nên quá 4 em, thời gian hoạt

động không quá 5 phút để học sinh dễ tổ chức hoạt động và phù hợp với sức
khỏe của học sinh Tiểu học.
+ Cần cho các em luân phiên làm nhóm trưởng, để em nào cũng được rèn
khả năng chỉ huy, tổ chức hoạt động tập thể. Việc trình bày kết quả có thể là
nhóm trưởng, cũng có thể lựa chọn các em khác trình bày.
+ Cần kiên trì tổ chức cho các em tham gia hoạt động nhóm. Ban đầu có thể
gặp nhiều khó khăn trong khâu tổ chức, sau một vài lần các em sẽ quen và từng bước
hình thành được thói quen học tập theo nhóm và yêu thích hoạt động nhóm.
+ Ví dụ: Trong bài “Trật tự trường học”.
- Giaos viên chia lớp thành 2 dãy, mỗi dãy lại chia thành các nhóm 4 em,
các nhóm có nhiệm vụ quan sát tranh 1 hoặc 2 trong vở Bài tập Đạo đức trang
26 và thảo luận việc ra vào lớp của các bạn trong tranh.
- Các nhóm của dãy A thảo luận tranh số 1, các nhóm của dãy B thảo luận
tranh số 2. Dãy A Dãy B
- Đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận các nhóm khác nhận xét
bổ sung.
- Cả lớp trao đổi tranh luận: Em có suy nghĩ gì về việc làm của bạn trong
tranh 2. Nếu em có mặt ở đó em sẽ làm gì?
11


- Sau khi học sinh tranh luận và phát biểu. Tôi kết luận lại: Khi ra vào lớp,
các em phải xếp hàng và đi theo thứ tự, không chen lấn xô đẩy khi ra vào lớp
làm ồn ào mất trật tự và có thể gây ra vấp ngã. Cô mong rằng các em đã nhận
thấy lợi ích của việc xếp hàng trật tự ra vào lớp, cô mong các em thực hiện tốt.
5. Phương pháp kể chuyện:
Dạy đạo đức ở lớp Một có thể bắt đầu bằng truyện kể đạo đức, truyện kể
về cách ứng xử của nhân vật trong tình huống cụ thể, thường là gương tốt để từ
đó giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích, khái quát thành chuẩn mực hành vi
đạo đức các em cần thực hiện. Phương pháp kể chuyện rất phù hợp với học sinh

lớp Một. Nó giúp cho bài học đạo đức đến với trẻ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng,
sống động.
Để câu chuyện kể lôi cuốn được học sinh, tôi lựa chọn câu chuyện sát với
chủ đề bài học trong một tình huống cụ thể. Tôi nắm thật vững nội dung câu
chuyện, nhập tâm vào câu chuyện. Khi kể, tôi nhấn mạnh vào chi tiết chủ yếu
của truyện, giọng kể khoan thai, rõ ràng, truyền cảm…Trong khi kể, tôi kết hợp
vừa sử dụng tranh hoặc làm điệu bộ hay biểu diễn minh họa.
+ Ví dụ: Khi dạy bài “Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ”
Không như thường lệ, tôi không giới thiệu bài mới ngay mà tôi hỏi học sinh: Các em
có thích nghe cô kể chuyện cho các em nghe không? Hôm qua chủ nhật ở nhà cô sưu
tầm được mẩu chuyện, cô nghĩ rằng em nào cũng thích nghe. Nhưng trước khi kể cô
muốn sau khi nghe chuyện này, các em cho cô biết câu chuyện muốn nói với các em
điều gì được không? Khi tôi dứt lời, cả lớp đồng thanh: Thưa cô chúng em đồng ý!
Tôi bắt đầu kể cho các em nghe câu chuyện “Hai chị em”
Sau khi kể chuyện xong, giáo viên hỏi: Lúc đầu Hà lấy túi màu gì? (màu
xanh). Em Thúy có thích túi màu xanh không? (Không, Thuý thích túi màu đỏ).
Thúy nói gì với Hà? (Chị đổi cho em cái túi đỏ với). Hà có đổi cho em không?
(Hà không đổi). Hà Không đổi em Thúy làm sao? (Thuý khóc). Nhìn thấy em
khóc Hà thấy thế nào? (Hà thương em quá). Thương em Hà đã làm gì? (Hà đưa
túi màu đỏ cho em). Hiểu ra câu chuyện Thúy làm gì? (Đến bá cổ chị).
Qua truyện này muốn nói chúng ta điều gì? (Là anh chị cần nhường nhịn
em nhỏ). Từ đó tôi mới giới thiệu bài học hôm nay “Lễ phép anh chị, nhường
nhịn em nhỏ” Vận dụng các phương pháp nhuần nhuyễn, kết hợp nhiều phương
pháp tránh nhàm chán ở các em. Cần đánh giá công bằng, chính xác việc học tập
của các em. Tôi luôn là người hướng dẫn tổ chức các hoạt động học tập của các
em qua ngôn ngữ nói và hoạt động nên đòi hỏi tôi phải rèn luyện cho mình thói
quen nói và làm việc phải mẫu mực chính xác.
Sử dụng lời nói một cách thích hợp, cường độ nói vừa đủ cả lớp nghe rõ,
chú ý thay đổi cường độ tốc độ, tuỳ thuộc vào nội dung bài giảng, sử dụng ngôn
ngữ phù hợp trình độ của các em.

