Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

(Luận án tiến sĩ) PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 169 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 6
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.......................................................................... 8
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 20
1.4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu..................................................... 23
1.5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài..................................................... 25
1.6. Những điểm mới của luận án ............................................................................ 31
1.7. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của luận án ............................................... 34
Kết luận chương 1 .................................................................................................... 38
CHƯƠNG 2. LÝ LUẬN VÊ HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN VÀ ĐIỀU CHỈNH
BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Lý luận về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại ....................... 40
2.1.1. Lý luận về vốn của của ngân hàng thương mại .................................................. 40
2.1.2. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại ............................................ 43
2.2. Điều chỉnh bằng pháp luật hoạt động sử dụng vốn của các ngân hàng thương
mại ................................................................................................................................. 53
2.2.1. Nhu cầu điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại bằng pháp
luật ................................................................................................................................. 53
2.2.2. Vai trò của pháp luật trong điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng
thương mại ..................................................................................................................... 56
2.2.3. Giới hạn cho việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của
các ngân hàng thương mại ............................................................................................. 59
2.3. Hình thức pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại
....................................................................................................................................... 60
2.3.1. Văn bản quy phạm pháp luật ............................................................................... 60
2.3.2. Án lệ .................................................................................................................... 61
1



2.3.3. Quy định nội bộ của ngân hàng thương mại ....................................................... 64
2.4. Các tiêu chí đánh giá chất lượng pháp luật liên quan hoạt động sử dụng vốn
của ngân hàng thương mại ......................................................................................... 70
2.4.1. Tiêu chí đảm bảo tính hiệu quả ........................................................................... 70
2.4.2. Tiêu chí đảm bảo tính hệ thống ........................................................................... 71
2.4.3. Tiêu chỉ đảm bảo giảm thiểu chi phí tuân thủ ..................................................... 71
2.4.4. Tiêu chí phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và nhà nước................ 71
2.4.5. Tiêu chí phù hợp với thông lệ và điều ước quốc tế ............................................. 72
2.4.6. Tiêu chí các lợi ích cần được đảm bảo khi hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử
dụng vốn của ngân hàng thương mại............................................................................. 73
Kết luận chương 2........................................................................................................ 75

CHƯƠNG 3. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỂ ĐẦU TƯ
3.1. Quy định về loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại được sử dụng cho hoạt
động đầu tư................................................................................................................... 78
3.2. Những quy định pháp luật để hạn chế rủi ro trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM
thông qua việc đầu tư..................................................................................................... 79
3.3. Các quy định của pháp luật về các lĩnh vực đầu tư cụ thể của NHTM .................. 80
3.4. Chế tài cho các hành vi vi phạm quy định về hoạt động sử dụng vốn để đầu tư của
ngân hàng thương mại ................................................................................................... 90
3.5. Các bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng vốn
của ngân hàng thương mại thông qua hoạt động đầu tư. ............................................... 92
Kết luận chương 3 ......................................................................................................... 97

CHƯƠNG 4. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN
DỤNG
4.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại được sử dụng để cấp tín dụng ................ 100


2


4.2. Những quy định pháp luật để hạn chế rủi ro trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM
thông qua việc cấp tín dụng ......................................................................................... 108
4.3. Các quy định của pháp luật về các lĩnh vực cấp tín dụng cụ thể của NHTM ...... 127
4.4. Chế tài cho các hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động sử dụng vốn để cấp tín
dụng của ngân hàng thương mại.................................................................................. 135
4.5. Các bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định về sử dụng vốn của ngân hàng thương
mại để cấp tín dụng. ..................................................................................................... 140
Kết luận chương 4 ....................................................................................................... 160
Kết luận của luận án .................................................................................................... 164

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục số 1: Hệ số an toàn vốn (CAR) của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam và một
số quốc gia trong khu vực châu Á năm 2011, 2012
Phụ lục số 2: Hệ số CAR của một số NHTM cổ phần (%)
Phụ lục số 3: Các nguyên tắc Basel
Phụ lục số 4: Danh mục các NHTM được phép kinh doanh vàng miếng
Phụ lục số 5: Báo cáo tài chính của một số ngân hàng thương mại
Phụ lục số 6: Kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại một số ngân
hàng thương mại

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
A. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
STT

Nội dung đầy đủ

Từ viết tắt

1

BĐS

Bất động sản

2

BLDS

Bộ luật dân sự

3

BLHS

Bộ luật hình sự

4




Hợp đồng

5

HĐQT

Hội đồng quản trị

6

HĐTV

Hội đồng thành viên

7

NH

Ngân hàng

8

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

9

NHTM


Ngân hàng thương mại

10

QPPL

Quy phạm pháp luật

11

TAND

Tòa án nhân dân

12

TGĐ

Tổng Giám đốc

13

TCTD

Tổ chức tín dụng

14

VB QPPL


Văn bản quy phạm pháp luật

15

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

16

VNĐ

Việt Nam đồng

4


B. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH

CHỮ VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY ĐỦ TIẾNG
ANH

TÊN ĐẦY ĐỦ TIẾNG VIỆT

FED

Federal Reserve System


Cục dự trữ liên bang Mỹ hay
Ngân hàng trung ương của Mỹ

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới

5


Chương 1

TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Tính cấp thiết của đề tài
Kinh doanh tiền tệ và ngân hàng (NH) là lĩnh vực kinh doanh đặc thù của ngân
hàng thương mại (NHTM). Hoạt động sử dụng vốn của NHTM không chỉ có tầm quan
trọng đặc biệt đối với sự tồn tại của một NHTM mà còn là kênh truyền dẫn chính sách
tiền tệ của Chính phủ và ngân hàng nhà nước (NHNN). Hoạt động sử dụng vốn của
NHTM có liên quan trực tiếp đến sự an toàn của toàn hệ thống NH. Trong thời gian qua,
nhiều vụ án hình sự trong lĩnh vực NH đã cho thấy một số vấn đề phát sinh liên quan
đến quy định pháp luật và việc thực thi, tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực này. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM luôn
là vấn đề nhận được sự quan tâm và là nhu cầu của nhiều chủ thể sau:
Nhu cầu từ các NHTM
Trong thời gian qua, tình trạng sở hữu chéo1 trong lĩnh vực NH diễn ra khá rầm
1.1.

rộ ở Việt Nam đã tạo nên tình trạng vốn ảo trong hệ thống NH và dẫn đến nhiều hệ lụy

cho nền kinh tế. Những vụ án lớn trong lĩnh vực NH được xét xử trong các năm vừa qua
tại Việt Nam đã cho thấy thiệt hại cho NH là quá lớn khi bản thân NH quản lý không
tốt, quản lý tùy tiện nguồn vốn của NHTM. Trong vụ án liên quan đến bị cáo Phạm
Công Danh, vào khoảng tháng 5/2013, để có tiền sử dụng cho việc chi chăm sóc khách
hàng phục vụ cho thanh khoản của NHTM cổ phần Xây dựng Việt Nam (VNCB), các
bị cáo đã bàn về việc tìm cách rút tiền từ NH phục vụ cho việc chăm sóc khách hàng2.
Các vụ án lớn liên quan đến lĩnh vực NH, liên quan đến thất thoát đồng vốn của NH đã
góp phần làm xói mòn lòng tin của người dân cũng như nhà đầu tư. Chính vì vậy, các
NHTM cần chấn chỉnh lại hoạt động sử dụng vốn của mình để duy trì nhiềm tin của
người gửi tiền, để thu hút sự đầu tư của các nhà đầu tư, những người góp vốn để thành
lập và quản lý NH.

