Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Đề cương khóa luận tốt nghiệp đại học Nông Lâm Thái Nguyên 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.13 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

ĐỀ CƯƠNG THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: LÂM NGHIỆP
HỆ: CHÍNH QUY
TÊN ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU CÂY THUỐC VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH KHÁNG
KHUẨN CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY THUỐC TẠI XÃ NẬM PUNG,
HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Thu Hiền
Sinh viên thực tập

: Nguyễn Minh Hiếu

Lớp

: K47ST&BTĐDSH

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2015 - 2019

Thái Nguyên, 2019



PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài
nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân
tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần
Thúy và cộng sự, 2005). Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác
biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng
đồng dân tộc đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức dân gian
về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc chữa bệnh.
Lào Cai là một vùng đất giàu tài nguyên, khí hậu nhiệt đới ẩm, có thảm
thực vật rất đa dạng, phong phú và là nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống
như: Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu, Dao,… Mỗi dân tộc lại mang bản sắc và
kinh nghiệm chữa bệnh bằng thực vật làm thuốc rất đa dạng. Trong đó, cộng
đồng các dân tộc ở xã Yên Ninh - Huyện Phú Lương cũng có nhiều kinh
nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc, Tuy nhiên, hiện nay diện
tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tình trạng khai thác, mua bán diễn ra một cách
phức tạp, dẫn đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Mặt
khác những bài thuốc được cộng đồng các dân tộc sử dụng từ lâu đời trong
việc phòng và trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học của
các bài thuốc chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con đường khoa học.
Vì vậy, để cung cấp các cơ sở khoa học góp phần bảo vệ nguồn gen cây
thuốc, bảo tồn và phát triển các bài thuốc của cộng đồng các dân tộc tại xã
Yên Ninh - Huyện Phú Lương, tôi đề xuất ý tưởng đề tài “Nghiên cứu cây
thuốc và đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã
Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai”.


1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài

- Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng các dân tộc tại xã Nậm Pung, huyện
Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá
trị cao được cộng đồng các dân tộc tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai sử dụng trong phòng và trị bệnh.
- Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam,
hiện có ở khu vực nghiên cứu.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
- Xác định tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng đồng
các dân tộc tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
- Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá
trị cao tại khu vực nghiên cứu.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo
tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của cộng đồng các dân tộc xã Nậm
Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.


PHẦN 2
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới
Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho
mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được
các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên thế giới:
Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri thức
bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa dạng, đã
có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực khác nhau
như: “Nghiên cứu việc sử dụng truyền thống cây thuốc giữa các cộng đồng

của vùng Chhota Bhangal, phía Tây dãy Hymalaya”, theo nghiên cứu của
nhóm tác giả Sanjay Kr Uniyal, KN Singh, Pankaj Jamwal, Brij Lal năm
2006, đã tìm thấy 35 loài thực vật thường được người dân địa phương sử dụng
trong việc chữa các bệnh khác nhau [22]. “Việc sử dụng cây thuốc của các
thầy lang ở Kancheepuram quận Tamil Nadu, Ấn Độ”, của nhóm tác giả
Chellaiah Muthu, Muniappan Ayyanar, Nagappan Raja, Savarimuthu
Ignacimuthu năm 2006, đã tìm thấy 85 loài thực vật thuộc 76 chi và 41 họ để
điều trị các bệnh khác nhau, các cây thuốc đã được ghi nhận chủ yếu được sử
dụng để chữa các bệnh về da, rắn độc cắn, đau bụng và rối loạn thần kinh
[23]. “Cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm dân tộc Yi, ở trung tâm Vân
Nam, Trung Quốc”, của các tác giả Chunlin Long, Sumei Li, Bo Long, Yana
Shi, Benxi Liu năm 2009, đã tìm thấy 116 loài cây thuốc thuộc 58 chi được
người dân địa phương sử dụng trong việc điều trị các bệnh hoặc rối loạn khác
nhau, đặc biệt là những bệnh liên quan đến chấn thương, rối loạn tiêu hóa và
cảm lạnh thông thường [24]. “Cây thuốc được sử dụng bởi người Tây Tạng ở
Shangri-la, Vân Nam, Trung Quốc”, các tác giả Yanchun Liu, Zhiling Dao,


Chunyan Yang, Yitao Liu, Chunlin Dai năm 2009, đã ghi nhận và thu thập 68
loài cây thuốc trong 64 chi thuộc 40 họ được người Tây Tạng sử dụng để
chữa các bệnh khác nhau [25]. “Kiến thức bản địa về cây thuốc được sử dụng
bởi cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận Jhajjar, Haryana, Ấn Độ”,
nhóm tác giả Manju Panghal, Vedpriya Arya, Sanjay Yadav, Sunil Kumar,
Jaya Yadav năm 2010, đã tìm thấy 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được
người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau, theo nghiên cứu này cây
thuốc được cộng đồng Saperas sử dụng nhiều nhất là các cây thuộc họ
Fabaceae [26]. “Đánh giá về các loài cây làm thuốc của tài nguyên thực vật ở
Banda Daud Shah, quận Karak, Pakistan”, các tác giả Waheed Murad,
Azizullah Azizullah, Muhammad Adnan, Akash Tariq, Kalim Khan, Saqib
Waheed, Ashfaq Ahmad năm 2013, đã thống kê được 58 loài thực vật thuộc