12


Lứa tuổi các em là lứa tuổi hồn nhiên, chân thật. Vì vậy cần đối xử với các
em một cách tự nhiên, thể hiện sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ tôn trong các em, tỏ
thái độ nhiệt tình vui vẻ, dễ gần gũi vì tất cả các em muốn đánh giá tốt về mình.
6. Tổ chức trò chơi thi đua “làm việc tốt”:
Giáo viên chia lớp thành 4 tổ thi đua. Mỗi tổ phát một cuốn sổ để thi đua,
nếu bạn nào trong tổ vào thứ sáu hàng tuần khi sinh hoạt chủ nhiệm cô tuyên
dương bạn đó làm được một số việc tốt hay được tuyên dương thành tích đặc
biệt thì cô sẽ thưởng cho một bông hoa màu xanh. Cả tổ cử được mưòi bông hoa
màu xanh thì cô thưởng một bông hoa màu đỏ, các tổ thi đua theo từng nhóm,
từng học kỳ nếu tổ nào được nhiều bông hoa màu đỏ sẽ được cô thưởng bút viết
hoặc sáp màu… Nhờ vậy mà các em học tốt rõ rệt hẳn lên.
7. Sử dụng đồ dùng dạy học:
Ngoài các phương pháp nêu trên giáo viên cần luôn động viên, khuyến
khích, tuyên dương những học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ học tập của mình;
người giáo viên cần quan tâm vào việc thực hành các kỹ năng và sử đụng đồ
dùng dạy học. Việc sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết học mang lại
hiệu quả rất lớn, nó giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả, nhớ
lâu.Ngoài những đồ dùng đã được nhà trường trang bị, giáo viên cần sáng
tạo thêm nững đồ dùng gần gũi, thân thiện với các em gắn với nội dung của
từng bài; điều này sẽ gây hứng thu và giúp các em tiếp thu kiến thức nhanh
hơn, sâu hơn.
8. Giáo dục đạo đức qua các môn học khác:
Ở trên lớp, giáo viên không chỉ dạy môn Đạo đức mà còn dạy các môn
học khác như: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, Thủ công… Do đó khi học
đến bài học nào tôi cũng liên hệ để giáo dục học sinh.
+ Ví dụ: Khi học bài “Trâu ơi”
Khi dạy học sinh tìm hiểu nội dung bài với câu hỏi: Đọc câu văn nói lên

tình cảm của người nông dân đối với con trâu? Sau khi học sinh trả lời, tôi hỏi
học sinh: Bác nông dân rất yêu quý con trâu, còn các em thì sao?...Tôi nói các
em biết: Con trâu là đầu cơ nghiệp, hàng ngày trâu đã giúp chúng ta kéo cày, kéo
bừa và nhờ đó chúng ta có gạo để ăn và nuôi sống con người cho nên các em
phải biết yêu quý và chăm sóc như một người bạn của mình. Hay khi học môn
Tự nhiên và Xã hội bài 19 “Cây hoa”, khi học sinhtìm hiểu về lợi ích của hoa.
Học sinh nêu ích lợi của hoa là dùng để trang trí, làm nước hoa, làm thức ăn. Tôi
liền hỏi: Cây hoa có ích lợi như vậy các em cần làm gì để bào vệ cây hoa?. Học
sinh sẽ nêu được cách chăm sóc và bảo vệ cây và hoa. Việc liên hệ và giáo dục
các em liên tục thường xuyên như vậy góp phần rất lớn trong việc giáo dục đạo
đức cho các em; đòi hỏi việc làm này cần có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu
nghề mến trẻ.
9. Kết hợp Gia đình - Nhà trường - Xã hội:
13