Nhu cầu từ phía xã hội
Thứ nhất, lĩnh vực kinh doanh NH liên quan đến nhiều hoạt động của nền kinh
tế thông qua việc nắm giữ và cung ứng nguồn vốn. Đặc biệt, kinh doanh NH liên quan
và cung cấp vốn cho nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như kinh doanh chứng khoán, bất
động sản (BĐS), xây dựng, đầu tư, v.v… nhất là ở khía cạnh nguồn vốn và cách thức sử
dụng vốn. Hoạt động kinh doanh của NH được ví như huyết mạch của nền kinh tế. Các
Sở hữu chéo là việc đồng thời hai doanh nghiệp có sở hữu phần vốn góp, cổ phần của nhau (Khoản 2 Điều 16
Nghị định 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 2014)
2
Bản án hình sự sơ thẩm số 332/2016/HSST vào ngày 09/09/2016, tr. 34
1

6


cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997-1998, khủng hoảng tài chính Nam Mỹ 20012002, khủng hoảng hệ thống NH trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Mỹ từ 2008 đã cho thấy
vai trò huyết mạch này của hoạt động NH.
Thứ hai, nguồn vốn cho NH hoạt động phần lớn là nguồn vốn của xã hội, được

người dân tin tưởng gửi vào NH. NH là chủ thể đi vay và cho vay lại, chỉ có một phần
nhỏ vốn của NH là vốn của chủ sở hữu. Người dân khi đã gửi tiền vào NH sẽ không có
cơ hội cũng như không có điều kiện kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng vốn này.
Chính vì vậy, hoạt động sử dụng vốn của NHTM một cách an toàn là điều kiện tiên
quyết để khôi phục và duy trì niềm tin của người gửi tiền.

Nhu cầu từ cơ quan quản lý nhà nước
Không phủ nhận là từ sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO:
World Trade Organization) đến nay, đặc biệt sau khi Luật các tổ chức tín dụng số
47/2010/QH123 có hiệu lực (sau đây gọi tắt là Luật các TCTD năm 2010), Việt Nam đã
hết sức nỗ lực trong việc ban hành hàng loạt các quy định pháp luật về hoạt động sử
dụng vốn của NHTM ở Việt Nam. Chẳng hạn các quy định về: trích lập dự phòng rủi ro
trong hoạt động của các TCTD; quy định về các giới hạn, tỉ lệ đảm bảo an toàn trong
hoạt động của TCTD,…Tuy nhiên, có khá nhiều quy định của Việt Nam về những vấn
đề trên được xem là chưa phù hợp với các khuyến nghị của Basel 4. Những hạn chế đó,
trong xu thế hội nhập, cần được điều chỉnh cho phù hợp. Do đó, việc tham khảo kinh
nghiệm của các quốc gia trên thế giới về hoạt động NH, đặc biệt là hoạt động sử dụng
vốn của các NHTM là vấn đề cần được tiến hành sớm, nhất là kinh nghiệm từ các quốc
gia có hệ thống pháp luật về NH chặt chẽ ở châu Âu và Mỹ (như Mỹ, Thụy Sĩ) hoặc ở
những quốc gia có quá trình chuyển đổi giống Việt Nam (như Trung Quốc).
Trong kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 14 đã dành hầu hết thời gian để bàn về việc
xử lý nợ xấu. Điều này cho thấy, hoạt động sử dụng vốn của NH luôn dành được sự
quan tâm đặc biệt của cả nước từ Quốc hội cho đến người dân.
Chính vì vậy, nghiên cứu về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM dưới góc độ
pháp luật đã, đang và sẽ là xu hướng của các nhà hoạch định chính sách cũng như của
các học giả Việt Nam. Đây vừa là công việc mang tính cấp bách vừa là công việc mang
tính lâu dài. Luận án này được thực hiện trong bối cảnh Việt Nam đã và đang cơ cấu lại
các TCTD, đang tìm cách đưa ra giải pháp đổi mới và hoàn thiện hệ thống các VB QPPL
về hoạt động NH bao gồm: ban hành chuẩn mực an toàn vốn phù hợp với Basel II, đổi
mới, hoàn thiện các quy định an toàn hoạt động của TCTD, đặc biệt là các tỷ lệ về khả


Được ban hành 16-6-2010, hiệu lực từ 01-01-2011
Hiệp ước Basel (Basel Accord) đưa ra các nguyên tắc chung và các luật ngân hàng của Ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng
3
4

7


năng chi trả để hạn chế và kiểm soát có hiệu quả các rủi ro trong hoạt động của các
TCTD, ban hành các nguyên tắc, chuẩn mực quản trị rủi ro đối với các TCTD.

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng trong hoạt động sử dụng vốn của TCTD nói chung, của
NHTM nói riêng cũng như nhu cầu cần có các quy định pháp lý phù hợp để điều chỉnh
nên việc tìm hiểu về hoạt động sử dụng vốn của TCTD nói chung và NHTM nói riêng
đã được nhiều chủ thể đầu tư nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên
cứu, các hội thảo, các luận văn, luận án, bài phát biểu có liên quan một phần hoặc liên
quan mật thiết đến đề tài “Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương
mại Việt Nam”. Cụ thể, các công trình nghiên cứu đó được liệt kê trong luận án này theo
2 nhóm chính sau đây: Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài và tình hình nghiên cứu ở
Việt Nam. Trên cơ sở tìm hiểu tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước như đã trình
bày ở trên, nghiên cứu sinh có các ghi nhận và nhận xét sơ bộ như sau:
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2.1.1 Các công trình nghiên cứu về kinh tế có liên quan đến đề tài
Bài viết của tác giả Hao Liu xem xét mối quan hệ giữa các thay đổi trong cơ chế
hoạt động của NH và khủng hoảng tài chính bằng cách nghiên cứu sự thay đổi về chính
sách của 137 quốc gia và đặc biệt là các quốc gia thuộc nhóm Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD Organization for Economic Cooperation and development). Các

hoạt động NH ở đây được xác định ở 4 khía cạnh: chứng khoán, bảo hiểm, BĐS và sở
hữu. Việc phân biệt giữa NH truyền thống và NH đa năng là căn cứ trên những hoạt
động này5. Vấn đề còn lại là bài viết dành nhiều phần cho các phép tính toán trong kinh
tế để phân tích mối liên hệ giữa các hoạt động này và khủng hoảng kinh tế. Nghiên cứu
sinh sẽ dựa trên kết quả nghiên cứu này để đưa ra các nhận định dưới khía cạnh pháp lý.
Matthias Lehmann tiến hành phân tích nguyên tắc Volcker Rule hay còn gọi là
Ring-Fencing, tức là nguyên tắc tách biệt các hoạt động của NH để đảm bảo an toàn
đồng vốn của NH trước các hoạt động mang lại rủi ro6. The Volcker Rule cấm hai loại
hoạt động: tham gia các giao dịch chứng khoán; không tham gia vào hoạt động của quỹ
đầu cơ. Theo nguyên tắc Paul Volcker, hai hoạt động này quá rủi ro và không phải là
hoạt động chính yếu cho các tổ chức nhận tiền gửi. Nhưng quy tắc này không ngăn cấm
NH đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, cam kết tài trợ, bao mua hoặc tạo lập thị trường,
các hoạt động đầu cơ giảm thiểu rủi ro, mua hoặc bán chứng khoán nhân danh khách
5