52 chi và 34 họ được cộng đồng địa phương sử dụng cho các mục đích khác
nhau, có 40 loài thực vật được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh, trong đó số
lượng các loài được sử dụng nhiều nhất để điều trị các loại bệnh về dạ dày –
ruột, long đờm và hạ sốt [27]. “Thẩm định về thực vật học và các giá trị văn
hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học của Lesser
dãy Hymalaya – Pakistan”, của nhóm tác giả Arshad Abbasi, Mir Khan,
Munir H Shah, Mohammad Shah, Arshad Pervez, Mushtaq Ahmad năm 2013,
đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc 38 chi và 24 họ đã được
người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và tiêu thụ [28]. “Khảo sát
cây thuốc ở đảo Jeju, Hàn Quốc”, theo nghiên cứu của nhóm tác giả Mi-Jang
Song, Kim Hyun, Brian Heldenbrand, Jongwook Jeon, Sanghun Lee năm
2013, đã tìm thấy 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ, 777 cách sử dụng
các loài cây thuốc của người dân bản địa được ghi lại [29]. “Cây thuốc từ
nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan”, của các
tác giả Auemporn Junsongduang, Henrik Balslev, Angkhana Inta, Arunothai
Jampeetong, Prasit Wangpakapattanawong năm 2013, đã chỉ ra 365 loài thực


vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ
Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều nhất [30]. “Đa
dạng và sử dụng cây thuốc dân tộc trong khu vực Swat, Bắc Pakistan”, nhóm
tác giả Naveed Akhtar, Abdur Rashid, Waheed Murad, Erwin Bergmeier năm
2013, đã ghi nhận 106 loài thực vật thuộc 54 họ được người dân bản địa sử
dụng để điều trị bệnh [31]. “Một cuộc khảo sát các cây thuốc được sử dụng
bởi gia tộc Deb Barma của bộ tộc Tripura quận Moulvibazar, Bangladesh”,
theo nghiên cứu của nhóm tác giả Mohammad Kabir, Nur Hasan, Md
Rahman, Md Rahman, Jakia Khan, Nazia Hoque, Md Ruhul Bhuiyan, Sadia
Mou, Rownak Jahan, Mohammed Rahmatullah năm 2014, đã ghi nhận 44 cây
thuốc thuộc 34 họ được các thầy thuốc trong gia tộc sử dụng để điều trị các
bệnh khác nhau như: đau, ho, cảm lạnh, rối loạn tiêu hóa, vết cắt và vết

thương, bệnh tiểu đường, sốt rét, bệnh về tim và tê liệt [32]. “Nghiên cứu về
thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản
địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin”, của hai tác giả Homervergel G.
Ong, Young-Dong Kim năm 2014, đã tìm thấy 142 loài cây dược liệu thuộc
55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh [33]. “Thực vật dân tộc của cây thuốc
ở quận Mastung của tỉnh Balochistan, Pakistan”, các tác giả Tahira Bibia,
Mushtaq Ahmada, Rsool Bakhsh Tareenc, Niaz Mohammad Tareenc,
Rukhsana Jabeenb, Saeed-Ur Rehmanc, Shazia Sultanaa, Muhammad Zafara,
Ghulam Yaseena năm 2014, đã chỉ ra 102 loài thực vật thuộc 47 họ được
người dân sử dụng cho mục đích điều trị các loại bệnh khác nhau [34]. “Điều
tra và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc được sử dụng bởi
các cư dân tại Vườn quốc gia Gayasan, Hàn Quốc”, nhóm tác giả Mi-Jang
Song, Hyun Kim, Byoung-Yoon Lee, Heldenbrand Brian, Chan-Ho Park,
Chang-Woo Hyun năm 2014, đã điều tra và thống kê 200 loài thực vật thuộc
168 chi và 87 họ được các cư dân sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau
như: rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết cắt


vết thương [35]. “Cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở
quận Makawanpur của trung tâm Nepal”, theo nghiên cứu của nhóm tác giả
Dol Luitel, Maan B Rokaya, Binu Timsina, Zuzana Münzbergová năm 2014,
đã tìm thấy 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử
dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau [36].
Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri thức dân gian
bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép lại và thông qua
truyền miệng qua nhiều thế kỉ [37]. Những năm gần đây, đã có nhiều công
trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để điều trị các
loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện: “Một nghiên cứu về thực vật
học của cây thuốc trong công viên tự nhiên của Serra de Saox Mamede, Bồ
Đào Nha”, các tác giả Joana Cameja – Rodrigues, Lia Ascensaox, M Angels

Bonet, Joan Valles năm 2004, đã cung cấp thông tin của 165 loài thực vật
được sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [38]. “Ghi chép về thực vật học
và một số công dụng của cây thuốc trong khu vực Alto Tirreno Cosentino,
Calabria, miền nam nước Ý”, của hai tác giả Maria Leporatti, Massimo
Impieri năm 2007, đã chỉ ra 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử
dụng để điều trị các loại bệnh chủ yếu như: bệnh ngoài da, bệnh về đường hô
hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp [39].“Thực vật dân tộc của khu vực
Alt Empordaf, Catalonia, bán đảo Iberia”, theo nghiên cứu của nhóm tác giả
Montse Parada, Esperanca Carrios, Maria Bonet, Joan Valles năm 2009, đã
tìm thấy trên 518 loài thực vật thuộc 335 chi và 80 họ được người dân sử
dụng để điều trị các bệnh khác nhau [40]. “Phân tích so sánh các cây thuốc
được sử dụng trong y học cổ truyền tại Ý và Tunisia”, theo nghiên cứu của hai
tác giả Maria Leporatti, Kamel Gheddira năm 2009, đã ghi nhận 153 loài thực
vật thuộc 60 họ được người dân sử dụng trong việc điều trị các bệnh khác
nhau [41]. “Khảo sát cây thuốc ở Maden, Elazig, Thổ Nhĩ Kỳ”, nhóm tác giả
Ugur Cakilcioglu, Selima Khatun, Ismail Turkoglu, Sukru Hayta năm 2011,


