Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

(TH) Sáng kiến kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.48 KB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …
TRƯỜNG TIỂU HỌC ...........................

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến:
“Kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 1”
Thuộc lĩnh vực:

Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học ...........................

..........................., tháng 4 năm 20…


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện .......
ST
T

Họ và tên

Ngày tháng
năm sinh

Nơi công tác
(hoặc nơi
thường trú)


Chức
danh

Trình độ
chuyên
môn

Tỷ lệ (%)
đóng góp
vào việc tạo
ra sáng kiến

01
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Kinh nghiệm trong công tác
chủ nhiệm lớp 1”
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không có
2. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến:
Kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 1C trường Tiểu học .......
huyện ....... tỉnh Thái Nguyên.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Sáng kiến được áp dụng từ ngày 01/10/2018 đến ngày 08/04/2019.
4. Mô tả bản chất của sáng kiến
4.1. Thực trạng của công tác chủ nhiệm:
Trong trường Tiểu học, thời gian học là 9 buổi/tuần, chính vì vậy thời gian
các em học tập và rèn luyện ở trường là khá nhiều, chủ yếu với giáo viên chủ
nhiệm. Công tác chủ nhiệm là một công việc quan trọng thường xuyên gắn bó
với người giáo viên Tiểu học. Vì vậy, đối với mỗi nhà giáo trong quá trình đảm
nhiệm trọng trách này đều tích luỹ cho mình một số kinh nghiệm riêng. Hơn nữa
trong thời đại ngày nay, cùng với sự tiến bộ của xã hội, sự giao lưu văn hoá,
kinh tế, sự phát triển của công nghệ thông tin thì vấn đề làm thế nào để hoàn

thành tốt vai trò của một giáo viên chủ nhiệm là một vấn đề không bao giờ cũ.
Kéo theo những kinh nghiệm mà giáo viên chủ nhiệm tích luỹ, bồi dưỡng nhằm
mục đích làm tốt công tác chủ nhiệm, làm tốt nhiệm vụ cao quý mà Đảng và
nhân dân đã tin tưởng giao phó. Đó là giáo dục, rèn luyện các em phát triển toàn
diện về cả tri thức, năng lực và phẩm chất, những kĩ năng sống giúp các em trở
thành những con ngoan, trò giỏi và sau này lớn lên các em sẽ là chủ nhân trong


tương lai, sống có ích cho xã hội góp sức lực vào công cuộc xây dựng đất nước
như Bác Hồ hằng mong muốn.
4.2. Thực trạng của lớp 1C:
Năm học 2018-2019 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 1C,
qua khảo sát tình hình học sinh tôi thu được kết quả như sau:
* Đặc điểm tình hình lớp:
- Tổng số HS: 31 em
Trong đó: Nữ: 13 em; Dân tộc: 12 em
Nữ dân tộc: 06 em
Học sinh khuyết tật trí tuệ nặng: 01 em
Học sinh 6 tuổi: 31 em;
Học sinh nghèo: 04 em
Học sinh cận nghèo: 04 em
* Về hoạt động giáo dục:
Môn
Toán
Tiếng việt

Nhận biết được
chữ và số
14
12


Tỷ lệ %
45,2
38,7

Chưa nhận biết hết
chữ và số
17
19

Tỷ lệ %
54,8
61,3

* Năng lực:
- Tự phục vụ, tự quản:
+ Số học sinh biết tự phục vụ, tự quản
+ Số học sinh chưa biết tự phục vụ, tự quản
- Giao tiếp, hợp tác:
+ Mạnh dạn trong giao tiếp, biết lắng nghe, chia sẻ với bạn
+ Chưa mạnh dạn còn nhút nhát khi chia sẻ với bạn
- Tự học, giải quyết vấn đề:
+ Có khả năng tự học và giải quyết vấn đề:
+ Khả năng hoạt động và giải quyết vấn đề còn chậm

9 em = 29,0%
22 em =71,0%.
7 em = 22,6%;
24 em = 77,4%.
12 em = 38,7%;

19 em = 61,3%.

* Phẩm chất:
Chăm học, chăm làm: 12 em = 38,7 %
Tự tin, trách nhiệm: 12 em = 38,7 %
Trung thực, kỉ luật: 17 em = 54,8 %
Đoàn kết, yêu thương: 20 em =
64,5%

Chưa chăm học, chăm làm: 19 em = 61,3 %
Chưa tự tin, trách nhiệm: 19 em = 61,3 %
Chưa trung thực, ki luật: 14 em = 45,2 %
Chưa biết đoàn kết, yêu thương: 11 em = 35,5%


Từ những thực trạng trên bản thân tôi đã suy nghĩ, trăn trở rất nhiều và làm
thế nào để các em cuối năm học đạt được các chuẩn kiến thức, kỹ năng, năng lực,
phẩm chất theo yêu cầu của chương trình lớp 1. Chính vì vậy tôi đã lên kế hoạch
hết sức cụ thể, tích cực tìm tòi các phương pháp, biện pháp, giải pháp giáo dục sao
cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, với mong muốn được gần gũi, hiểu, giúp
đỡ, định hướng kịp thời cho các em,
4.3. Các giải pháp thực hiện
* Giải pháp 1: Xây dựng nội quy lớp học.
Để đảm bảo lớp học có nền nếp thì cần phải có một nội quy cụ thể mà
chính các em được tham gia xây dựng. Nội quy lớp học cần mang tính thân
thiện, tích cực, thực tế.
Công việc xây dựng nội quy lớp học được tiến hành từng bước như sau:
Vào đầu năm học giáo viên đọc cho học sinh nghe nhiệm vụ, quyền hạn của học
sinh, cho học sinh nêu những nhiệm vụ mà mình cần thực hiện từ đó xây dựng
nội quy lớp học.