Hao Liu (2013), The effect of banking regime change from traditional banking operation to universal banking
operation in financial crisis, a thesis submitted to the Faculty of the Graduate School of Arts and Sciences of
Georgetown University in partial fulfillment of the requirements for the degree of Master of Public Policy in Public
Policy, Bản tóm tắt luận văn, p.25
6
Matthias Lehmann (2014), Volcker Rule, Ring-Fencing or Separation of Bank Activities:Comparison of
Structural Reform Acts Around the World, LSE Law, Society and Economy Working Papers 25/2014, London
School of Economics and Political Science Law Department, p. 2

8


hàng của NH, đầu tư vào những doanh nghiệp nhỏ hoặc các quỹ công cộng7. Trong đó,
tác giả phân tích sự khác biệt trong quy định của Đức, Pháp, Mỹ (The Volcker Rule) và
European Union ở khía cạnh có liên quan8. Tuy nhiên, bài viết chưa trình bày các nguyên

nhân sâu xa để dẫn đến sự khác biệt của những quy định này. Những nội dung mà nghiên
cứu này chưa trình bày là nội dung mà nghiên cứu sinh sẽ nghiên cứu so sánh dưới góc
độ pháp luật với những quy định hiện tại Việt Nam.
Trong bài viết “Chức năng của vốn của ngân hàng” 9, tác giả Ing. Martin Svitek
đã liệt kê và phân tích các chức năng của vốn NH như sau: chức năng bù đắp các tổn
thất, thiệt hại (loss-absorbing function), chức năng tạo niềm tin cho người gửi tiền
(confidence function), chức năng tài chính (financial function), chức năng giới hạn
(restrictive function). Nhờ chức năng bù đắp các tổn thất và thiệt hại của vốn, người gửi
tiền và chủ nợ của NH cảm giác yên tâm là tiền gửi, cho vay của họ được an toàn. Vốn
được xem là kênh để tạo ra vốn mới từ lợi nhuận. Vốn được sử dụng giới hạn trong một
số tài sản và giao dịch của NH. Theo đó, tác giả kết luận là vì tầm quan trọng của vốn
NH nên nó trở thành vấn đề trung tâm trong lĩnh vực NH. Phạm vi của bài viết chỉ giới
hạn trong chức năng của vốn NH đúng như tên gọi nên chưa làm rõ được hoạt động sử
dụng vốn của NH trên thực tế có phản ánh được các chức năng trên hay không.
Trong 182 trang luận án tiến sĩ kinh tế “Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại tại Lào”10, nghiên cứu sinh người Lào Kongchampa Ounkham nghiên
cứu chính tập trung vào các quy định và thực tiễn quản trị NHTM tại Lào để nghiên cứu
tuy luận án được thực hiện bằng tiếng Việt. Bên cạnh đó, luận án này chỉ tập trung vào
công việc quản trị NHTM và các biện pháp đảm bảo tín dụng tại Lào và một số nước
khác như Việt Nam, Úc, Mỹ, Trung Quốc, v.v… mà không phải tập trung vào quy định
pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM tại Việt Nam nói chung, về hoạt động
đầu tư của NHTM nói riêng. Đây sẽ là những nội dung mà nghiên cứu sinh sẽ tập trung
nghiên cứu.

1.2.1.2 Các công trình nghiên cứu về quy định pháp luật:
“Quản trị ngân hàng thương mại” của Peter.S Rose11 cung cấp các kết quả nghiên
cứu về việc quản lý nguồn vốn của NHTM, tác động của chính sách và các quy định đối
với hoạt động của NH, phân tích và đánh giá hoạt động của NH, hoạt động đầu tư của
NHTM. Công trình nghiên cứu này có giá trị tham khảo để tiến hành việc so sánh cũng
Matthias Lehmann (2014), tlđd 6, tr.7

Matthias Lehmann (2014), tlđd 6, p. 9, 10
9
Ing. Martin Stivek, Function of capital of bank, Narodna Banka Slovenska, Biatec, Rocnik 9, 5/2001, p.37-40:
Owing to its importance, capital has become a central point of the world of banking
10
Kongchampa Ounkham (2016), “Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Lào”, trường
Đại học kinh tế TP.HCM, người hướng dẫn: PGS.TS Trần Huy Hoàng
11
Peter S. Rose (2004, xuất bản lần thứ 4), Quản trị ngân hàng thương mại, Sách tham khảo, do Nguyễn Huy
Hoàng và cộng sự dịch sang tiếng Việt, Hà Nội, tr. 36
7
8

9


như cung cấp cho nghiên cứu sinh những kiến thức nền tảng về hoạt động của NH. Tuy
nhiên, hạn chế của sách này là chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về những quy định
của nước Mỹ liên quan đến hoạt động của NH, chưa có sự so sánh với quy định tương
ứng ở nhiều quốc gia khác. Chưa kể, sách ra đời từ những năm 2004 (dù đã nhiều lần
tái bản) nên chưa cập nhật hết những thay đổi và biến động của các quy định pháp lý
hiện nay của Mỹ, nhất là sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Đó sẽ là điều mà luận
án của nghiên cứu sinh sẽ hướng tới.
Sách “Principles of banking”12 của Hiệp hội NH Mỹ đã trình bày những nguyên
tắc cơ bản trong giao dịch NH, các hoạt động của các NH từ việc quản lý điều hành các
tài sản đến việc quản lý điều hành các nguồn vốn nợ. Công trình này nghiên cứu kỹ quá
trình phát triển của hệ thống NH Mỹ, các đạo luật, quy định pháp lý điều chỉnh hoạt
động của các định chế tài chính Mỹ, các cơ quan thẩm quyền về giám sát và quản lý
điều tiết hoạt động NH theo quy phạm pháp luật (QPPL). Tuy nhiên, đây chỉ là những
nguyên tắc và quy định về hoạt động NH nói chung, không tập trung phân tích riêng về

quy định liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Chương 10 của sách này tập
trung phân tích việc quản lý điều hành các nguồn vốn của NH, phân tích sự khác nhau
giữa cho vay và đầu tư, đa dạng hóa hoạt động đầu tư. Kết quả nghiên cứu đưa ra nhận
định là chương trình/ kế hoạch quản lý nguồn vốn nỗ lực điều hòa giữa 3 mục tiêu: tính
an toàn, tính thanh khoản và khả năng sinh lời của NH13. Các kết quả nghiên cứu trong
công trình này cũng trình bày sự so sánh và lý giải sự ra đời của các đạo luật về NH.