đã tìm thấy 88 loài thực vật thuộc 41 họ được sử dụng cho mục đích điều trị
bệnh [42]. “Kiến thức truyền thống của cây thuốc trong công viên tự nhiên
Serra de Mariola, Đông Nam Tây Ban Nha”, các tác giả Belda, B Zaragozi,
Je Martinez, E Seva năm 2012, đã ghi nhận 93 loài thực vật được người dân
địa phương sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [43]. “Các loài thực vật
được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo”, Theo nghiên
cứu của nhóm tác giả Behxhet Mustafa, Avni Hajdari, Feriz Krasniqi, Esat
Hoxha, Hatixhe Ademi, Cassandra L Quave và Andrea Pieroni năm 2012, đã
ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các
loại bệnh khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc
các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae [44].“Một nghiên cứu về các loài
cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương của Alasehir, Manisa, ở

Thổ Nhĩ Kỳ”, của các tác giả Seyid Ahmet Sargin, Ekrem Akcicek, Selami
Selvi năm 2013, đã thu thập được 137 loài thực vật được người dân bản địa sử
dụng để điều trị các bệnh khác nhau [45].“Cây dược liệu truyền thống được
sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque (Biscay và Aluva), bán đảo Iberia”,
nhóm tác giả Gorka Menedez-Baceta, Laura Aceituno-Mata, Maria Moline,
Victoria Reyes-Garcia, Javier Tardio, Manuel Pardo-de-Santayana năm 2014,
đã chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều trị
bệnh, trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae [46].
“Sử dụng cây thuốc trong khu vực Đông Nam của Vườn Partenio, Khu vực
Campania, miền Nam nước Ý”, theo nghiên cứu của hai tác giả Bruno
Menale, Rosa Mucio năm 2014, đã tìm thấy 87 loài thực vật thuộc 76 chi và
35 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau cho cả người và
động vật [47].
Châu Mĩ, nhiều nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản
địa cũng được thực hiện: “Sử dụng cây thuốc cổ truyền ở miền Bắc Peru:
theo dõi hai ngàn năm của nền văn hóa lành”, của hai tác giả Rainer W


Bussmann, Douglas Sharon năm 2006, đã ghi nhận 510 loài thực vật được
người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh, các cây thuộc các họ được sử
dụng nhiều nhất là: Asteraceae, Fabaceae, Lamiaceae, Solanaceae,
Euphorbiaceae và Poaceae [48]. “Cây thuốc phổ biến được sử dụng trong các
khu vực Xingó – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil”, theo nghiên cứu
của nhóm tác giả Cecilia Almeida, Elba de Amorim, Ulysses de Albuquerque,
Maria Maia năm 2006, đã tìm thấy 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ
được người dân sử dụng để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm
phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần [49]. “Sử dụng cây
thuốc cổ truyền tại tỉnh Loja, Nam Ecuador”, hai tác giả Rainer W
Bussmann, Douglas Sharo nnăm 2006, đã ghi nhận 215 loài thực vật được
người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh [50]. “Sử dụng cây thuốc của

người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba”, các tác giả
Gabriele Volpato, Daimy Godínez, Angela Beyra, Adelaida Barreto năm 2009,
đã chỉ ra 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti
sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [51]. “Cây thuốc của cộng đồng
Asháninka: một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki,
Junín, Peru”, nhóm tác giả Gaia Luziatelli, Marten Sørensen, Ida Theilade,
Per Molgaard năm 2010, đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử
dụng để điều trị các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ
yếu thuộc các họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae,
Solanaceae và Piperaceae [52]. “Truyền thống sử dụng cây thuốc trong rừng
phương Bắc của Canada” theo nghiên cứu của nhóm tác giả Yadav Uprety,
Hugo Asselin, Archana Dhakal, Nancy Julien năm 2012, đã điều tra và thống
kê 546 loài cây thuốc được sử dụng bởi những người thổ dân của rừng
phương bắc Canada, các loại cây thuốc này được sử dụng để điều trị 28 bệnh
và triệu chứng rối loạn khác nhau, trong đó các cây thuốc được sử dụng để
chữa bệnh rối loạn dạ dày – ruột, rối loạn cơ xương là chủ yếu [53]. “Nghiên


cứu về các loài thực vật làm thuốc được sử dụng bởi các cư dân làng Genoy,
Pasto, Colombia”, của các tác giả Andrés Felipe Angulo C., Ricardo Andrés
Rosero R., Martha Sofía González Insuasti năm 2012, đã ghi nhận 63 loài
thực vật thuộc 31 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau,
trong đó các họ được sử dụng chủ yếu thuộc các họ: Lamiaceae và Asteraceae
[54]. “Cây thuốc của khu vực Carraso, Đông Bắc Brazil”, nhóm tác giả
Renata Kelly Dias Souzaa, Maria Arlene Pessoa da Silvab, Irwin Rose de
Alencar Menezesc, Daiany Alves Ribeiroa, Leilson Rocha Bezerrad, Marta
Maria de Almeida Souzaa năm 2014, đã tìm thấy 32 loài thực vật thuộc 29 chi
và 20 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau
[55]. “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León. Mexico”, theo
nghiên cứu của nhóm tác giả Eduardo Estrada-Castillón, Miriam GarzaLópez, José Villarreal-Quintanilla, María Salinas-Rodríguez, Brianda SotoMata, Humberto González-Rodríguez, Dino González-Uribe, Israel CantúSilva, Artemio Carrillo-Parra, César Cantú-Ayala năm 2014, đã ghi nhận 252

loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được người dân Rayones sử dụng để điều
trị các bệnh, trong đó các họ được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và
Fabaceae [56]. “Cây thuốc trong bối cảnh văn hóa của một cộng đồng
Mapuche – Tehuelche trong thảo nguyên Datagonia Argentina”, hai tác giả
Soledad Molares, Ana Ladio năm 2014, đã chỉ ra 121 loài thực vật được cộng
đồng sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến tiêu hóa, hô hấp, tim mạch,
giảm đau, chống viêm, sản khoa, phụ khoa và sinh dục [57].
Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay
để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng
cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú
[58]: “Thực vật dân tộc của Samburu của Mt. Nyiru, Nam Turkana, ở
Kenya”, của tác giả Rainer W Bussmann năm 2006, đã thống kê được 448
loài thực vật mà người dân bản địa sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau


[59]. “Nghiên cứu về thực vật học của cây thuốc được sử dụng bởi người dân
ở Zegie Peninsula, Tây Bắc Ethiopia”, theo nghiên cứu của hai tác giả
Tilahun Teklehaymanot, Mirutse Giday năm 2007, đã ghi nhận 67 loài cây
thuốc thuộc 64 chi và 42 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh liên
quan đến rối loạn tiên hóa, kí sinh trùng và nhiễm trùng [60].“Kiến thức cây
thuốc của dân tộc Bench ở Ethiopia”, theo nghiên cứu của hai tác giả Woldu
và Tilahun Teklehaymanot năm 2009, đã tìm thấy 35 loài thực vật được sử
dụng để làm thuốc, trong đó 32 loài được sử dụng để điều trị các bệnh cho
người và 3 loài được sử dụng để điều trị các bệnh cho cả người và gia súc
[61].“Một cuộc khảo sát về các loài thực vật được sử dụng làm thuốc trong
Babungo, khu vực Tây Bắc, Cameroon”, của tác giả David J Simbo năm
2010, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được
người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử dụng
chủ yếu là họ Asteraceae [62].“Khảo sát về cây thuốc và gia vị được sử dụng
trong Beni-Sueif, Bắc Ai Cập”, theo nghiên cứu của hai tác giả Sameh F

AbouZid, Abdelhalim Mohamed năm 2011, đã ghi nhận 48 loài thực vật thuộc
47 chi và 27 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh liên quan đến
tim mạch, tiêu hóa và hô hấp [63]. “Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức
bản địa về sử dụng cây thuốc của các thầy lang trong khu vực Oshikoto,
Namibia”, nhóm tác giả Ahmad Cheikhyoussef, Martin Shapi, Kenneth
Matengu và Hina Mu Ashekele năm 2011, đã tìm thấy 61 loài cây thuốc thuộc
25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các bệnh khác
nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn và các vấn
đề tim mạch [64]. “Cây thuốc của Otwal và Ngãi ở quận Oyam, Bắc
Uganda”, các tác giả Maud M Kamatenesi, Annabel Acipa, Hannington
Oryem-Origa năm 2011, đã chỉ ra 71 loài thực vật thuộc 41 họ được người
dân địa phương sử dụng để điều trị các loại bệnh khác nhau, trong đó họ được
sử dụng chủ yếu là họ Asteraceae [65]. “Cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ


từ rừng ven biển Agnalazaha,Đông Nam Madagascar”, các tác giả Mendrika
Razafindraibe,

Alyse

R

Kuhlman,

Harison

Rabarison,

Vonjison


Rakotoarimanana, Charlotte Rajeriarison, Nivo Rakotoarivelo, Tabita
Randrianarivony,

Fortunat

Rakotoarivony,

Reza

Ludovic,

Armand

Randrianasolo, Rainer W Bussmann năm 2013, đã điều tra và thống kê 152
loài cây thuốc được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh,
trong đó ghi nhận 8 loài được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các
biến chứng trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các
bệnh liên quan đến tình dục như bệnh lậu và giang mai [66].“Một nghiên cứu
về cây thuốc được sử dụng bởi Cộng đồng Marakwet ở Kenya”, theo nghiên
cứu của nhóm tác giả Wilson Kipkore, Bernard Wanjohi, Hillary Rono,
Gabriel Kigen năm 2014, đã tìm thấy 111 loài cây làm thuốc được người dân
sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau [67]. “Sử dụng và quản lý cây thuốc
truyền thống của cộng đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”,
nhóm tác giả Berhane Kidane, Tinde van Andel, Laurentius Josephus
Gerardus van der Maesen và Ze năm 2014, đã ghi nhận 128 loài cây thuốc
thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để điều
trị các loại bệnh khác nhau [68]. “Cây thuốc được sử dụng trong y học cổ
truyền bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia”, của tác
giả Balcha Abera năm 2014, đã điều tra và thống kê 49 loài cây thuốc thuộc
31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều trị các loại bệnh khác

nhau [69].
Những nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc bản địa được thực hiện ở
châu Úc còn rất ít; “Một nghiên cứu về các loài cây thuốc được sử dụng bởi
cộng đồng thổ dân Yaegl ở miền bắc New South Wales, Australia”, theo
nghiên cứu của nhóm tác giả Joanne Packera, Nynke Brouwera, David
Harringtona, Jitendra Gaikwada, Ronald Heronb, Shoba Ranganathana,