NỘI QUY HỌC SINH

1. Thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy.
2. Đi học đúng giờ. Nghỉ học phải xin phép.
3. Hăng hái phát biểu xây dựng bài.
4. Lễ phép, đoàn kết.
5. Không nói tục, chửi bậy.
6. Không ăn quà vặt, không xả rác bừa bãi.
7. Vệ sinh sạch sẽ.
8. Trang phục gọn gàng.
9.Thực hành tiết kiệm điện, nước.
- Vào 15 phút đầu giờ tôi thường xuyên kiểm tra nền nếp, hướng dẫn lớp
truy bài, nghe đọc báo, hát, kiểm tra đồ dùng học tập. Bên cạnh đó tôi còn đưa ra
hướng phấn đấu cho các em, tổ nào ngoan, có ý thức, không vi phạm lỗi nào sẽ
được cộng điểm thi đua cho tổ mình. Cuối tuần dựa vào kết quả thi đua đó để có
sự khen thưởng, động viên, nhắc nhở kịp thời.


- Dựa vào nội quy lớp học yêu cầu mỗi học sinh tự rèn cho mình ý thức tự
quản và tự theo dõi nhắc nhở nhau thực hiện tốt nền nếp để xây dựng tập thể
lớp, vững mạnh.
(Phụ lục ảnh 1)
* Giải pháp 2: Xây dựng lớp thân thiện học sinh tích cực.
- Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đặc biệt là giáo dục đạo đức,
lối sống và kĩ năng sống cho học sinh lớp 1C, tôi đã hướng các em vào phong
trào “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Nhằm tạo ra môi trường
học tập thân thiện, an toàn, gần gũi làm cho các em cảm thấy “Mỗi ngày
đến trường là một ngày vui”. Xây dựng được lớp học thân thiện, học sinh
tích cực thì sẽ lôi cuốn gây hứng thú cho học sinh trong một bình diện rộng
ở mọi nơi, mọi lúc, qua giao tiếp, cách ứng xử, bảo ban của giáo viên đối

với học sinh. Do vậy đòi hỏi giáo viên phải thật kiên trì, nhẫn nại có tình
thương yêu thực sự với học trò.
Phong trào “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” tại lớp được
tôi tiến hành từng bước như sau:
Bước 1: Trang trí lớp học xanh- sạch- đẹp
Lớp học luôn sạch sẽ, ngăn nắp và được trang trí bằng các sản phẩm do
chính tay các em làm ra như các sản phẩm của môn Thủ công, các bài vẽ môn
Mĩ thuật, các bài luyện viết chữ đẹp hàng tháng, những sản phẩm này phải đảm
bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Bên cạnh đó tôi cũng hướng dẫn các em
thu thập những sản phẩm, nguyên vật liệu sẵn có được sản xuất từ địa phương
để trang trí vào góc cộng đồng như các loại hạt đỗ, củ, quả, các dụng cụ sinh
hoạt như quạt cọ, chổi rơm, chổi chít, rổ, rá, mũ, nón, nơm, giỏ... làm cho lớp
học trở nên thân thiện và gần gũi với các em.
- Song song với việc trang trí lớp tôi còn cùng các em trồng hoa, cây cảnh
vào chậu chăm sóc thường xuyên tạo cảnh đẹp cho lớp.
- Đối với bồn hoa - công trình măng non của lớp, tôi phân công mỗi tổ
chăm sóc một tuần. Quy định bồn hoa phải sạch cỏ, đất không khô trắng, không
có cành gãy và lá khô. Tổ nào làm tốt sẽ được tuyên dương. Tổ nào, bạn nào
chưa làm tốt sẽ nhắc nhở, hướng dẫn cụ thể.
- Đối với việc trực nhật vệ sinh lớp học nói chung và vệ sinh trường (khu
vực được phân công) nói riêng tôi luôn chỉ dẫn các em cách cầm chổi quét nhà,
quét sân, cách giặt giẻ lau bàn ghế, lau bảng, sắp xếp bàn ghế gọn gàng, ngăn
nắp. Khi làm xong công việc tôi thường nhận xét, tuyên dương kịp thời việc làm


của các em, cho các em phát biểu cảm tưởng khi vệ sinh xong. Em nào cũng
thấy việc làm của mình là có ích làm cho trường lớp sạch đẹp và cảm thấy càng
yêu trường, yêu lớp học của mình hơn.
Bước 2: Xây dựng mối quan hệ thầy- trò và bạn bè trong lớp
Tình thầy trò trở nên thân thiết sẽ tạo cho học sinh cảm giác ấm áp, gần gũi

trong các buổi học. Hiểu được điều đó nên tôi thường không trách phạt bất cứ
học sinh nào. Dù hôm đó học sinh quên sách, quên đồ dùng học tập hay đi học
muộn. Nếu nặng lời, trách móc sẽ đem lại cho học sinh đó nỗi buồn, cảm giác có
tội sẽ áp lực về tâm lý, phá tan sự hứng thú tiếp thu bài của học sinh trong cả
buổi học hôm ấy. Chính cô giáo cũng bị ức chế buồn bực trong suốt giờ giảng
của mình. Để tránh tình trạng trên cuối mỗi buổi học trước khi các em ra về tôi
thường dặn dò các em chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập, sách vở cho buổi học
ngày hôm sau. Đồng thời mỗi sáng khi bước chân vào lớp tôi thường nghĩ ra
một lời chào, một câu nhận xét vui, hóm hỉnh hoặc sau lời chào là một vài cử chỉ
ân cần: Khi thì buộc lại tóc cho em nữ, lúc thì bẻ cổ áo để sao cho học sinh cảm
nhận được sự gần gũi yêu thương, tạo cho ngày học mới bắt đầu hết sức nhẹ
nhàng và ấm áp.
Cả ngày các em ở trường, cô giáo trong thời gian đó thay vai trò người mẹ.
Mỗi khi có em kêu sốt, mệt hay đau bụng giữa tiết tôi không làm ngơ mà ân cần
hỏi han, bình tĩnh xử lý lúc thì xoa cho em này chút dầu khi thì pha cho em khác
cốc nước, có em mệt quá không đỡ tôi đưa xuống phòng y tế hoặc thông báo cho
gia đình.
Học sinh đến trường được vui chơi, học tập. Giờ ra chơi với lớp 1 mới vào
trường các em cũng còn rất nhiều bỡ ngỡ, tôi đã hướng dẫn các em các trò chơi
tập thể, nhảy dây, đánh cầu, ô ăn quan ... để các em được chơi hết mình, cười
đùa thật vui vẻ và được tham gia cùng các bạn tự tin hơn.
Trong giờ học để các em tiếp thu bài được dễ hơn, tôi cũng thường tổ chức
các trò chơi, tạo điều kiện để mọi đối tượng học sinh trong lớp được tham gia: ví
dụ chơi hái hoa dân chủ trong giờ ôn tập môn Tự nhiên và Xã hội; chơi đóng
kịch phân vai trong giờ Đạo đức (luyện tập), chơi ai nhanh hơn trong giờ Toán
và “Giọng đọc vàng” trong giờ Tập đọc. Những kiến thức cơ bản học sinh được
học dưới dạng trò chơi, các em thấy hứng thú và tiếp thu kiến thức nhanh hơn
đồng thời tôi nhận thấy thông qua các trò chơi tính cách của các em được bộc lộ
rõ ràng hơn. Qua đó tôi có được nhận xét cụ thể về tính cách của từng em và có
biện pháp giáo dục phù hợp.