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.2.1. Các nghiên cứu về kinh tế có nội dung liên quan đề tài
Đây là một đề tài liên quan đến lĩnh vực NH, một lĩnh vực đặc thù của nền kinh
tế. Chính vì vậy, các đề tài nghiên cứu về kinh tế nói chung, về NH nói riêng là đối
tượng tham khảo chính của luận án này.
“Quản trị ngân hàng” của tác giả Hồ Diệu 14 ra đời trong bối cảnh sau cuộc khủng
hoảng tài chính Đông Á (1997-1998) và cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (20012002). Tác giả Hồ Diệu không đi sâu vào cơ cở lý thuyết quản trị mà chỉ tập trung xử lý
những vấn đề cơ bản trong quản trị các mặt hoạt động đặc trưng của NH. Đặc biệt, trong
đó, tác giả nhấn mạnh đến các giải pháp phòng vệ và hạn chế rủi ro; việc thành lập, tổ
chức và phát triển mạng lưới NH.
Cả hai công trình nghiên cứu của tác giả Peter Rose và Hồ Diệu đều có chung
một điểm là do được tiến hành cách đây hơn 10 năm nên ít nhiều vẫn chưa thể hiện được

American Bankers Association (2007) (Tái bản lần thứ 9), Các nguyên tắc trong hoạt động giao dịch ngân hàng
tại Mỹ (Principles of banking), do nhóm tác giả Nguyễn Hữu Thu hiệu đính bản dịch, 12-2017
13
American Bankers Association (2007), tlđd 12, tr.135
14
Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, Nxb Thống kê
12

10



những cập nhật và biến động của tình hình hiện nay. Tác giả Peter Ross chỉ dừng lại ở
việc giới thiệu những quy định của Mỹ về hoạt động của các NH. Nhưng, từ đó đến nay
đã có nhiều thay đổi trong đời sống, hoạt động của hệ thống NH Mỹ, đặc biệt là sau
cuộc khủng hoảng năm 2008. Sau công trình của tác giả Hồ Diệu, nhiều VB QPPL trong
lĩnh vực NH đã ra đời. Cho nên, công trình của các tác giả chắc chắn chưa cập nhật được
những thay đổi này. Tuy nhiên, những kiến thức trong công trình của 2 tác giả này là
kiến thức nền tảng trong lĩnh vực NH để nghiên cứu sinh thực hiện đề tài.
Sách của tác giả Nguyễn Văn Tiến về “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân
hàng” đã làm rõ những vấn đề về lý luận như những đặc thù trong kinh doanh NH,
15

những loại rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản,
rủi ro thanh toán quốc tế. Cuối cùng, mới là vai trò của chủ sở hữu trong kinh doanh
NH. Những nghiên cứu này là cơ sở lý luận cần thiết liên quan đến lĩnh vực NH để
nghiên cứu sinh thực hiện luận án này.
Tiến sĩ Trương Quang Thông trong công trình: “Quản trị ngân hàng thương
mại”16, đã lý giải được sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
NH, giới thiệu những thay đổi quan trọng của khung pháp lý điều chỉnh về hoạt động
của NH Việt Nam từ 2005 đến 2009, cũng như phân tích những hạn chế của khung pháp
lý điều chỉnh trong giai đoạn này. Kết quả nghiên cứu của Tiến sĩ Trương Quang Thông
đã phân tích những thay đổi pháp lý về kiểm soát mạng lưới hoạt động NH và hoạt động
của thị trường tiền tệ; những thay đổi pháp lý về hoạt động huy động vốn tín dụng; hoạt
động kinh doanh tiền tệ; thay đổi pháp lý về hoạt động dịch vụ thanh toán. Về hạn chế
của khung pháp lý điều chỉnh trong giai đoạn này, tác giả chủ yếu đề cập đến việc thiếu
nhiều VB QPPL điều chỉnh hoạt động NH, quy định pháp lý về bảo hiểm tiền gửi và
hoạt động giám sát chưa đủ điều kiện để phát huy vai trò đảm bảo an toàn cho hoạt động
NH. Trong các kết quả nghiên cứu trên, nghiên cứu sinh sẽ tiếp thu những phân tích liên
quan đến sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động NH, những thay
đổi về huy động vốn tín dụng.

Những luận án và các công trình nghiên cứu khác về kinh tế có nội dung liên
quan đến đề tài:
Nghiên cứu của Phan Thị Hằng Nga tập trung đánh giá năng lực tài chính của
các NHTM Việt Nam trên cơ sở khung an toàn CAMEL17. Đây là một công trình công
phu với nhiều bảng biểu và số liệu về NH, thể hiện từ trang 61 đến trang 135, liên quan
đến hệ số an toàn vốn, đến tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA: Return on assets), tỷ suất

Nguyễn Văn Tiến (2005), Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống kê
Trương Quang Thông (chủ biên) (2010), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính
17
CAMEL chính là viết tắt từ chữ cái đầu của các chữ tiếng Anh Capital, Asset quality, Management, Earnings,
và Liquidity ( Vốn, chất lượng tài sản, quản trị, thu nhập và tính thanh khoản)
15

16

11


lợi nhuận ròng trên vốn (ROE: Return on Equity), đến dự phòng rủi ro, v.v…Nguồn số
liệu này rất hữu ích cho nghiên cứu sinh khi tiến hành luận án này của mình. Tuy nhiên,
các phân tích trong luận án của Phan Thị Hằng Nga mang nặng tính kinh tế và nhiều
phép tính trong toán học hơn là phân tích về khía cạnh pháp lý. Đây là điều để ngỏ cho
nghiên cứu sinh nghiên cứu tiếp.
Tiến sĩ Hạ Thị Thiều Dao đã thực hiện nghiên cứu “25 nguyên tắc giám sát ngân
hàng theo Basel II và việc tuân thủ ở Việt Nam”18. Đúng như tên gọi, tác giả chỉ nêu ra
các nguyên tắc, đối chiếu và chỉ rõ mức độ tuân thủ của các NH Việt Nam trước yêu cầu
của Ủy ban Basel mà không đi sâu phân tích về việc áp dụng các nguyên tắc này ở Việt
Nam như thế nào. Nghiên cứu sinh sẽ áp dụng những quy định của Basel 2, 3 để tiến
hành nghiên cứu quy định của pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM tại

Việt Nam.