Subramanyam Vemulpada, Joanne Jamiea năm 2012, đã ghi nhận 32 loài cây
thuốc thuộc 21 họ được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị các bệnh [70].
Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc đã để lại những
công trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn tri thức dân
gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa dạng và phong
phú.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những
thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe
của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210
TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau:
“Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có
nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ
sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện
đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc
Bắc, thuốc Tây , mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị,… phải coi trọng
dược liệu như cây công nghiệp cao cấp” [1].
Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước
ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và
phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách
“Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên
soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập.

Trong đó, ông đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam
[12]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và trrong những năm từ
1962 – 1965, ông cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”
gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách này của ông đã đề cập
đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Ông đã
kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các công trình


nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản nhiều lần và các năm 1970,
1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001, 2003. Lần tái bản thứ 7 (1995) số cây
thuốc của ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là lần tái bản lần
thứ 13 (2005). Bộ sách của ông đã mang lại giá trị khoa học và giá trị thực
tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ngày càng có nhiều công
trình nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc Việt Nam. Năm 1976, để phục vụ
cho công tác giảng dạy và nghiên cứu cây thuốc, dược sĩ Vũ Văn Chuyên đã
cho ra đời cuốn sách “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc” [11]. Năm 1980,
Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương đã giới thiệu “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”
giới thiệu 519 loài cây thuốc, trong đó có 150 loài mới được phát hiện [11].
Viện dược liệu đã cho xuất bản cuốn “Dược điển Việt Nam” tập I, II đã tổng
kết các công trình nghiên cứu về cây thuốc trong nhiều năm, cuốn “Danh lục
cây thuốc miền Bắc Việt Nam”; “Danh lục cây thuốc Việt Nam”; “Atlas –
Bản đồ cây thuốc”, đã thống kê và công bố một danh sách về cây thuốc từ
năm 1961 – 1972 ở miền Bắc là 1.114 loài, từ năm 1977 – 1985 ở miền Nam
là 1.119 loài [11]. Theo kết luận của Viện Dược liệu, trong quá trình thu thập
và nghiên cứu về cây thuốc cho thấy, các cây thuốc hiện nay ở Việt Nam biết
đến chủ yếu được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian và trong số trên 2000
loài và dưới loài cây thuốc có tới gần 90% cây thuốc là các cây mọc tự nhiên
và được phân bố chủ yếu trong các quần thể rừng với trữ lượng lớn, khoảng
10% là cây thuốc được đem về trồng ngay tại nhà [10].

Trong những năm này, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã
được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt Nam” (1993)
của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc [15]; Trần Đình Lý với cuốn
“1900 loài cây có ích” (1995), đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho
nhựa thơm, 260 loài cho dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 loài tre nứa, 40 loài
song mây [11].


Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với cuốn: “Cây thuốc
Việt Nam” (1995) đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ [10].
Võ Văn Chi là một nhà thực vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều
trong quá trình nghiên cứu về các loài thực vật ở Việt Nam và ông đã biên
soạn cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó ông mô tả rất tỷ mỷ về các
cây được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (1996) [9]. Ngoài
ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây cỏ có
ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc [9].
Trong những năm từ 2000 đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu
về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm
tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia
truyền” của Âu Anh Khâm [6]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương thang
chữa bệnh” (2001) [7] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên khoa” (2006) [8] của
Tào Duy Cần; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược” (2006) [9]; “Cây có vị
thuốc ở Việt Nam” do Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp [14]; “Cây
thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cộng sự (2000) đề cập tới
327 cây thuốc phổ biến [13],… Đồng thời, có nhiều công trình nghiên cứu về
cây thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng
Quang Châu (2001) đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái
ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác
nhau [3]. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003) khi điều tra các loài cây
của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7

chi, 42 họ [4]. Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh:
bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương… Lưu
Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004) khi điều tra các loài cây có
ích của dân tộc H’mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm
theo công dụng: cây lương thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây
để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm này cây làm thuốc,các tác giả đã


thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H’mông sử dụng làm thuốc
chữa bệnh cho người và gia súc [5]. Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thỉnh
(2004) đã xây dựng các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa,
như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52
loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt
chủng.
Trong Hội thảo tổng kết 12 năm thực hiện dự án Bảo tồn nguồn cây
thuốc cổ truyền tại huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế [72], do Viện
Dược liệu tổ chức (10/04/2010) tổng kết về các loài cây thuốc và bài thuốc
của cộng đồng dân tộc ở nhiều vùng trên cả nước; người Dao (khu vực Vườn
Quốc gia Ba Vì): 579 loài và 125 bài thuốc; người Mường (Cẩm Liên, Cẩm
Thủy, Thanh Hóa): 136 loài và 102 bài thuốc; người H’mông (Kỳ Sơn, Nghệ
An): 206 loài và 32 bài thuốc; người Tày (Vị Xuyên, Hà Giang): 292 loài;
người Tày – Nùng (Tràng Định, Lạng Sơn):126 loài và 51 bài thuốc; bản
Mường (xã Vĩnh Lạc, Lục Yên, Yên Bái): 40 loài và 40 bài thuốc; 85 bài
thuốc của cộng đồng người Dao; 72 bài thuốc của cộng đồng người H’mông;
16 bài thuốc của cộng đồng người Thái và Khơ Mú; 11 bài thuốc của cộng
đồng Bru – Vân Kiều,…
Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 (21/10/2011) và Hội nghị
Khoa học toàn quốc lần thứ 5 được tổ chức (18/10/2013) tại Hà Nội, đã có
nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài cây
thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam được công bố