Thứ sáu cuối tuần có tiết sinh hoạt lớp, học trò của tôi rất thích và háo hức
chờ đón vì trong buổi sinh hoạt này các em được nêu những việc mình đã làm và
chưa làm được, các em được bình chọn tuyên dương, rút kinh nghiệm lẫn nhau.
Tôi thống nhất với phụ huynh tổ chức sinh nhật cho những em sinh cùng
tháng vào tuần 4 của tháng. Trong buổi sinh nhật tôi nhận thấy gương mặt của
các em sáng lên niềm hân hoan với những nụ cười vô tư hồn nhiên khi được
nhận những lời chúc mừng, món quà tuy nhỏ nhưng nó thực sự là động lực thúc
đẩy và mang đến niềm vui cho các em. Những việc làm bình thường như vậy
nhưng cũng khiến cho học sinh thấy được tình thương yêu và sự quan tâm ân
cần, săn sóc của cô giáo đã dành cho mình. Cũng từ những sự cảm nhận này
khiến phụ huynh học sinh cảm thấy tin tưởng gửi gắm con em mình cho nhà
trường, cho cô giáo, học sinh cảm thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
Thực hiện phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm,
thầy hướng dẫn, giao việc - trò thực hành. Khi giao việc, tôi chỉ nói một lần,
nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói
ít, học trò sẽ làm nhiều. Làm việc như thế nào thì đạo đức, ý thức sẽ kèm theo
như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì ý thức kỉ luật cũng đến nơi đến chốn.
- Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình
thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý đến cả cách đi đứng,
nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, cầm bút, chữ viết, thái độ, để học trò noi
theo. Không vì bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xòa, qua
loa trước mặt học sinh.
- Khi học sinh nào làm bài chưa đúng, tôi yêu cầu học sinh đó phải đọc lại
và làm lại bài. Tôi hỗ trợ, hướng dẫn cụ thể học sinh làm lại ngay tại lớp. Do đặc
điểm tâm lí học sinh Tiểu học thường thích khen nhiều hơn, phê bình ít hơn. Bởi
vậy, tôi luôn khen ngợi những học sinh làm tốt để động viên tinh thần các em.
Đối với học sinh làm chưa tốt, tôi thường xuyên động viên và gọi lên bảng hỗ
trợ và hướng dẫn thêm. Nhờ sự hỗ trợ kịp thời của giáo viên mà các em đã tự

tin, hăng hái phát biểu, lớp học sôi nổi hơn. Đặc biệt các em sẽ trung thực,
không gian dối.
Ví dụ: Trong lớp có em Đặng Bảo Tú, em Vi Kim Thịnh học chậm môn
Toán. Tìm hiểu nguyên nhân cả hai em chưa nhớ kĩ bảng cộng, trừ và còn nhầm
lẫn khi giải Toán có lời văn. Vậy tôi đã làm như sau: Hằng ngày tôi cùng kết hợp
với phụ huynh học sinh kiểm tra lại các bảng cộng trừ rồi hướng dẫn các em vận
dụng vào làm bài. Phát huy tốt phong trào “Đôi bạn cùng tiến”, giúp đỡ nhau
trong học tập, dần dần hai em đã mạnh dạn tự tin hơn. Nên ở lớp, ở nhà những


ngày nghỉ các em đã tự giác học và làm bài tập. Trong các giờ học toán, hai em
đã tích cực xung phong lên bảng làm bài. Sau một thời gian có sự hỗ trợ của cô
giáo, các bạn học sinh và gia đình hai em đã có sự tiến bộ rõ rệt, các em đã biết
làm các dạng toán cộng, trừ, biết giải toán có lời văn.
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em gặp
khó khăn trong học tập, có em ham chơi quên học bài, nhưng lỗi không hoàn
toàn là do các em, có em do những điều kiện khách quan. Gia đình của các em
đâu phải lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc; đâu phải em nào cũng may mắn được
bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi bước học tập. Và có biết bao nhiêu bố mẹ
phải lo làm ăn kiếm sống hoặc vì ốm đau bệnh tật, nên không ngó ngàng gì đến
việc học của con trẻ, thậm chí các em còn bị mắng chửi. Những vấn đề đó đã tác
động đến tâm lí trẻ thơ, cản trở việc học tập của các em rất nhiều. Nếu như giáo
viên không biết được những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận, rồi la mắng,
trách phạt các em. Điều đó sẽ làm các em dễ bị tổn thương. Vì vậy, đứng trước
một học sinh hiếu động, chưa chăm, hay lơ đãng không học bài, làm bài, tôi
không trách phạt ngay mà bình tĩnh chờ đến hết buổi học gặp riêng các em để
hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở. Nếu
lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải đến nhà hoặc gọi điện để tìm hiểu
nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em kịp thời.
- Hàng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, đúng lúc,