1.2.2.2. Các nghiên cứu về luật có nội dung liên quan đề tài:
Giáo trình Luật Ngân hàng của trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh19 đã cung
cấp cho nghiên cứu sinh những kiến thức nền tảng về đặc điểm của hoạt động NH, các
nguyên tắc của luật NH, pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng đặc điểm và bản
chất của tín dụng NH. Đúng như tên gọi, giáo trình này chủ yếu hướng đến cung cấp
những kiến thức nền tảng về luật NH. Trong các nguyên tắc chung có nguyên tắc bất
khả xâm phạm về vốn, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp; nguyên tắc tự chủ kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ - NH; nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng; nguyên tắc cân bằng
(dung hòa) quyền lợi của các chủ thể trong luật NH. Trong các nguyên tắc đặc thù có
nguyên tắc hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động NH; nguyên tắc xây dựng hệ
thống NH theo hướng phân định cụ thể chức năng và nguyên lý hoạt động giữa NHNN
Việt Nam và các TCTD.
Tác giả Nguyễn Xuân Bang trong bài viết “Một số vấn đề pháp lý về các hạn chế
để đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng” tập trung phân tích bản chất
của việc nhà nước đưa ra các hạn chế trong hoạt động của TCTD. Tuy nhiên, các phân
tích này bao gồm cho cả các loại hình TCTD chứ không chỉ riêng cho NHTM20. Thêm
vào đó, tác giả còn đề ra các nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ khi đề ra các quy định các
hạn chế trong hoạt động của TCTD. Về tổng thể, bài viết của tác giả Nguyễn Xuân Bang
chủ yếu đề cập đến rủi ro tín dụng, không đề cập đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM.

Hạ Thị Thiều Dao (2010), “25 nguyên tắc giám sát ngân hàng theo Basel II và việc tuân thủ ở Việt Nam”, Kỷ
yếu hội thảo khoa học Hiệu lực của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam, Nxb Tài chính, 2010
19
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật ngân hàng (tái bản), Nxb Hồng Đức-Hội Luật
gia Việt Nam, tr1-454
20
Nguyễn Xuân Bang (2011), “Một số vấn đề pháp lý về các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2011

18

12


Tác giả Phạm Thị Giang Thu, một cách độc lập hoặc cùng tham gia nghiên cứu
chung với các tác giả khác, đã có nhiều bài viết về lĩnh vực tài chính NH. Trong đó, có
một số bài viết liên quan trực tiếp đến đề tài của nghiên cứu sinh như sau:
Bài báo “Một vài ý kiến về pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn, mua cổ phần
của các ngân hàng thương mại”21 có nội dung liên quan một phần với đề tài của nghiên
cứu sinh. Trong bài viết, tác giả nêu lên ý kiến về những quy định pháp luật hiện nay
liên quan đến quyền thực hiện góp vốn, mua cổ phần; giới hạn tham gia góp vốn, mua
cổ phần; lĩnh vực được góp vốn, mua cổ phần và cuối cùng là trình tự thủ tục góp vốn,
mua cổ phần của NHTM. Quyền thực hiện góp vốn, mua cổ phần đã được đem ra phân
tích sâu trong vụ án liên quan đến bị cáo Nguyễn Đức Kiên. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục
góp vốn mua cổ phần của NHTM không phải là mục tiêu của luận án của nghiên cứu
sinh. Trong khi đó, phần phân tích sâu sắc về lĩnh vực và giới hạn góp vốn mua cổ phần
là phần có liên quan chặt chẽ đến ý định nghiên cứu trong luận án của nghiên cứu sinh.
Đây là bài viết để nghiên cứu sinh kế thừa và phát triển các phân tích có liên quan đến
hoạt động sử dụng vốn của các NHTM thông qua hoạt động đầu tư.
Bài báo “Những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trái phiếu
doanh nghiệp và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại” của
hai tác giả là Phạm Thị Giang Thu và Nguyễn Ngọc Lương22 đã tập trung phân tích
những hạn chế, những vướng mắc trong quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt
động sử dụng vốn của các NHTM thông qua việc đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và hoạt
động chiết khấu giấy tờ có giá. Những hạn chế của pháp luật được đề cập và phân tích
tập trung ở 4 điểm chính sau: (1) Điều 107 Luật các TCTD năm 2010 không quy định
việc NHTM được mua, bán trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian tối đa và tối thiểu
trong bao lâu và cách thức mua bán như thế nào; (2) việc chiết khấu giấy tờ có giá và
đầu tư gián tiếp của NHTM phải có giấy phép của NHNN; (3) Điều 128 Luật các TCTD

năm 2010 có giới hạn tổng mức đầu tư của NHTM vào trái phiếu do khách hàng phát
hành nhưng quy định không làm rõ việc đầu tư vào trái phiếu này là vào thị trường sơ
cấp hay thứ cấp; (4) Việc không thống nhất trong các Luật thuế giá trị gia tăng và Luật
các TCTD năm 2010 về cách hiểu hình thức cấp tín dụng đã khiến cho việc áp dụng,
“thực thi quy định pháp luật về thuế không được tôn nghiêm”. Nghị định 209/2013/NĐCP, được ban hành sau khi bài viết trên được công bố23 đã bổ sung thêm hai nội dung là
bán tài sản bảo đảm tiền vay và cung cấp thông tin tín dụng vào nhóm đối tượng không
Phạm Thị Giang Thu (2013), “Một vài ý kiến về pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các
ngân hàng thương mại”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 1 (250) -2013, tr28-34
22
Phạm Thị Giang Thu và Nguyễn Ngọc Lương (2014), “Những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu
tư trái phiếu doanh nghiệp và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại”, tạp chí Nghiên cứu
lập pháp số 14(270) T7/2014, tr 53-56
23
Nghị định 209/2013/NĐ-CP, được ban hành ngày 18-12-2013, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của luật thuế giá trị gia tăng; bài viết trên được công bố vào tháng 7-2014
21

13


chịu thuế giá trị gia tăng tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008. Nghiên cứu sinh đồng
ý với các tác giả ở chỗ hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của NHTM trong luật
các TCTD năm 2010 vẫn chưa được xem là hình thức cấp tín dụng để được không nộp
thuế giá trị gia tăng tại Nghị định 209/2015/NĐ-CP nêu trên. Những hạn chế được đề
cập trong bài viết này của hai tác giả là cơ sở để nghiên cứu sinh nghiên cứu và tìm ra
các câu trả lời cho phù hợp với tình hình và quy định hiện hành. Đặc biệt, bài viết phân
tích hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp trong bối cảnh Luật đầu tư năm 200524
đang có hiệu lực. Trong bối cảnh đó, việc đầu tư trái phiếu doanh nghiệp là hoạt động
đầu tư gián tiếp. Trong khi đó, hiện nay, theo Luật đầu tư số 67/2014/QH13 (sau đây
gọi tắt là Luật đầu tư năm 2014)25, hoạt động này là hoạt động cấp tín dụng.