như: “Một số kết quả điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc tại xã San Sả Hồ,
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai” của Nguyễn Thị Minh Hải, Đinh Khánh Quỳnh,
Đỗ Thị Xuyến đã ghi nhận 321 loài thuộc 252 chi , 94 họ thuộc 6 ngành thực
vật; trong đó có tới 16 loài cây thuộc diện cần được bảo vệ và 9 loài cây đang
bị khai thác mạnh ở xã San Sả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai [16]. “Các loài
thực vật được đồng bào dân tộc H’mông tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng


Liên – Văn Bàn sử dụng làm thuốc trị bệnh gan” của tác giả Trần Văn Hải,
Trần Minh Hợi, Đỗ Thị Xuyến đã xác định được 31 loài thực vật được đồng
bào dân tộc H’mông tại Khu bảo tồn thiên nhiên Văn Bàn sử dụng làm thuốc
chữa các bệnh về gan (viêm gan, bổ gan, giải độc gan và sơ gan) [16].
“Các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên
nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ
Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến đã chỉ ra 65 loài thực vật được đồng bào dân tộc
Mường sử dụng làm thuốc chữa bệnh về thận [16]. “Đánh giá đa dạng nguồn
gen cây thuốc của người Sán Chí ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Phượng, Đinh
Thị Lan Hương đã xác định được 90 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 82
chi, 50 họ thực vật của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân
tộc Sán Chí ở xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên dùng làm
thuốc [16]. “Những cây thuốc được sử dụng thay thế mật gấu theo kinh
nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả
Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận đã thu được 35 loài thuộc 27 chi,
21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử dụng làm thuốc chữa bệnh thay
thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái Nguyên [16]. “Điều tra các loài cây
thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh
Đồng Tháp” hai tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã đã điều tra và thống
kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90 họ tại các xã của
huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp [16]. “Nghiên cứu thực vật có giá trị làm

thuốc của dân tộc Thái trong Khu bảo tồn Pù Luông – Thanh Hóa” của nhóm
tác giả Đậu Bá Thìn, Nguyễn Nghĩa Thìn, Phạm Hồng Ban đã điều tra, thu
thập và phân loại được 226 loài cây có giá trị làm thuốc của đồng bào dân tộc
Thái [16].
“Cây thuốc truyền thống của đồng bào dân tộc Thái ở hai huyện Quỳ
Hợp và Quế Phong, miền núi tỉnh Nghệ An” của hai tác giả Phạm Hồng Ban,


Nguyễn Thượng Hải đã xác định được 287 loài thuộc 204 chi, 87 họ của 4
ngành thực vật bậc cao được đồng bào dân tộc Thái sử dụng làm thuốc 17].
“Tri thức sử dụng các loài cây thuốc của công đồng dân tộc Cơ Tu và Vân
Kiều tại vùng đệm Vườn Quốc gia Bạch Mã” của tác giả Ninh Khắc Bản và
cộng sự, qua điều tra đã ghi nhận được 249 loài cây thuốc thuộc 82 họ, 178
chi được người Cơ Tu sử dụng, người Vân Kiều với 27 loài cây thuốc thuộc
21 họ [17]. “Đa dạng cây thuốc được đồng bào dân tộc Thái sử dụng chữa
bệnh dạ dày tại huyện Quế Phong thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt
tỉnh Nghệ An” của nhóm tác giả Nguyễn Thượng Hải, Phạm Hồng Ban, Đào
Thị Minh Châu đã thu thập được 18 loài thực vật thuộc 15 họ khác nhau được
đồng bào dân tộc Thái sử dụng để chữa bệnh dạ dày [17]. “Kinh nghiệm sử
dụng cây thuốc của dân tộc M’nông tỉnh Đắk Lắk” các tác giả Nguyễn
Phương Hạnh, Lưu Đàm Cư đã điều tra được 244 loài thực vật được đồng bào
M’nông sử dụng làm thuốc thuộc 84 họ và 179 chi [17]. “Điều tra cây thuốc
và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc Sán Chí tại xã Phú
Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương,
Đào Thị Thúy Hằng, kết quả điều tra thu được 115 loài thực vật bậc cao có
mạch có công dụng làm thuốc thuộc 98 chi, 61 họ của đồng bào dân tộc Sán
Chí [17]. “Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc tại tỉnh
Gia Lai” của nhóm tác giả Bùi Văn Hướng, Nguyễn Văn Dư, Hà Tuấn Anh,
Trần Huy Thái, Trần Minh Hợi đã xác định được 145 loài thực vật được sử
dụng làm thuốc thuộc 112 chi và 61 họ [17].