đúng thời điểm những ưu điểm của các em. Tôi cố tìm ra những ưu điểm nhỏ
nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không
quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn.
Ví dụ: Trường hợp của em Phạm Lê Anh Tuấn đến lớp chưa chăm học, mải
chơi và hay trêu chọc các bạn, lấy đồ dùng của các bạn trong lớp. Qua tìm hiểu
nguyên nhân mà em chưa chăm, chưa ngoan tôi được biết em là con một gia
đình, mẹ lại đi làm ăn xa, em ở với ông tuổi đã cao, với hoàn cảnh như vậy nên
ông rất thương cháu chiều chuộng, nâng niu hết mức. Có những lúc ông cũng
không bảo được cháu, do thiếu sự quan tâm sát sao, bảo ban của bố mẹ, việc học
hành của em hầu hết là phó mặc cho nhà trường, cô giáo, bản thân em ngày một
ương bướng, lười học, vệ sinh cá nhân cũng chưa tốt (ví dụ: tóc, móng chân, tay
để dài, quần áo, mặt mũi lấm lem). Bản thân tôi thấy rất thương hoàn cảnh của
Tuấn, thường xuyên cắt móng tay, rửa mặt, nhờ người cắt tóc cho em. Với
trường hợp như vậy tôi đã đến tận gia đình gặp gỡ trao đổi cùng ông em để tìm
cách phối hợp giáo dục, động viên, phân tích cho Tuấn hiểu mục đích của việc
học tập, rèn luyện đạo đức là để lớn lên em sẽ thành người có ích cho gia đình,


quê hương và xã hội. Gia đình đang đặt niềm tin và hi vọng vào em. Từ đó Tuấn
đã dần dần nhận ra cần phải biết tự chăm sóc bản thân cho sạch sẽ, em cũng đã
thấy mình cần phải nỗ lực hơn nữa trong học tập. Hằng ngày đến lớp em đã chú
ý nghe giảng, chăm chỉ học bài và làm bài tập, bài nào chưa hiểu em đã mạnh
dạn hỏi bạn hỏi cô. Tuấn đã đoàn kết, cởi mở, thân thiện với tất cả các bạn. Thấy
Tuấn có nhiều tiến bộ các bạn trong lớp đều khen và động viên Tuấn học tập.
Từ một học sinh chưa chăm học, chưa ngoan, môn Toán tính rất chậm, Tiếng
Việt chưa nhớ hết được bảng chữ cái đến nay em đã hoàn thành các môn học, có
những môn em đã hoàn thành tốt như: Thể dục, Mĩ thuật.
- Tôi luôn khích lệ học sinh viết nhưng lời bày tỏ, những điều em muốn nói,
những tâm tư nguyện vọng của mình với cô giáo hoặc với bạn bè thông qua hộp
thư vui, hộp thư điều em muốn nói. Từ đó giúp giáo viên và học sinh hiểu nhau

hơn và hạn chế những lời phê bình trước lớp.
- Khi nói chuyện, khi giảng bài, cũng như khi nhắc nhở học sinh, tôi luôn
thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối với học
trò. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn
để giáo dục và cảm hóa học sinh. Tôi nghĩ tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết
lòng vì học sinh thân yêu của mình chắc chắn các em sẽ chăm ngoan, tích cực và
ham học, thích đi học.
(Phụ lục ảnh: 2,3,4,5,6,7,8,9,10,11)
+ Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn.
Với những học sinh nghèo, học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn tôi luôn kết
hợp với nhà trường, hội cha mẹ học sinh, các ban ngành đoàn thể khác tạo mọi
điều kiện giúp đỡ các em về mọi mặt tinh thần cũng như vật chất, giúp các em
có cảm giác được quan tâm, chăm sóc, các em phấn khởi từ đó tích cực học tập
và tham gia tốt các hoạt động.
Số học sinh lớp 1C được nhận quà như sau:
S
TT

Họ và tên

01
02

Vi Kim Thịnh
Đỗ Thị Dương

03
04
05


Tên nhà hảo tâm

Số tiền, quà

Trị giá

Chương trình thắp sáng ước mơ
200.000 đ
Chương trình thắp sáng ước mơ của 400.000 đ
UBND huyện và CĐ trường TH .......
Lục Thùy Trâm
Nhà may TNG tặng áo rét
130.000 đ
Nguyễn Đông Giáp Nhà may TNG tặng áo rét
130.000 đ
Phạm Lý Ngọc Hiếu Liên đội trường TH .......
120.000 đ
Tổng trị giá quà
980.000 đ

(Phụ lục ảnh: 12)


+ Đối với học sinh khuyết tật học hòa nhập:
- Ngay từ đầu năm nhận lớp tôi có một em học sinh khuyết tật trí tuệ nặng
học hòa nhập. Hoàn cảnh của gia đình em cũng rất éo le.
Em: Đỗ Thị Dương - khuyết tật trí tuệ nặng, sức khỏe yếu. Gia đình thuộc
diện hộ nghèo (Bố em mắc chứng bệnh tâm thần)
- Sau khi nắm bắt được loại tật, hoàn cảnh gia đình cụ thể, tôi đã lập kế
hoạch chi tiết trong việc hỗ trợ tiếp thu kiến thức và các hoạt động khởi động