Bài viết thứ hai của hai tác giả trên “Một số vấn đề cần quan tâm khi ban hành
luật các tổ chức tín dụng sửa đổi” tập trung phân tích các nguyên tắc và vấn đề khi ban
hành luật các TCTD sửa đổi26. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp các nguyên tắc xây dựng
luật và phân tích các vấn đề cụ thể cần xem xét, lưu ý trước khi thông qua Luật các
TCTD sửa đổi. Theo đó, các nguyên tắc khi xây dựng luật các TCTD sửa đổi bao gồm:
(i) phải đảm bảo tính kế thừa, tính toàn diện, tính thực tiễn, tính cụ thể, chi tiết và có khả
năng áp dụng trực tiếp; (ii) đảm bảo cơ sở pháp lý của nhà nước, lợi ích của các TCTD
và lợi ích của các tổ chức, cá nhân có sử dụng dịch vụ NH của TCTD trên cơ sở tôn
trọng quy luật vận động của nền kinh tế thị trường; (iii) nguyên tắc áp dụng luật và nội
hàm của Luật các TCTD. Các vấn đề cụ thể được nêu trong bài viết bao gồm: phạm vi
điều chỉnh của luật các TCTD năm 2010, bổ sung các khái niệm cơ bản cần được định
nghĩa trong Luật; quản trị điều hành các TCTD; đảm bảo an toàn trong hoạt động của
các TCTD. Có thể nói, các kết quả nghiên cứu trên không liên quan chặt chẽ đến hoạt
động sử dụng vốn của các NHTM nhưng các nguyên tắc trong bài viết trên là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt khi cần ban hành luật các TCTD vào năm 2010 và vẫn tiếp tục có ý nghĩa
định hướng trong việc sửa đổi, ban hành mới các quy định trong lĩnh vực NH sau này,
bao gồm cả các quy định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM.
Trong bài viết “Cơ sở pháp lý của việc ngân hàng tham gia vào thị trường tài
chính hiện nay”27, tác giả Phạm Thị Giang Thu đã kiến nghị mở rộng quyền tự do kinh
doanh của NH trong việc tham gia thị trường tài chính. Theo tác giả, “pháp luật chưa
thật sự tạo điều kiện để ngân hàng tham gia với tư cách nhà đầu tư chứng khoán”28. Từ
Luật đầu tư số 59/2005/QH11, được ban hành vào ngày 29-11-2005, hiệu lực thi hành vào 1-7-2006, hết hiệu
lực vào 1-7-2015
25
Luật đầu tư số 67/2014/QH13, được ban hành vào 26-11-2014, hiệu lực thi hành từ 1-7-2015.
26
Phạm Thị Giang Thu, Nguyễn Ngọc Lương (2010), “Một số vấn đề cần quan tâm khi ban hành luật các tổ chức
tín dụng sửa đổi”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2010, tr.3-10, 18
27
Phạm Thị Giang Thu (2007), “Cơ sở pháp lý của việc ngân hàng tham gia vào thị trường tài chính hiện nay”,

Tạp chí luật học, số 12/2007, tr. 57-66
28
Phạm Thị Giang Thu (2007), tlđd 27, tr.60
24

14


đó, tác giả đã kiến nghị mở rộng quyền tự do kinh doanh của NH trong việc tham gia thị
trường tài chính như sau: (i) Tạo điều kiện pháp lý cho NH tham gia thị trường chứng
khoán; (ii) Tạo cơ sở pháp lý cho NH đa dạng hóa nội dung kinh doanh trên thị trường
chứng khoán, thị trường bảo hiểm. Việc tạo điều kiện này bao gồm tạo cơ hội chào bán
chứng khoán cho NH; thành lập tập đoàn kinh tế đa ngành, tập đoàn NH; đa dạng hóa
nội dung kinh doanh của các NH, dịch vụ NH. Tuy nhiên, do bài viết được thực hiện từ
năm 2007, cách đây 11 năm, nên một số kiến nghị của tác giả trong bài viết này đã được
pháp luật quy định như NHTM đã được tham gia thị trường chứng khoán với tư cách là
nhà phát hành, các dịch vụ của NHTM đã được đa dạng hóa. Riêng việc thành lập tập
đoàn NH thì hiện vẫn còn nhiều tranh luận và chưa thực sự có một tập đoàn NH nào ra
đời tại Việt Nam.
Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Tuyến về “Xác định giới hạn can thiệp của nhà
nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam”29 đã cung cấp 3 kết quả nghiên cứu sau:
- Những nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ khi xác định giới hạn hợp lý của sự can
thiệp từ phía nhà nước đối với giao dịch thương mại của NH bao gồm: sự can thiệp này
chỉ nên ở tầm vĩ mô và bằng các biện pháp vĩ mô; phải xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù
của Việt Nam, có tính đến yêu cầu hội nhập quốc tế; phải nhằm thoả mãn các mục tiêu
cơ bản về kinh tế, chính trị và xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa; không được gây
cản trở cho quá trình tự do hoá thương mại quốc tế trong lĩnh vực tài chính, NH mà Việt
Nam đã tham gia hoặc cam kết sẽ tham gia, cũng như không cản trở quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể tham gia giao dịch thương mại NH; kết quả của sự can thiệp đó

phải là cho kinh tế tăng trưởng bền vững; hệ thống NH hoạt động ổn định và có hiệu
quả; các chủ thể kinh tế thoả mãn được lợi ích của mình khi giao dịch với NH; nền kinh
tế và đời sống xã hội không gặp phải các rắc rối và những biến động bất lợi; xu hướng
hội nhập quốc tế không bị cản trở và ngày càng được thúc đẩy.
- Phương thức can thiệp của nhà nước đối với hoạt động giao dịch thương mại
của NH: xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh; hoạch định và thực hiện
các chương trình, kế hoạch định hướng có liên quan đến hoạt động kinh doanh của các
NH; thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách
điều hành lãi suất tín dụng, chính sách thuế khoá, chính sách ngoại hối đối với hoạt động
kinh doanh NH; thông qua việc thành lập và trực tiếp điều hành các NHTM nhà nước.
- Mức độ can thiệp của nhà nước đối với hoạt động giao dịch thương mại của các
NH: (i) Với tư cách là chủ thể quản lý, nhà nước có trách nhiệm xây dựng môi
trường thuận lợi, đầy đủ và an toàn nhất cho việc xác lập và thực hiện các giao dịch
Nguyễn Văn Tuyến (2003), “Xác định giới hạn can thiệp của nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân
hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2003
29

