Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

LTĐH Vội vàng-Xuân Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.36 KB, 11 trang )

Ti liu LTH Vn C-D 1
Xuân Diệu
Nhng nột ln v cuc i v s nghip vn hc
Xuân Diệu (1916 - 1985) tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu. Cha ông là thầy đồ xứ Nghệ (quê ở Can
Lộc, Hà Tĩnh) vào Bình Định lấy vợ và sinh ra Xuân Diệu. Cha Đàng Ngoài, mẹ Đàng Trong, Xuân Diệu
đợc thừa hởng sự uyên thâm, cần cù của nhà nho ở ngời cha, là trí thức Tây học, ông đợc hấp thụ những
tinh hoa văn hoá Tây phơng. Vì thế thơ ca Xuân Diệu là sự kết hợp hài hoà hai yếu tố Đông Tây, trong
đó yếu tố Tây học đợc tiếp thu trong nhà trờng chính thức có ảnh hởng đậm hơn. Sau một thời gian làm
công chức ở Mĩ Tho, ông thôi việc ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Vốn là con vợ lẽ nên Xuân Diệu
luôn phải sống trong sự thiếu thốn tình cảm gia đình ấm cúng. Có lẽ đây là một trong những nguyên
nhân để trong thơ Xuân Diệu luôn chứa chan khát khao đợc yêu thơng, đợc đồng cảm. Xuân Diệu là nhà
Thơ mới tiêu biểu, là nhà thơ tình yêu nổi tiếng của văn học Việt Nam. Xuân Diệu đã mang đến cho thơ
ca Việt Nam một tiếng thơ mới mẻ, tràn đầy sức sống và nồng nàn tình yêu với thế giới thiên nhiên.
Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu hăng hái tham gia Cách mạng. Xuân Diệu là một
tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hoá văn
học Việt Nam thế kỉ XX.
V s nghiệp văn học, Xuân Diệu là một tài năng về nhiều mặt: làm thơ, viết văn, phê bình, dịch
thuật. Nhng tên tuổi của ông đợc nhiều ngời biết đến với t cách nhà thơ. Các tác phẩm chính: Thơ thơ
(tập thơ), Gửi hơng cho gió (tập thơ), Phấn thông vàng (Tập truyện ngắn), Trờng ca (tuỳ bút), Tôi giàu
đôi mắt (Tập thơ), nhiều tập phê bình và bút kí có giá trị. Ông để lại cho văn học Việt Nam mời ba tập
thơ, mời sáu tập nghiên cứu, phê bình văn học, năm tập bút kí, sáu tác phẩm dịch thơ nớc ngoài.
Về thơ, Xuân Diệu là nhà thơ tình nổi tiếng của Việt Nam. Thơ ông thể hiện niềm khát khao giao
cảm với đời. Trong thơ Xuân Diệu luôn xuất hiện một cái Tôi cá nhân khao khát khẳng định mình giữa
trời đất, khao khát sống hết mình. Bởi với cặp mắt trẻ trung, yêu đời nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp muôn
màu của cuộc sống. Thơ Xuân Diệu luôn tràn trề tình yêu cuộc sống, đó là một tình yêu mãnh liệt, một
khao khát khôn nguôi. Sau cách mạng, tình yêu cuộc sống ấy hoà cùng tình yêu cách mạng, cái Tôi cá
nhân hoà với cái Ta của cả dân tộc đã làm nên những vần thơ sôi nổi cảm hứng yêu đời, yêu cuộc sống
mới.
Thơ tình của Xuân Diệu thể hiện một tình yêu mãnh liệt, tình yêu không bao giờ hết đòi hỏi, hết
khát khao. Những bài thơ tình yêu là nơi thể hiện mạnh mẽ và tha thiết nhất nỗi khát khao giao cảm với
đời của nhà thơ.