trong và ngoài giờ lên lớp, tôi luôn có phần dành riêng để em có cơ hội được
tham gia cùng các bạn.
Ví dụ: Khởi động các ngón tay, bàn tay trước khi viết, cách cầm phấn, cầm
bút, giẻ lau; khởi động sau mỗi tiết học cho thoải mái hơn.
Trong giảng dạy tôi đã vận dụng hết sức linh hoạt, sáng tạo các phương
pháp nhằm giúp em dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ nhớ. Sử dụng tốt tranh ảnh, mô hình,
hình vẽ cũng như các hoạt động vui chơi để em nắm và nhớ kiến thức. Củng cố
kiến thức thường xuyên, liên tục, nhắc đi nhắc lại nhiều lần những kiến thức đã
học để khắc sâu. Kiểm tra lại kiến thức bằng những câu đố vui hoặc mô hình
trực quan. Tôi không yêu cầu quá mức gây căng thẳng, ức chế thần kinh cho em.
Trong quá trình em thực hiện tôi theo dõi và trợ giúp khi cần thiết. Nếu em
chưa thực hiện được thì tôi hướng dẫn lại cụ thể theo từng bước. Tuyệt đối
không chê bai mắng nhiếc trước tập thể. Phát hiện những điểm tiến bộ hằng
ngày dù là nhỏ nhất để động viên kịp thời, khích lệ và có biểu dương trước
lớp, gây hứng thú cho em tham gia học tập tốt hơn.
Tạo cơ hội cho trẻ trong lớp gần gũi, đoàn kết thương yêu giúp đỡ bạn bị
khuyết tật. Động viên mọi thành viên trong lớp phải có tinh thần trách nhiệm,
giúp đỡ lôi cuốn, tạo điều kiện cho các em tham gia vui chơi. Giáo viên cũng
như các bạn cùng lớp luôn phải chú ý động viên khuyến khích kịp thời khi trẻ
khuyết tật hoàn thành được một nhiệm vụ, công việc đơn giản so với trẻ bình
thường khác. Xây dựng vòng tay bạn bè ngay từ đầu năm để tạo ra bầu không
khí thân mật, thương yêu giúp đỡ trẻ khuyết tật như: nhóm bạn cùng học ở nhà,
nhóm cùng đi học, nhóm học trên lớp, nhóm cùng vui chơi. Tìm hiểu đặc điểm
bệnh tật của em để có hướng giúp đỡ khi em bị đau. Yêu thương, quan tâm
chăm sóc trẻ thường xuyên để em cảm thấy không bị bỏ rơi và đem lại cảm giác
an toàn cho trẻ. Kết hợp với các bạn bè đồng nghiệp như Tổng phụ trách, giáo
viên dạy chuyên để theo dõi, giúp đỡ em. Kết hợp với phụ huynh học sinh để
cùng nhau đưa ra biện pháp tối ưu nhất tạo điều kiện cho em sống, học tập tại



cộng đồng. Và quan trọng nhất là người giáo viên có trẻ học hòa nhập phải có
TÂM và cũng là người mẹ thứ hai chăm sóc, dạy dỗ, động viên em.
Với tất cả những việc làm trên của cả cô và trò lớp 1C đã giúp em Đỗ Thị
Dương có nhiều tiến bộ, không còn mặc cảm trước bạn bè, sống cởi mở, hòa đồng
hơn. Em đã tự thể hiện mình qua các hoạt động học tập, vui chơi. Đặc biệt về giao
tiếp em đã cởi mở, mạnh dạn hơn khi được trò chuyện.
(Phụ lục ảnh: 13)
+ Đối với học sinh gặp khó khăn trong học tập:
- Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó gặp khó khăn, học yếu những môn nào.
Có thể là ở gia đình các em chưa chăm, bố mẹ bận làm việc nên chưa nhắc nhở hỗ
trợ các em kịp thời.
- Tôi đã lập kế hoạch giúp đỡ học sinh bằng những việc cụ thể như sau:
Những em chậm tiến bộ, gặp nhiều khó khăn trong học tập thì xếp các em ngồi
trên bàn đầu đồng thời xếp một em có tinh thần trách nhiệm, học tập tốt ngồi
cạnh, giao nhiệm vụ cho em đó hỗ trợ bạn qua thực hiện 15 phút đầu giờ, qua
từng tiết học, bài học trong mọi giờ học. Thầy cũng tiện cho việc theo dõi kèm
cặp, hỗ trợ học sinh kịp thời.
- Lớp đã xây dựng được các nhóm học tập để giúp đỡ nhau như: Đôi bạn
cùng tiến, nhóm học tập tự quản. Qua đó thường xuyên kiểm tra động viên
khuyến khích các em bằng phong trào: chăm ngoan, học tốt.
(Phụ lục ảnh: 14, 15)
* Giải pháp 3: Xây dựng mối quan hệ giữa giáo viên với phụ huynh
- Giáo viên là cầu nối mối quan hệ giáo dục giữa gia đình, nhà trường và
xã hội. Một trường học, lớp học phát triển vững mạnh một phần lớn nhờ công
đóng góp của tập thể phụ huynh học sinh. Nhận thức được điều đó, ngay từ đầu
năm học trong buổi họp phụ huynh học sinh, tôi đã đưa ra kế hoạch hoạt động
của nhà trường, của lớp tuyên truyền để phụ huynh hiểu các việc cần làm để
phục vụ cho việc học tập của con em mình tốt hơn. Đồng thời các bậc phụ
huynh hiểu nhiệm vụ của mình trong việc xây dựng nhà trường và chất lượng
học tập của con mình.

- Trong cuộc họp, tôi đã yêu cầu phụ huynh cung cấp số điện thoại để tiện
liên lạc khi cần thiết (trao đổi về việc học tập của con, khi con ốm đau trên lớp,
khi có chế độ của Nhà nước hỗ trợ).


- Khi bầu ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp tôi luôn hướng cho phụ
huynh bầu mỗi khu vực xóm một người để phụ huynh tiện trao đổi với nhau
những vấn đề vướng mắc có liên quan đến lớp. Tôi luôn đề cao lợi ích của phụ
huynh, giúp đỡ phụ huynh những việc mình có thể làm được: Mỗi lần học sinh
được hưởng chế độ ưu đãi theo Nghị định của Chính phủ, tôi đã tạo điều kiện
tập trung hồ sơ của số em được hưởng sang xã xác nhận để tiện cho cán bộ xã và
phụ huynh học sinh.
- Mỗi lần trao đổi với phụ huynh về việc học tập của học sinh, tôi trao đổi
nhẹ nhàng để phụ huynh thấy được điểm mạnh, điểm yếu của các em, những
nguyên nhân dẫn đến việc mắc khuyết điểm và cùng phụ huynh tìm cách khắc
phục để giáo dục các em tốt hơn. Qua trò chuyện với phụ huynh thì thấy phụ
huynh tâm sự con chỉ nhất nhất nghe lời cô giáo, đó là thế mạnh của cô. Nhưng
tôi vẫn trò chuyện tâm sự với các em để các em hiểu những lời nói, lời dạy bảo
của bố mẹ là đúng và các em phải biết vâng lời.
- Trong những ngày hội lớn của trường như “Ngày đọc sách”, Ngày hội
“Nói tiếng Anh”, Ngày hội “Văn hóa trường học”, các hoạt động ngoại khóa dạy
học kĩ năng sống như: Làm bánh trôi nước, kĩ năng làm vườn, kĩ năng nhảy sạp,
kĩ năng tự phục vụ bản thân. Tôi đã tuyên truyền, vận động phụ huynh cùng
tham gia để phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc học và cùng đồng
hành hỗ trợ con trong học tập.
(Phụ lục ảnh 16, 17,18)
* Giải pháp 4: Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi
lành mạnh.
Ngoài các giờ học chính khóa, tôi kết hợp với nhà trường, Đội tổ chức cho
các em sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi giúp các em “Học mà chơi, chơi