15


thương mại của NH. Khái niệm môi trường ở đây được hiểu bao gồm các thành tố cơ
bản như môi trường pháp lý, môi trường chính trị và an ninh xã hội, môi trường khoa
học và công nghệ. (ii) Với tư cách là chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp NH có quyền
quyết định tối cao trong quá trình giao dịch với khách hàng và tự chịu trách nhiệm về
kết quả giao dịch.
Tuy đã cung cấp được các kết quả nghiên cứu hết sức có ý nghĩa nêu trên cho
nghiên cứu sinh nhưng nội dung chính trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuyến
chỉ đề cập đến giao dịch thương mại của NH. Trong khi đó, luận án của nghiên cứu sinh
chỉ liên quan đến một khía cạnh hẹp là pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM.
Chính vì vậy, các kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuyến sẽ được nghiên

cứu sinh kế thừa trong việc xác định giới hạn, mức độ và phương thức hợp lý của việc
can thiệp của nhà nước vào hoạt động sử dụng vốn của NHTM.
Bài viết tiếp theo của tác giả Nguyễn Văn Tuyến là “Các giải pháp hoàn thiện
pháp luật ngân hàng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”30 đã đề cập đến các
giải pháp sau: hoàn thiện các quy định về NH trung ương; hoàn thiện các quy định về tổ
chức cung ứng dịch vụ NH. Tác giả nhấn mạnh NHNN còn sử dụng mạnh mẽ các biện
pháp hành chính trong quá trình quản lý nhà nước. Kiến nghị được đưa ra là: chuyển
dần chức năng quản lý hành chính nhà nước về NH của cơ quan phát hành tiền quốc gia
thành chức năng giám sát và kiểm soát hệ thống NH bằng cách tăng cường các quy định
mang tính kinh tế về hoạt động của NH trung ương và giảm bớt các quy định mang tính
hành chính hóa. Tác giả phân tích: các quy định hiện hành về quy trình, thủ tục cấp giấy
phép thành lập và hoạt động cho TCTD vẫn thể hiện tư duy quản lý hành chính cứng
nhắc, chưa tính đến các yếu tố kinh tế; các quy định hiện hành về hoạt động NH của
TCTD chưa đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các loại hình TCTD; pháp luật
NH Việt Nam còn thiếu nhiều quy định quan trọng, cần thiết và tính nền tảng cho các
hoạt động NH hiện đại. Trên cơ sở phân tích các bất cập trên, tác giả đã đề ra các giải
pháp để hoàn thiện.
Có bốn luận án tiến sĩ liên quan hết sức chặt chẽ với đề tài của nghiên cứu sinh.
Trong đó có 2 luận án tiến sĩ luật học và 2 luận án tiến sĩ kinh tế:
Luận án tiến sĩ kinh tế của Vũ Hoàng Nam (2015) “Hoạt động đầu tư kinh doanh
trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam”31 đã nghiên cứu chuyên sâu về hoạt
động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM Việt Nam, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu
đánh giá hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM, nghiên cứu mô hình hoạt

Nguyễn Văn Tuyến (2007), “Các giải pháp hoàn thiện pháp luật ngân hàng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế”, Tạp chí luật học số 12/2007, tr.75-82.
31
Vũ Hoàng Nam (2015), luận án tiến sĩ kinh tế: Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương
mại Việt Nam, người hướng dẫn: PGS.TS. Kiều Hữu Thiện, TS. Đào Minh Phúc
30


16


động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM trên thế giới, từ đó rút ra bài học và có
giá trị thực tiễn cho hệ thống NHTM Việt Nam. Trong 196 trang luận án, Vũ Hoàng
Nam đã phân tích các mô hình đầu tư kinh doanh trái phiếu, lựa chọn học hỏi kinh
nghiệm của Mỹ và Trung Quốc về hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu.
Luận án tiến sĩ luật học của Ngô Quốc Kỳ “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt
động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”32 đã tập trung nghiên cứu một cách toàn diện pháp luật điều chỉnh
hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Luận án của tiến sĩ Kỳ được thực hiện thành công vào năm 2003. Tuy nhiên, từ
lúc luận án hoàn thành đến nay đã 12 năm trôi qua, tình hình hoạt động cũng như pháp
luật điều chỉnh hoạt động của các NHTM đã thay đổi lớn, đã giải quyết được các bất cập
được nêu trong luận án. Đặc biệt là ở thời gian sau khi gia nhập WTO và sau khi Luật
các TCTD năm 2010 chính thức có hiệu lực, các quy định đã được thay đổi cho phù hợp
với nền kinh tế thị trường
Nếu nghiên cứu của Phan Thị Hằng Nga tập trung đánh giá năng lực tài chính
của các NHTM Việt Nam trên cơ sở khung an toàn CAMEL thì luận án tiến sĩ kinh tế
của Nguyễn Đức Trung lại chọn chủ đề “Bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam trên cơ sở áp dụng Hiệp ước tiêu chuẩn vốn quốc tế Basel” để tiến hành
nghiên cứu. Trong đó, Nguyễn Đức Trung chọn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ
2005 đến tháng 9 năm 2011, tức là trong vòng 6 năm. Luận án của Nguyễn Đức Trung
tập trung nhiều vào việc học hỏi kinh nghiệm của tổ chức Basel và phân tích sâu về quản
trị rủi ro đối với hoạt động của NHTM. Tuy đã 6 năm trôi qua kể từ khi luận án hoàn
thành nhưng chủ đề luận án của tác giả vẫn còn nguyên tính thời sự. Tuy nhiên, bối cảnh
mà tác giả nghiên cứu đã khác với tình hình hiện nay rất nhiều, Việt Nam đã trải qua
nhiều biến động trong các quy định pháp lý để đảm bảo an toàn hệ thống NHTM và thực
trạng của các NHTM hiện nay cũng khác xa với các NHTM trong quá khứ. Chưa kể,

trên thế giới, nhiều quốc gia đã bắt đầu áp dụng Basel III. Nghiên cứu của Nguyễn Đức
Trung sẽ được nghiên cứu sinh kế thừa và cập nhật thêm các quy định mới của Việt
Nam và thế giới.
Luận án Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương
mại ở Việt Nam của Nguyễn Ngọc Lương (2017)

33

tập trung nghiên cứu về pháp luật

điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của NHTM ở Việt Nam. Luận án này chỉ tập trung

Ngô Quốc Kỳ (2003), luận án tiến sĩ luật học: Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, người
hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Mơ, TS. Dương Đăng Huệ
33
Nguyễn Ngọc Lương (2017), luận án tiến sĩ luật học Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Giang
Thu, TS.Nguyễn Văn Tuyến, tr 1-176
32

17


vào pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của NHTM, không đề cập đến pháp
luật liên quan đến hoạt động đầu tư của NHTM. Những khoảng trống của công trình
nghiên cứu này là điều mà nghiên cứu sinh sẽ tiến hành nghiên cứu cụ thể trong luận án.
Trong bốn luận án trên, có 2 luận án về kinh tế, 2 luận án về luật. Điểm chung
của cả bốn công trình nghiên cứu này là đều lấy NHTM làm đối tượng nghiên cứu và
nội dung nghiên cứu của cả 4 công trình đều đề cập đến việc hoàn thiện pháp luật Việt