Là một trí thức Tây học, lớn lên và làm thơ trong bầu không khí ma Âu, gió Mĩ, lại là nhà thơ
có tình yêu cuộc sống mãnh liệt, Xuân Diệu bớc vào làng thơ với phong cách rất mới, thậm chí nguời ta
nói ông Tây quá. Thực ra, chất phơng Đông vẫn thấm đợm trong các bài thơ của Xuân Diệu. Cái Tôi
cá nhân rất đậm nét và đầy cá tính, lối diễn đạt hiện đại, cảm xúc thơ chân thành và mạnh mẽ khiến cho
ngời ta cảm thấy ông mới quá, Tây quá. Nhng hồn thơ Xuân Diệu là sự kế thừa mạch ngầm sức sống của
thơ ca Việt Nam từ những thế kỉ trớc. Thơ Xuân Diệu còn thể hiện một quan điểm thẩm mĩ rất mới mẻ:
khi miêu tả thiên nhiên và cuộc sống, Xuân Diệu đã dùng vẻ đẹp của con ngời để làm chuẩn mực. Đây là
điểm mới của Xuân Diệu so với thơ ca trung đại và nó đã mang đến thành công cho sự nghiệp sáng tác
của nhà thơ.
Về văn xuôi, Xuân Diệu thành công với thể văn xuôi trữ tình. Văn Xuân Diệu giàu chất trữ
tình, cảm hứng lãng mạn là chủ đạo. Văn phê bình của Xuân Diệu thể hiện sự cảm nhận tinh tế của
nhà thơ, của ngời sáng tác trong việc đánh giá các tác phẩm văn học. Xuân Diệu là một nhà thơ có vị
trí quan trọng đối với nền văn học Việt Nam.
Nhng nột chớnh trong s nghip th vn .
Xuõn Diu( 1916- 1985) - mt ngh s ln, mt nh vn ln ca dõn tc, ó li cho i mt
s nghip sỏng tỏc tht ln lao v rt cú giỏ tr. Hn nm mi nm lao ng mit mi trong th
gii ngh thut y, con gni v th vn ca Xuõn Diu ó cú s chuyn bin rừ nột t mt nh th
lóng mn thnh nh th cỏch mng. ú l bc chuyn tt yu ca mt tri thc yờu nc, mt ti
1 Lờ Vn Hng Gv THPT Thỏp Mi
Tài liệu LTĐH Văn C-D 2
năng nghệ sĩ. Thơ văn Xuân Diệu có đóng góp lớn vào quá trình phát triển của văn học Việt Nam.
Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của nhà thơ qua thơ và văn xuôi.
Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính, trước và sau Cách mạng
tháng Tám. Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm chính:
tập thơ Thơ thơ(1938) và Gửi hương cho gió (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kì này
là: Niềm say mê ngoại giới, khát khao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (Vội vàng,
Giục giã). Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tooi nhỏ bé giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô
tận (Lời kĩ nữ). Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ này sinh một triết lí về nhân sinh: lẽ sống vội
vàng (Vội vàng). Nỗi khát khao đến cháy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy hương
sắc và thể hiện nỗi đau dớn, xót xa trước káht vọng bị lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời (Dại

khờ, Nước đổ lá khoai).
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi
bé nhỏ đến cái chung của mọi người” (P. Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách
mạng say mê, hăng hái hoạt động và ông đã có thơ ngày trong giai đạon đầu. Xuân Diệu chào
mừng cách mạng với Ngọn quốc kì (1945),và Hội nghị non sông (1946) với tấm lòng tràn đầy hân
hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ ca. Ý
thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, của một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống. Đất
nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết
về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt nam, về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, và
công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu :tập Riêng chung (1960), Hai đợt sóng
(1967), Hồn tôi đôi cánh (1976)...
Từ những năm sáu mươi trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ tình Xuân Diệu lúc này
không vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng mới. Trước cách mạng, tình yêu thơ ông hầu
hết là cuộc tình xa cách, cô đơn, chia li, tan vỡ...Nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai con người
ấy không còn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hoà điệu cùng con người. Tình cảm lứa đôi đã
hoà quyện cùng tình yêu Tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến tình cảm thuỷ chung gắn bó hạnh
phúc sum vầy chứ không phải lẻ loi, cô đơn nữa. (Dấu nằm, Biển, Giọng nói, Đứng chờ em)
Về lĩnh vực văn xuôi có thể nói Xuân Diệu quả là tài tình. Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm sinh
như thế, Xuân Diệu còn rất thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Các tác phẩm chính : Trường ca
(1939) và Phấn thông vàng (1945). Các tác phẩm này đã được Xuân Diệu viết theo bút pháp lãng
mạn nhưng đôi khi ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (Cái hoả lò, Toả nhị Kiều).
Ngoài ra,Xuân Diệu còn rất tài tình trong việc phê bình văn học, dịch thuật thơ nước ngoài.Các
tác phẩm tiêu biểu :Kí sự thăm nước Hung, Triều lên, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Dao có mài
mới sắc.
Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp to lớn với sự nghiệp văn học Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan từng nhận xét: “Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất đến cho thơ ca hiện đại
Việt Nam”.Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể loại và cáci giai
đạon lịch sử của dân tộc. Chính vì thế mà có thể nói rằng Xuân Diệu xứng đáng là một nhà thơ lớn,
một nhà văn hoá lớn.