mà học”, kiến thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một
cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối với các em. Tổ chức
sinh hoạt tập thể và vui chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách,
bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động
tập thể còn là sợi dây gắn bó, đoàn kết yêu thương giữa các em lại với nhau.
Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, tôi có
thể tổ chức ngay trong mỗi buổi học kĩ năng sống, hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Tổ chức thi văn nghệ, kể chuyện ở lớp bình chọn các em hát, kể chuyện hay
tham gia giao lưu văn nghệ trong các giờ sinh hoạt chào cờ đầu tuần.


Nhà trường tổ chức các hoạt động tập thể tạo sân chơi cho học sinh giao
lưu văn nghệ, thể thao vào các ngày lễ lớn tùy vào năng khiếu và sở thích của
mình, các em tham gia chơi rất nhiệt tình hào hứng, đoàn kết, an toàn.
Các em được sinh hoạt tập thể và chơi các trò chơi nên các em trở nên rất
tự tin, năng động sáng tạo và chính các em tạo nên được một môi trường học tập
thân thiện, tích cực, các năng lực phẩm chất, chất lượng học tập của học sinh
ngày càng được nâng cao.
(Phụ lục ảnh 19, 20, 21, 22, 23, 24)
* Giải pháp 5: Thành lập câu lạc bộ cha mẹ học sinh.
Đặc thù của bậc học Tiểu học là phải có sự phối hợp giữa cha mẹ học sinh
với nhà trường để cùng thảo luận, trao đổi, chia sẻ cách dạy con. Để các phụ
huynh học tập lẫn nhau cách quản lý, giáo dục dạy dỗ con. Biết được tâm tư,
nguyện vọng, khó khăn của phụ huynh nên ngay sau khi bước vào năm học mới
tôi đã đề nghị các bậc phụ huynh học sinh tổ chức “Câu lạc bộ cha mẹ học sinh”.
Với hình thức nhà trường cùng phối hợp với hội cha mẹ học sinh, chính
quyền địa phương. Mỗi phụ huynh là một thành viên cùng tham gia các hoạt
động do ngành và nhà trường tổ chức, cùng tham gia sinh hoạt định kỳ hai
tháng/ lần.
Thông qua câu lạc bộ, các mối quan tâm, nhu cầu, nguyện vọng về giáo

dục đạo đức lối sống, truyền thụ kiến thức cho học sinh giữa phụ huynh với phụ
huynh và phụ huynh với nhà trường cũng thường xuyên được chia sẻ, giúp cả
hai bên thuận lợi hơn trong mọi hoạt động của nhà trường. Sự đồng hành của
phụ huynh sẽ góp phần xây dựng môi trường học tập văn hóa và thân thiện. Phụ
huynh sẽ có trách nhiệm hơn, quan tâm sát hơn đến tình hình thể chất và tâm lý
lứa tuổi học đường, chứ không chỉ là các thành tích học tập. Phụ huynh sẽ hỗ trợ
tối đa việc rèn luyện và phát triển kỹ năng cũng như nhân cách cho học sinh.
(Phụ lục ảnh: 25, 26)
* Giải pháp 6: Đổi mới giờ sinh hoạt lớp.
Để ổn định được nề nếp học sinh trong lớp, trong trường thì giờ sinh hoạt
lớp là vô cùng quan trọng. Bởi đây là một giờ học nhằm uốn nắn học sinh có ý
thức tổ chức kỉ luật trong học tập cũng như việc tuân thủ kỉ luật của trường, lớp.
Đặc biệt là lứa tuổi học sinh tiểu học bắt đầu hình thành nhân cách con người.
Do tâm lý lứa tuổi nên giáo viên chủ nhiệm không thể chỉ dành giờ sinh hoạt lớp


cho việc mắng mỏ, trách phạt học sinh được, nếu làm như vậy giờ sinh hoạt lớp
sẽ thành giờ xử lý vi phạm, hiệu quả đạt được sẽ không cao.
Mặc dù giờ sinh hoạt lớp không phải là một giờ học truyền thụ kiến thức
nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc hình thành cho học sinh thói quen tốt
trong việc thực hiện nội quy của nhà trường và những quy định chung của lớp.
Thông qua các hoạt động bổ trợ trong giờ sinh hoạt lớp còn bồi đắp cho các em
tình yêu thương, lòng nhân ái hay kinh nghiệm học tập, thử tài văn nghệ.
Chính vì vậy tôi xác định giờ sinh hoạt lớp là một hoạt động mang tính
tập thể. Trong đó phát huy tích cực vai trò của Ban cán sự lớp. Qua mỗi giờ sinh
hoạt lớp học sinh đều phải nhận thấy và tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với yêu cầu kỉ luật chung. Đồng thời học sinh cũng cảm thấy phấn trấn
bước vào những buổi học tiếp theo một cách có hiệu quả.
Để giờ sinh hoạt lớp hoạt động có hiệu quả và trở thành món ăn tinh thần
của các em, tôi đã tiến hành hướng dẫn các em tổ chức giờ sinh hoạt lớp qua các