Ngoài việc học ở trên lớp, các em về còn sống với gia đình, xã hội. Do đó
ngoài việc giáo dục các em ở lớp, tôi còn thường xuyên liên hệ với gia đình,
cùng phụ huynh kết hợp giáo dục học sinh cách học, cách làm việc. Tạo điều
kiện cho các em vui chơi hoà nhập với cộng đồng. Nếu em nào có biểu hiện
không bình thường về mặt tâm lý là tôi hỏi han, tìm hiểu nguyên nhân, nếu là
nguyên nhân từ gia đình hay từ nơi em sinh sống là tôi liên hệ với gia đình tìm
cách giải quyết ổn thoả để các em yên vui học tập.
10. Tổ chức giáo dục qua các hoạt động ngoại khoá:
Ngoài việc học ở trên lớp, tôi còn vận động các em tham gia các hoạt động
ngoại khoá, thông qua các hoạt động ngoại khoá mà giáo dục học sinh.
+ Ví dụ: Ở lớp tôi năm nào cũng thế gần tết Nguyên Đán tôi thường phát
động phong trào “Hũ gạo tình thương”. Khi phát động phong trào đó tôi sẽ kể
cho các em nghe các câu chuyện về các học sinh có hoàn cảnh khó khăn… Hơn
nữa tôi cho các em tự tìm hiểu trong lớp mình có những bạn nào có hoàn cảnh

khó khăn… các em nghèo thiếu đồ dùng học tập, nhịn ăn sáng? Các em biết chia
sẻ với hoàn cảnh của bạn, các em nói với ba mẹ về hoàn cảnh của các bạn cho
ba mẹ hay, xin ba mẹ bớt chút ít để ủng hộ bạn cùng ăn tết. Nhờ đó mà lớp tôi
góp được hàng trăm ngàn đồng để giúp cho các bạn nghèo. Ngày làm lễ trao cho
các bạn học sinh nghèo, các em tận mắt chứng kiến, các em tỏ ra rất vui mừng vì
các em đã làm được một việc tốt là biết chia sẻ khó khăn với các bạn của
mình… Nhờ hoạt động ngoại khoá như vậy là điều kiện để các em thực hiện
những gì các em đã học.
* Một số điều giáo viên cần tránh khi dạy môn Đạo đức:
Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng
các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của
học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên
nói những lời không hay đối với trẻ.
Không doạ nạt: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng
ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho
đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn.
Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa
đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa
thì ở các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi.
Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự
phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không
tạo điều
kiện phát triển tính tự lập ở các em.
Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở
các em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc
các em phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc
cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận
thức của học sinh.
14



Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận
của não bộ của các em.
Giáo viên luôn phải là người gương mẫu, là tấm gương cho học sinh soi vò,
với mỗi hành vi cử chỉ của các em sẽ là minh chứng cho việc tiếp thu các chuẩn
mực hành vi đạo đức của các em.
Trên đây là một số phương pháp, hình thức dạy – học vào môn Đạo đức mà
tôi đã áp dụng, nhờ đó tiết học trở nên hứng thú và đạt hiệu quả cao
4.3. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Các giải pháp trong sáng kiến đã được áp dụng tại lớp 1D, trường Tiểu
học ... trong năm học 2018-2019 và đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Sáng kiến có
khả năng áp dụng vào thực tế dạy môn Đạo đức tại khối 1 trường Tiểu
học ... nói riêng và lớp Một ở các trường Tiểu học trong toàn huyện nói
chung.
5. Những thông tin cần được bảo mật: Không
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Có sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đầu tư về trang thiết bị dạy
học cho môn Đạo dức nói riêng và các môn học nói chung.
- Có sự phối kết hợp của cha mẹ học sinh trong công tác giáo dục.
- Nhà trường tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm về dạy học môn Đạo
đức để giáo viên có điều kiện trao đổi học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục.
- Giáo viên cần trang bị cho mình kiến thức phương pháp cơ bản về dạy
đạo đức lớp Một. Phải phối hợp nhịp nhàng bằng nhiều hình thức giáo dục, giáo
dục mọi nơi mọi lúc. Giáo viên phải thực sự gương mẫu về ngôn ngữ nói, các
hoạt động cụ thể thiết thực trước mắt học sinh.
- Lựa chọn các biện pháp thích hợp, đây cũng là công việc đều đặn và kiên
trì, phải phối hợp nhịp nhàng giữa thầy – trò – gia đình – xã hội, chắc chắn kết
quả học tập và rèn luyện của học sinh sẽ tiến bộ.
- Tổ chức dạy học bằng nhiều hình thức trong một tiết học để thu hút tất cả

các học sinh tham gia vào hoạt động lĩnh hội kiến thức mới.
- Tổ chức cho các em thực hành để vận dụng các khái niệm đã học trên lớp.
- Luyện tập rút gọn những hành vi đã được hình thành, thực hiện những
tình huống tương tự nhưng tinh tế hơn.
- Luyện thành thói quen những hành vi của học sinh đã ổn định thành nhu
cầu của học sinh.
- Có sự tư vấn, giúp đỡ của đồng nghiệp trong việc áp dụng thử sáng
kiến vào việc giảng dạy môn Đạo đức lớp Một tại trường TH ... để đánh giá lợi
ích của sáng kiến.
7. Đánh giá lợi ích thu được:
7.1. Theo ý kiến tác giả:
15