Việc phát triển và bảo tồn dược liệu là mục tiêu phấn đấu của ngành y tế
nước ta. Vì vậy nhà nước đã triển khai thành công nhiều dự án. Trong đó, ba
dự án bảo tồn và phát triển cây thuốc “Dự án bảo tồn cây thuốc tại Vườn
Quốc gia Ba Vì”, do Australia tài trợ, đa phần giúp cho cộng đồng địa phương
bảo vệ, quản lý vững chắc một số loài dược thảo truyền thống. Đã thống kê
các loài cây thuốc chữa bệnh theo truyền thống, xác định các cây thuốc có


tầm quan trọng nhất đối với địa phương về tập quán sử dụng và giá trị kinh tế.
“Bảo tồn nguồn gen cây thuốc Nam” tại xã Bình Dương (huyện Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Phúc) được tiến hành năm 1999 do Quỹ Môi Trường toàn cầu tài
trợ, đã hoàn thành sau 2 năm [72]. “Bảo tồn cây thuốc xã Bắc Lãng, huyện
Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn”, do Trung tâm tư vấn quản lý bền vững tài nguyên
và phát triển văn hóa cộng đồng Đông Nam Á (CIRUM) phối hợp với cấp ủy,
chính quyền và các đoàn thể tổ chức tập hợp các lang y, bà mế hình thành Chi
hội Đông y của xã Bắc Lãng, nhằm tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ rừng
tới từng hộ dân, đồng thời cùng với bà con bàn bạc thảo luận và thông qua
quy chế bảo vệ rừng, bảo tồn thuốc nam phục vụ cho việc sử dụng bền vững
và chăm sóc sức khỏe cho người dân địa phương [74].
Như vậy, việc điều tra và thống kê các loài cây thuốc, các bài thuốc
không những mang lại những giá trị khoa học, giá trị thực tiễn sâu sắc mà còn
đóng góp và công tác bảo tồn nguồn dược liệu nước nhà, bảo tồn những bài
thuốc hay. Nhằm góp phần, bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.


PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các loài thực vật được cộng đồng các dân tộc

tại xã Nậm Pung sử dụng làm chuốc chữa bệnh; kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc của cộng đồng các dân tộc tại xã Nậm Pung.
- Địa điểm nghiên cứu:
+ Công tác điều tra thực địa được tiến hành ở xã Nậm Pung, huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai.
+ Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính kháng khuẩn) được tiến
hành tại phòng thí nghiệm Khoa Công nghệ sinh học - Trường Đại học Khoa
học Thái Nguyên.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 5/2019.
3.2. Nội dung nghiên cứu
* Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong các
cộng đồng dân tộc tại xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai:
- Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa
dạng bậc họ; đa dạng bậc chi.
- Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc.
- Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc.
- Đánh giá về tình hình sử dụng cây thuốc của cộng đồng các dân tộc ở
khu vực nghiên cứu: (i) đa dạng về bộ phận sử dụng; (ii) đa dạng về cách chế
biến cây thuốc; (iii) đa dạng về công dụng chữa bệnh của các loài cây thuốc.
* Xác định những cây thuốc quý thuộc diện cần bảo tồn: đánh giá mức
độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu.


* Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc có giá trị
cao được cộng đồng các dân tộc tại khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng
và chữa trị bệnh.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện tại 02 thôn thuộc xã Nậm Pung, huyện Bát Xát, tỉnh
Lào Cai. Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách
thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau:

* Phương pháp điều tra thực địa
- Điều tra phỏng vấn thu thập cây thuốc: tại khu vực nghiên cứu, phỏng
vấn người dân đặc biệt là các ông lang, bà mế của cộng đồng các dân tộc và
những người dân có kinh nghiệm về sử dụng cây thuốc, các bài thuốc gia
truyền của cộng đồng các dân tộc ở khu vực nghiên cứu dựa theo: phiếu điều
tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc gian dân (Viện
Dược liệu, Bộ Y tế). Thu thập đầy đủ các thông tin cây thuốc gồm: tên phổ
thông, tên dân tộc Sán Dìu; số hiệu mẫu/ảnh cây thuốc; dạng sống; môi
trường sống; bộ phận sử dụng làm thuốc bao gồm: thân, rễ, hoa, quả, hạt;
cách sử dụng (dùng tươi hay khô); công dụng. Đồng thời ghi chép những đặc
điểm dễ nhận biết của cây ngoài thiên nhiên, ghi rõ thời gian, địa điểm và
người thu thập thông tin.
- Định danh tên cây: định danh loài cây theo các bước: (i) định danh tại
thực địa; (ii) sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia và nguồn tài
liệu tin cậy đã công bố giám định lại.
+ Bước 1: xác định sơ bộ tên địa phương, tên thường gọi được thực
hiện ngay ở lần điều tra đầu tiên. Đối với những loài chưa chắc chắn thì ghi
chú để kiểm định lại ở bước sau. Các loài không biết tên cần phải lấy mẫu (lá,
hoa, quả,...) và ghi vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2,... để giám định.
+ Bước 2: tất cả các cây được thẩm định lại tên cây, lập danh mục cây
thuốc bằng sử dụng kiến thức kinh nghiệm của các chuyên gia về thực vật và


nguồn tài liệu tin cậy đã công bố gồm: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ,
2000) [13], Từ điển Cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi 2012) [2], Những cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2005) [18], Danh lục các loài thực
vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện
ST&TNSV, 2001 – 2005) [19]. Danh sách tên cây thuốc sẽ được hoàn thiện ở
bước này.
Bảng điều tra cây thuốc của đồng bào các dân tộc tại khu vực nghiên cứu


TT

(1)

Thời gian điều tra:

Người điều tra:

Địa điểm điều tra:

Địa chỉ điều tra:

Tên Tên địa Số Dạng
phổ phương hiệu cây
thông
mẫu
/ảnh
(2)
…….