VỘI VÀNG
2 Lê Văn Hồng Gv THPT Tháp Mười
Tài liệu LTĐH Văn C-D 3
Xuân Diệu
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Xuất xứ : Rút trong tập “Thơ thơ”, tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.
Chủ đề : Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý
trọng và sống hết mình với tuổi trẻ và thời gian.
Véi vµng
3 Lê Văn Hồng Gv THPT Tháp Mười
Ti liu LTH Vn C-D 4
Xuân Diệu
I. Tác giả, tác phẩm
Xuân Diệu là nhà thơ nổi tiếng với những vần thơ luôn dạt dào sự sống và nồng nàn tình yêu đối với
cuộc sống. Vội vàng là bài thơ tiêu biểu nhất cho nét phong cách nổi bật ấy trong thơ Xuân Diệu. Bài thơ
thể hiện một tình yêu cuộc sống tha thiết, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ cha từng
thấy trong thơ ca truyền thống. Tình yêu cuộc sống tha thiết mãnh liệt đã dẫn đến quan niệm sống hết
mình, sống bằng mọi giác quan. Cái cuống quýt vội vàng trong cách sống mà Xuân Diệu thể hiện trong
bài thơ không phải là lối sống vội vàng, hởng thụ cá nhân, mà là sống hết mình.
Tác phẩm đợc rút trong tập Thơ thơ, tập thơ xuất sắc và tiêu biểu nhất cho thơ Xuân Diệu trớc cách
mạng.
II. Giá trị tác phẩm

Có thể hiểu nội dung này theo bố cục hai phần của bài thơ:
+ Phần 1 (30 câu thơ đầu): tập trung luận giải các lý do vì sao phải vội vàng - ở đó chứa đựng một
quan niệm triết học về vũ trụ, nhân sinh mới mẻ cha thấy trong thơ ca truyền thống. Cuộc đời tơi đẹp và
vô hạn, thời gian của con ngời là hữu hạn. Trong đoạn thơ này, nhà thơ đã sáng tạo ra một loạt hình ảnh
thơ sinh động, tơi non. tràn trề sức sống. Qua cảm nhận của nhà thơ, cuộc sống hiện lên thật vô cùng
đáng yêu, thiên nhiên tràn đầy sắc màu và hơng thơm. Vì thế, nhân vật trữ tình khao khát sống, khao
khát giao cảm, khao khát hởng thụ vẻ đẹp muôn màu của sự sống. Đoạn thơ thể hiện một cách tân trong
quan niệm thẩm mĩ của Xuân Diệu. Nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của con ngời làm chuẩn mực đo vẻ đẹp của
thiên nhiên (Tháng giêng ngon nh một cặp môi gần). Quan niệm này là sự khẳng định giá trị của con
ngời.
Trong đoạn thơ này, nhà thơ đã đa ra quan niệm nhân sinh rất mới rất hiện đại. đó là quan niệm về
cuộc sống và cách sống. Cuộc sống tơi đẹp nh thế, và vẻ đẹp đó là vô tận và vĩnh cửu. Còn đời ngời lại
vô cùng ngắn ngủi. Vì thế cần phải biết sống sao cho có thể hởng thụ đợc những gì tốt đẹp nhất mà trời
đất đã ban tặng cho con ngời. Và đó là phải sống hết mình. Không nên hiểu đây là quan niệm sống gấp,
sống thiên về hởng thụ một cách tiêu cực. Quan niệm của Xuân Diệu là một quan điểm đúng đắn và lành
mạnh. Sống sao để tuổi trẻ qua đi, mỗi ngời không còn phải nuối tiếc tuổi trẻ của mình.
+ Phần 2 (đoạn thơ còn lại) là giải pháp sống. Vì cuộc sống vô cùng tơi đẹp nh vậy nên phải sống thật
nhiệt thành, phải hết mình, hoà mình cùng thiên nhiên, cùng cuộc đời thì mới cảm nhận hết ý nghĩa của
sự sống. Sống hết mình là sống bằng tất cả giác quan, phải hoà mình cùng đất trời, cây cỏ và cuộc đời.
Niềm khát khao giao cảm với đời vốn thờng trực trong các bài thơ của Xuân Diệu và ở đoạn thơ này nó
đã đợc thể hiện một cách rất thành công với sự xuất hiện của hàng loạt động từ mạnh nh: ôm, riết, say,
thâu, cắn và các tính từ chuếnh choáng, đã đầy, no nê... Nhịp thơ hối hả nh thúc giục mọi ngời. Nhịp thơ
cuống quýt, vội vàng và luôn tràn đầy xúc cảm ấy thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ.
Quan niệm mới mẻ của nhà thơ thể hiện ở hệ thống hình ảnh thơ mới lạ, nhiều sắc màu và tràn đầy cảm
xúc. Bài thơ là tiếng ca thúc giục mọi ngời, nhất là những ngời trẻ tuổi hãy hết mình với cuộc đời, sống
thật nhiều và thật có ý nghĩa.
Với cảm thức về thời gian vô cùng tinh tế, nhạy cảm, Vội vàng là tiếng nói sôi nổi, hăm hở của
một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt và là tuyên ngôn cho một quan niệm sống, triết lý
sống đợc thể hiện bằng những hình tợng thơ thấm đẫm cảm xúc. Đây là bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ
mãnh liệt của cái Tôi thơ mới nói chung mà lại in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu vừa rất tiêu biểu