Qua việc dạy đạo đức như trên tôi đã thu được kết quả như sau: Giờ học sôi
nổi, học sinh tích cực tham gia tìm hiểu bài. Các em tham gia các trò chơi một
cách tích cực; xử lý các tình huống nhanh nhẹn, chính xác. Ngoan ngoãn, lễ
phép với thầy cô và bạn bè, thực hiện tốt các nội quy của trường, của lớp. Không
có hiện tượng nói tực, chửu bậy.
Kết quả cụ thể môn Đạo đức lớp 1D như sau:
Xếp loại
Đầu năm
Cuối HKI

Cuối HKII

Hoàn thành tốt

10/32


17/32

21/32

Hoàn thành

22/32

15/32

11/32

0

0

0

Chưa hoàn thành

Kết quả về hànhvi ứng xử đạo đức
+ Nhanh nhẹn, biết ứng xử tình huống nhạy bén: 15 em
+ Nhanh nhẹn, ứng xử tình huống tốt: 13 em
+ Biết ứng xử tình huống, chậm: 4 em
+ Chậm không biết ứng xử: Không
Kết quả áp dụng thử sáng kiến:
Lớp 1A
Xếp loại

Đầu năm


Cuối HKI

Cuối HKII

Hoàn thành tốt

7/32

12/32

17/32

Hoàn thành

25/32

20/32

15/32

Chưa hoàn thành

0

0

0

Lớp 1B

Xếp loại

Đầu năm

Cuối HKI

Cuối HKII

Hoàn thành tốt

9/31

21/31

24/31

Hoàn thành

22/31

10/31

8/31

0

0

0


Đầu năm

Cuối HKI

Cuối HKII

11/31

19/31

22/31

Chưa hoàn thành
Lớp 1C
Xếp loại
Hoàn thành tốt

16


Hoàn thành
Chưa hoàn thành

20/31

12/31

9/31

0


0

0

7.2. Theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến:
* Đối với giáo viên:
- Qua việc áp dụng sáng kiến giáo viên có thêm kiến thức, nâng cao chuyên
môn trong giảng dạy môn Đạo đức nói riêng và môn học khác nói chung.
- Nhờ vận dụng các phương pháp giảng dạy như đã trình bày ở trên, giáo
viên đã gây được hứng thú cho học sinh trong các giờ đạo đức thu hút được học
sinh vào hoạt động học tập 100% học sinh tham gia một cách tích cực. qua giờ
đạo đức học sinh đã nắm bắt được những tri thức sơ đẳng, những cần thiết về
các chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa một cách tương đối có hệ thống. Học
sinh tự xây dựng được bài học chứ không còn bị áp đặt như trước nữa.
* Đối với học sinh:
Học sinh biết phân biệt được cái thiện với cái ác, cái tốt với cái xấu, cái
đúng với cái sai. Học sinh có những xúc cảm đạo đức tích cực. Yêu cái thiện, cái
đúng, cái tốt. Ghét cái ác, cái xấu xa, cái sai, không đồng tình. Và đấu tranh với
các biểu hiện sai trái, xấu xa. Học sinh có những kỹ năng hành vi đơn giản.
Thực hiện các hành vi phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.
- Biết vâng lời thầy cô, cha mẹ, người lớn tuổi, biết kính trên nhường dưới. Tập
thể học sinh biết thương yêu đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Thực hiện tốt các
hoạt động của trường, của lớp đề ra.
+ Đối với nhà trường:
- Chất lượng giáo dục được nâng lên.
- Đội ngũ giáo viên có chuyên môn sâu hơn trong giảng dạy.
- Học sinh ngoan ngoãn, lễ phép. Thực hiện tốt mọi nội quy, quy định của
nhà trường. Trường học đảm bảo an toàn, không có học sinh nói tục, chửu bậy.
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử (có bảng danh

sách kèm theo):
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
..., ngày 05 tháng 4 năm 2019
Ý KIẾN XÁC NHẬN

NGƯỜI NỘP ĐƠN

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

...

17


18


S
T
T

Họ và tên

Ngày
tháng
năm sinh

Nơi
công tác


2
3
4
5

19

Chức
danh

Trình
độ
chuyên
môn

Nội dung
công việc
hỗ trợ


20



×