hoạt động sau:
- Hoạt động 1: Lớp trưởng đánh giá hoạt động trong tuần và phương
hướng tuần tiếp tới.
+ Tổng kết đánh giá: về thực hiện nề nếp trong lớp, về học tập, về các
hoạt động khác của lớp trong tuần
+ Phương hướng tuần tới: Dựa vào ba mặt tổng kết, đánh giá.
- Hoạt động 2: Các ý kiến của từng cá nhân học sinh.
Hoạt động này rất quan trọng để giáo viên chủ nhiệm nhận biết được một
cách chính xác qua sự phản ánh của học sinh. Đây là một hoạt động mà học sinh
tự do bày tỏ ý kiến của mình, nêu nhìn nhận của mình trước vấn đề của lớp tuần
qua. Từ đó mà giáo viên chủ nhiệm lựa chọn chắt lọc để có phương pháp giải
quyết vấn đề.
- Hoạt động 3: Tổ chức các hoạt động tập thể để các em phát huy tài năng
của bản thân qua các hoạt động đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch, múa hát, chơi trò
chơi dân gian. Đây là hoạt động mà học sinh hưởng ứng nhiều nhất trong giờ
sinh hoạt lớp.
- Hoạt động 4: Ý kiến của giáo viên chủ nhiệm về những việc các em đã
làm được và những tồn tại cần khắc phục trong tuần. Tuyên dương những học
sinh thực hiện tốt nề nếp, nội quy lớp. Động viên khích lệ những học sinh thực
hiện chưa tốt nề nếp, nội quy lớp.


(Phụ lục ảnh: 27, 28)
4.4. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Những giải pháp nêu trên tôi đã áp dụng thành công tại lớp 1C trường
Tiểu học ........ Và tôi khẳng định rằng những giải pháp đó các bạn đồng nghiệp
của tôi cũng sẽ áp dụng thành công tại các trường Tiểu học trên địa bàn
huyện ....... nói riêng và các trường Tiểu học trong tỉnh Thái Nguyên nói chung.
5. Những thông tin cần được bảo mật: Không có
6. Những điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:

- Xây dựng nội quy lớp học mang tính thân thiện, thực tế, tích cực.
- Trang bị các tài liệu cần thiết cho các bài giảng giáo dục đạo đức lối sống
và kỹ năng sống.
- Làm tốt công tác tuyên truyền trong việc tổ chức các hoạt động trải
nghiệm để giáo dục đạo đức và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm để giáo viên
có điều kiện trao đổi học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
- Phát huy nguồn lực Hội cha mẹ học sinh nhằm hỗ trợ cho công tác giáo dục.
- Tạo điều kiện để đồng nghiệp vận dụng sáng kiến kinh nghiệm “Kinh
nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 1” vào việc giảng dạy và giáo dục học sinh.
7. Đánh giá lợi ích thu được sáng kiến:
7.1 Theo ý kiến tác giả:
Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp: Sau khi áp dụng Sáng
kiến, đã đem lại hiệu quả cao trong công tác chủ nhiệm lớp, mang lại kết quả
thiết thực trong thực tế khi áp dụng. Cụ thể như sau:
* Đối với giáo viên:
- Có thêm kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp.
- Thực hiện có hiệu quả trong công tác giảng dạy
- Nắm vững phương pháp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Khi tổ chức các hoạt động thu hút được sự tham gia của rất nhiều học sinh và
phụ huynh. Giáo viên gần gũi chuyện trò với học sinh hơn, giải quyết hợp lý,
công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Trong


giảng dạy giáo viên đã chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều
hơn. Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự
chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ các em.
- Bản thân giáo viên khi thấy lớp mình đạt được những mục tiêu mà mình
đề ra đó chính là một thành công lớn. Nhìn các em vui khi nhận phần thưởng,
quà tặng; thấy các em hăng hái thi đua học tốt, tích cực hoạt động phong trào tôi

thực sự thấy rạng rỡ, hạnh phúc, thấy vui cùng niềm vui của các em và sự phấn
khởi của phụ huynh học sinh. Đó là thành quả to lớn mà người giáo viên nào
cũng mong muốn đạt được.
* Đối với phụ huynh:
- Phụ huynh học sinh luôn tin tưởng, yên tâm đối với việc giáo dục của giáo
viên. Bên cạnh đó, phụ huynh cũng thường xuyên theo dõi và nắm bắt được việc
học hành, rèn luyện của học sinh và có nhiều sự tích cực hỗ trợ đối với giáo
viên. Tích cực tham gia và đồng hành cùng con em mình trong các hoạt động
của lớp, của trường. Phụ huynh cũng cảm thấy phấn khởi khi thấy con em mình
được giáo viên quan tâm, các em có nhiều tiến bộ, hoàn thiện và trở thành người
con ngoan, học trò tốt, luôn biết nghe lời ông bà, cha mẹ, biết tự phục vụ bản
thân khi ở nhà.
* Đối với học sinh:
- Bằng tất cả sự nỗ lực của bản thân, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Ban
Giám hiệu nhà trường, các đoàn thể và các thầy cô giáo cũng như sự cộng tác nhiệt
tình của các bậc phụ huynh. Tôi đã đạt được kết quả trong học kì I và giữa học kì II
như sau:
- Học sinh biết vâng lời thầy cô, cha mẹ, người lớn tuổi, biết kính trên nhường
dưới. Tập thể học sinh biết thương yêu đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Học sinh biết xác định động cơ học tập, hứng thú học tập, các em có nhiều
tiến bộ rõ rệt trong học tập cũng như rèn luyện năng lực, phẩm chất. Các em thi
đua nhau thực hiện tốt các hoạt động mà giáo viên, nhà trường đề ra.
- Lớp tôi cũng đã đạt được nhiều thành tích trong các mặt học tập, phong
trào nhà trường như sau:
+ Về kết quả học tập cuối học kỳ 1:


Tổng số học sinh: 31 em.
HS khuyết tật không đánh giá: 1 em.
Kết quả các môn học/HĐGD