(3)
……..

(4)
….

Môi
trườn
g sống


Bộ
phận
sử
dụng

Cách
sử
dụng

Công
dụng

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

…..

…….

……

…..


…..

Cán bộ được
phỏng vấn
Họ
tên

Địa
chỉ

Điện
thoại

(10)

(11)

(12)

…..

….

…..

* Phương pháp thu thập mẫu
- Phương pháp thu mẫu: tiến hành thu mẫu ở thực địa theo nguyên tắc
và phương pháp thu mẫu của Nguyễn Nghĩa Thìn (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997,
2007) [20], [21].

- Dụng cụ thu mẫu: bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt
cây, giấy báo, giây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép, máy ảnh (Nguyễn
Nghĩa Thìn, 1997) [20].
- Nguyên tắc thu mẫu: mỗi cây thuốc thu từ 3 – 10 mẫu và được gắn
nhãn ghi rõ các thông tin về kí hiệu mẫu, thời gian, địa điểm và người thu
mẫu (các mẫu cùng cây đánh số cùng một số hiệu mẫu). Mẫu thu thập sẽ được
xử lý theo phương pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) như sau:


+ Bước 1: sau mỗi ngày thu mẫu, mẫu vật sẽ được mang về nơi ở, xếp
mẫu ngay ngắn vào một tờ báo cỡ 28 x 42 cm, để mẫu ở trạng thái tự nhiên,
có lá sấp – lá ngửa, vuốt cho thẳng mẫu và đeo etyket cho mẫu.
+ Bước 2: xếp khoảng 15 – 20 mẫu thành một chồng, dùng dây dứa buộc
lại.
+ Bước 3: cho mẫu vào túi nilon và tẩm cồn cho chồng mẫu để bảo quản.

Hình 01: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài
* Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc
Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của cộng đồng
các dân tộc tại khu vực nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp đánh giá của
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997):
- Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài.
- Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi.
- Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối.
- Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt,
nhựa, cả cây.
- Đa dạng về cách chế biến cây thuốc: khô và tươi.


- Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan,

giải độc, xương,…
* Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp
Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây
thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần
thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007), Nghị định 32/2006/NĐ-CP (Chính phủ
nước Việt Nam, 2006), Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang
cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007).
* Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn
- Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu.
Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo
nước sau đó đem sấy khô ở 900C đến khối lượng không đổi.
- Nguyên liệu sau khi sấy khô được nghiền trong máy xay đa năng loại
nhỏ thành bột dạng mịn, bảo quản nơi khô ráo để sử dụng trong các nghiên
cứu tiếp theo.
- Bước 2: Tạo cao chiết
Nguyên liệu được tách chiết theo phương pháp ngâm nóng. Nguyên
liệu dạng bột khô được đem đi chiết với tỷ lệ 20g/100ml bằng dung môi
methanol, sau đó cho vào máy lắc với tần số 200 vòng/phút (để các chất có
hoạt tính sinh học tan đều trong dung môi) ở các điều kiện thời gian khác
nhau (24h, 48h, 72h), sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc, 80ml dịch lọc được
đem đi cô đặc bằng máy cô quay (hoặc sấy khô) đến khi có khối lượng khô
không đổi và được bảo quản ở 4 0C để sử dụng trong các nghiên cứu về khả
năng kháng khuẩn.


- Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn
Sử dụng 4 chủng vi khuẩn gồm 2 chủng gram dương là S.a
(Staphylococcus aureus), B.s (Bacillus subtilis); và 2 chủng gram âm là P.a
(Pseudomonas aeruginosa), E.coli (Escherichia coli), lấy từ phòng thí nghiệm
Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên. Bảo quản giống trên môi

trường thạch nghiêng: vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB, sau đó
được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng, nuôi 24 giờ ở 370C, giữ
trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. Cấy chuyển giữ giống
trên thạch nghiêng định kỳ 2 tuần một lần.
- Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn
Kiểm tra khả năng kháng khuẩn của các loại dịch chiết bằng phương
pháp khuếch tán trên đĩa thạch.
Pha các cao chiết của toàn thân cây thuốc với metanol nồng độ
10g/100ml và 5g/100ml sau đó dùng cao đã pha để thử hoạt tính kháng
khuẩn.
Các thao tác được thực hiện trong tủ cấy vô trùng. Khi mật độ vi khuẩn
đạt đến nồng độ 108 tế bào/ml, lắc đều ống nghiệm chứa vi khuẩn. Môi
trường LB đã được hóa lỏng trong lò vi sóng, khi còn lỏng đổ đều môi trường
vào các đĩa Petri, sau đó để nguội để môi trường đông đặc lại tạo thành mặt
phẳng. Dùng micropipet hút 100μl dịch vi khuẩn vào giữa đĩa thạch chứa môi
trường LB (Thành phần của môi trường LB là như sau (g/l): Peptone - 10;
Cao nấm men - 5; NaCl -10; pH: 7,0), dùng que cấy tam giác trang đều cho
đến khi mặt thạch khô. Sau 15 phút đục giếng trên môi trường thạch với
đường kính 6mm, đục 5 giếng, mỗi giếng cách nhau 2-3cm. Mỗi giếng thạch
nhỏ 100μl các dịch chiết cần nghiên cứu bằng micropipet, sử dụng đối chứng


×