cho sự cách tân táo bạo, độc đáo của nghệ thuật thơ ông.
Bỡnh ging bi th Vi vng ca thi s Xuõn Diu.

BI LM
4 Lờ Vn Hng Gv THPT Thỏp Mi
Tài liệu LTĐH Văn C-D 5
… “Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”…
(…)
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn…”
Mỗi lần những dòng thơ trên, nhạc điệu “Vội vàng” cứ ngân vang dào dạt mãi trong
lòng ta, tình yêu đời, yêu sống như tát mãi không bao giờ cạn… Cảm thức về thời gian, về mùa
xuân, về tuổi trẻ… như những lớp sóng vỗ vào tâm hồn ta. “Vội vàng” là bài thơ độc đáo nhất,
“mới nhất” của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập “Thơ Thơ” (1938) – đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc
làm rạng danh một tài thơ thế kỷ.
Bài thơ “Vội vàng” nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng
yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết mình với tuổi
trẻ, với mùa xuân và với thời gian.
Trong “Tiểu dẫn” về bài thơ “Vội vàng” này (Văn 11), giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
viết:
“Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau
những tình cảm ấy, có cả một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.
Thật vậy, thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc .
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa

Chữ “này đây” được 5 lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình
xinh đẹp thật đáng yêu của hoa trên “đồng nội xanh rì”, của lá “cành tơ phơ phất”. “Tuần tháng
mật” của ong bướm. “Khúc tình si” của yến anh. “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”. Vì lẽ đó nên
ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã phải vội vàng “tắt nắng đi” và “buộc gió lại”. Trong cái phi lý có sự
đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó
là lúc “thần vui hằng gõ cửa”. Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, “ngon như một cặp
môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo.
Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đấy là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy sắc
cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi, - cái tuổi
thanh niên bừng sáng, nhưng thi sĩ đã “vội vàng một nửa” cách nói rất thơ - chẳng cần đến tuổi
trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, thơ cổ khong hề có.
Như một tuyên ngôn “vội vàng”:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân’
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ qúa thơ mộng. Đang
tuổi hoa niên mà đã “vội vàng” … Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn
nhiên, mới mẻ.
Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta.
Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã0 vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời
gian một đi không trở lại, Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương phản đối lập để chỉ ra
5 Lê Văn Hồng Gv THPT Tháp Mười

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×