HTT

HT

CHT

Môn

TSHS

TS

TL

TS

TL

TS

TL

Toán

30

12

40,0


18

60,0

0

0

Tiếng Việt

30

10

33,3

20

66,7

0

0

TNXH

30

13


43,3

17

56,7

0

0

Đạo đức

30

15

50,0

15

50,0

0

0

Âm nhạc

30


14

46,7

16

53,3

0

0

Mĩ thuật

30

13

43,3

17

56,7

0

0

Thủ công


30

17

56,7

13

43,3

0

0

Thể dục

30

16

53,3

14

46,7

0

0


Kết quả về năng lực, phẩm chất

TT

Nội dung đánh giá

Năng
1

2

lực

Phẩm
chất

Tốt

TSHS

Đạt

Cần cố
gắng

SL

TL

SL


TL

SL

TL

TPVTQ

30

17

56,7

13

43,3

0

0

Hợp tác

30

18

60,0


12

40,0

0

0

TH, TGQVĐ

30

18

60,0

12

40,0

0

0

CH, chăm làm

30

18


60,0

12

40,0

0

0

TT,TN

30

20

66,7

10

33,3

0

0

TT, kỉ luật

30


22

73,3

08

26,7

0

0

ĐK, YT

30

25

83,3

05

16,7

0

0

+ Về kết quả học tập giữa học kỳ 2:

Tổng số học sinh: 31 em.
HS khuyết tật không đánh giá: 1 em.
Kết quả các môn học/HĐGD
HTT

HT

CHT


Môn

TSHS

TS

TL

TS

TL

TS

TL

Toán

30


15

50,0

15

50,0

0

0

Tiếng Việt

30

12

40,0

18

60,0

0

0

TNXH


30

17

56,7

13

43,3

0

0

Đạo đức

30

18

60,0

12

40,0

0

0


Âm nhạc

30

16

53,3

14

46,7

0

0

Mĩ thuật

30

17

56,7

13

43,3

0


0

Thủ công

30

19

63,3

11

36,7

0

0

Thể dục

30

18

60,0

12

40,0


0

0

Kết quả về năng lực, phẩm chất
TT

Nội dung đánh giá

Năng
1

2

lực

Phẩm
chất

Tốt

TSHS

Đạt

Cần cố
gắng

SL


TL

SL

TL

SL

TL

TPVTQ

30

21

70,0

09

30,0

0

0

Hợp tác

30


21

70,0

09

30,0

0

0

TH, TGQVĐ

30

20

66,7

10

33,3

0

0

CH, chăm làm


30

20

66,7

10

33,3

0

0

TT,TN

30

21

70,0

09

30,0

0

0


TT, kỉ luật

30

28

93,3

02

6,7

0

0

ĐK, YT

30

29

96,7

01

3,3

0


0

+ Về các phong trào nhà trường:
- Đạt giải Ba “Kể chuyện theo sách” Ngày Hội đọc cấp trường, chào mừng
ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12.
- Đạt lớp Tiên tiến học kỳ I.
- Ủng hộ mua tăm từ thiện: 120.000 đồng đạt 100 %
- Ủng hộ phong trào “Hũ gạo tình thương”: 30kg đạt 100 %
- Phong trào kế hoạch nhỏ (Thu gom được giấy vụn): 30kg đạt 100 %
- Tham gia giao lưu văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11.
- Tham gia ủng hộ người khuyết tật: 90.000 đồng.
- Kết quả Ngày hội văn hóa trường học:


Trang trí lớp học: 17,5 điểm
Vở sạch chữ đẹp: Đạt 24/31bộ = 77,4%; Chưa đạt: 7/31 bộ = 22,6%
Chất lượng 2 môn Toán, Tiếng Việt: Đạt 28/31 = 90,3%; Chưa đạt:
3/31 = 9,7%.
- Tham gia giao lưu văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11.
7.2. Theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến:
Với những giải pháp trong công tác chủ nhiệm của tôi, tôi đã trao đổi, chia
sẻ với các bạn đồng nghiệp trong khối ở những buổi sinh hoạt chuyên môn; Họp
tổ và được các bạn trong tổ khối áp dụng những giải pháp đó trong công tác chủ
nhiệm lớp năm học 2018 - 2019.
Sau đây là ý kiến của đồng nghiệp khi áp dụng thử sáng kiến:
- Ý kiến đồng chí Nguyễn Thị Tỉnh giáo viên chủ nhiệm lớp 1B: Khi áp
dụng sáng kiến 100% học sinh trong lớp được giáo viên tạo mọi điều kiện
khuyến khích phát triển tư duy, trí tưởng tượng, tính năng động, sáng tạo,
học sinh được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường hiệu quả ngày
càng cao.

- Ý kiến đồng chí Nguyễn Thị Viễn giáo viên chủ nhiệm lớp 1A: Học
sinh có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kĩ năng tự lập; kĩ
năng nhận thức; kĩ năng vận động thông qua các hoạt động hàng ngày trong
cuộc sống của học sinh. Không có hiện tượng bạo lực học đường và tuyệt
đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình.
- Ý kiến đồng chí Trần Thị Thúy giáo viên chủ nhiệm lớp 1D: 100%
học sinh được bảo vệ sức khỏe, được tuyên truyền phòng bệnh, được khám
sức khỏe định kỳ. 75% học sinh luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua
kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi kỳ đối với từng học sinh.
- Ý kiến đồng chí Nguyễn Thị Đông giáo viên chủ nhiệm lớp 2A: Học sinh
đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi
đến lớp, biết tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn bè trong cùng một
mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến bộ.
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử sáng kiến:


Stt Họ và tên

NTNS

Đơn vị Chứ Trình độ Nội
dung
công tác c
chuyên
công việc hỗ
danh môn
trợ

01


Nguyễn Thị Tỉnh

23/02/197
4

Trường TH Giáo
.......
viên

CĐSP

Áp dụng thử
sáng kiến

02

Nguyễn Thị Viễn

05/11/1970 Trường TH Giáo
.......
viên

CĐSP

Áp dụng thử
sáng kiến

03

Trần Thị Thúy


07/11/1969 Trường TH Giáo
.......
viên

CĐSP

Áp dụng thử
sáng kiến

04

Nguyễn Thị Đông 16/02/196
8

TCSP

Áp dụng thử
sáng kiến

Trường TH Giáo
.......
viên

Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ý KIẾN XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

......., ngày 10 tháng 4 năm 2019

Người nộp đơn



×