Nam. Phạm vi nghiên cứu trong công trình nghiên cứu của tiến sĩ Nam hẹp hơn và công
trình nghiên cứu của tiến sĩ Kỳ lại rộng và bao quát hơn phạm vi nghiên cứu dự định
của nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong ba
công trình nghiên cứu đầu tiên chỉ dừng lại ở việc kêu gọi chứ chưa đưa ra một giải pháp
cụ thể.
Một luận án tiến sĩ có nội dung nghiên cứu gần với đề tài của nghiên cứu sinh là
“Nâng cao hiệu quả của pháp luật Việt Nam hiện nay” của tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan34.
Công trình này đã cung cấp các kết quả nghiên cứu sau: luận án đã nêu ra khái niệm
khoa học của hiệu quả pháp luật; các tiêu chí đánh giá hiệu quả pháp luật; các điều kiện
đảm bảo hiệu quả pháp luật. Theo đó, pháp luật có hiệu quả phải là pháp luật tạo điều
kiện cho phát triển kinh tế, xã hội nhiều nhất, tốt nhất và những chi phí cho quá trình
điều chỉnh pháp luật luôn thấp nhất và tiết kiệm nhất35.
Trên cơ sở các nhận định sơ bộ về các công trình nghiên cứu trong nước và ở
nước ngoài như trên, nghiên cứu sinh có một số nhận xét tổng quát như sau:
Thứ nhất, các luận án, bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan chặt chẽ hay
liên quan gần đến đề tài của nghiên cứu sinh phần lớn nghiên cứu dưới khía cạnh kinh
tế. Chưa kể, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài khá ít, không nghiên cứu tình hình
sử dụng vốn hoặc hệ thống pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam
mà chỉ đề cập đến luật của chính nước mà tác giả là công dân hoặc nơi mà tác giả đang
nghiên cứu học tập. Các nghiên cứu ở Việt Nam đã khắc phục một phần những điều mà
các công trình nghiên cứu ở nước ngoài còn chưa thực hiện được. Nhưng, từng công
trình chỉ đi sâu vào một khía cạnh hẹp của vấn đề mà tác giả đang quan tâm hoặc chỉ tập
trung phân tích các khía cạnh kinh tế, kỹ thuật nhiều hơn là khía cạnh pháp lý của hoạt
động sử dụng vốn của NHTM hay chỉ mổ xẻ một mảng vấn đề nhỏ của hoạt động sử
dụng vốn của NHTM. Những công trình khoa học đã đề cập đến một khía cạnh pháp lý
của hoạt động sử dụng vốn của NHTM thì chưa đi sâu phân tích mà chỉ mang tính chất
liệt kê, gợi ý, kiến nghị nên chưa nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống và toàn
diện về hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam và khung pháp lý có liên quan.
Nguyễn Minh Đoan (2001), luận án tiến sĩ luật học Nâng cao hiệu quả của pháp luật Việt Nam hiện nay, người
hướng dẫn khoa học TS.Lê Minh Tâm và TS Trần Minh Hương, 190 trang

35
Nguyễn Minh Đoan (2001), tlđd 34, tr.5
34

18


Thứ hai, một số công trình nghiên cứu thật sự chỉ có ý nghĩa giúp nghiên cứu
sinh có được nguồn số liệu về lĩnh vực NH.
Thứ ba, nhiều nghiên cứu được tiến hành trước thời điểm Luật các tổ chức tín
dụng năm 2010 ra đời.
Thứ tư, những vấn đề sau còn chưa được đi sâu nghiên cứu:
Các nghiên cứu đã qua chưa lý giải và nêu được khái niệm về hoạt động sử dụng
vốn của NHTM, chưa đi sâu nghiên cứu về khung pháp luật về hoạt động sử dụng vốn
của NHTM nói chung.
Cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu so sánh, đối chiếu những
điểm tương đồng và khác biệt liên quan đến pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của
NHTM ở các quốc gia như Trung Quốc, Singapore, Thụy Sĩ và Mỹ.
Thứ năm, ở cấp độ luận án tiến sĩ, cho đến nay chưa có một công trình nghiên
cứu nào về pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM tại Việt Nam
được nghiên cứu một cách hệ thống và có sự kết hợp giữa cách tiếp cận song song kinh
tế và luật.
Mặc dù chưa thể hiện các đóng góp có tính chuyên sâu, nhưng các công trình
nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài nêu trên là những gợi mở rất có ích cho nghiên
cứu sinh trong việc nghiên cứu và thực hiện luận án này. Những điểm còn bỏ ngỏ hay
những điều mà các công trình nghiên cứu trên chưa làm được hoặc mới bắt đầu xúc tiến
chính là lý do để luận án này ra đời. Nghiên cứu sinh kỳ vọng là khi luận án này hoàn
thành sẽ là tài liệu tham khảo dưới dạng luận án đầu tiên liên quan đến pháp luật về hoạt
động sử dụng vốn của NHTM. Mặc dù các công trình đều ít nhiều đề cập đến hoạt động
sử dụng vốn của các NHTM nhưng chỉ mang tính chất riêng lẻ, chưa có công trình cụ

thể nào nghiên cứu một các toàn diện và đưa ra những nhận định, lý giải có tính hệ thống
về pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM.
Trên cơ sở tổng quan về tình hình nghiên cứu, trong luận án của mình, nghiên
cứu sinh sẽ nghiên cứu các nội dung mà những công trình nghiên cứu trước đó chưa đề
cập hoặc đề cập chưa sâu. Các tác giả, những nhà nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu,
tìm hiểu, phân tích khung pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở nhiều
khía cạnh khác nhau. Luận án “Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng
thương mại Việt Nam” sẽ kế thừa, tiếp nối, xâu chuỗi các kết quả nghiên cứu về kinh tế
và pháp lý của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước như đã trình bày. Bên
cạnh đó, nhiều vấn đề tuy đã được các nghiên cứu trước đề cập nhưng vẫn cần được
nghiên cứu và phát triển để phù hợp với đề tài “Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của
ngân hàng thương mại Việt Nam”.
Tính đến thời điểm hoàn thành luận án, luận án được dự kiến là công trình nghiên
cứu khoa học ở cấp độ tiến sĩ có sự kết hợp cả cách tiếp cận kinh tế, chính sách và pháp
19


lý để nghiên cứu về pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Các nghiên cứu
dưới góc độ kinh tế là nền tảng để nghiên cứu và đề xuất các kiến nghị hợp lý liên quan
pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Luận án hướng đến làm rõ:
- Sự cần thiết của các quy định về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM
- Sự phù hợp của các quy định đang xem xét với chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, với Hiến pháp, pháp luật và tính thống nhất với hệ thống VB QPPL.
- Tính tương thích với Điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên
- Tính khả thi của các quy định đang xem xét, bao gồm sự phù hợp với thực tế, trình độ
phát triển của xã hội và điều kiện để đảm bảo thực hiện
- Thực tiễn hiện nay về áp dụng các quy định về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM
Luận án hướng đến việc đề xuất một số sửa đổi, chấm dứt, bổ sung một số quy
định hiện hành nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM.


1.3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là hệ thống pháp luật về hoạt động sử dụng
vốn của các NHTM Việt Nam. Trong đó, chủ yếu là các QPPL về hoạt động sử dụng
vốn của các NHTM tại Việt Nam, thực tiễn áp dụng các QPPL đó. Luận án không tập
trung nghiên cứu các QPPL về hoạt động sử dụng vốn của các TCTD khác như các
TCTD phi NH, tổ chức tài chính vi mô, Quỹ tín dụng nhân dân, các loại hình NH như
NH chính sách, NH hợp tác xã. Điều này xuất phát từ 2 lý do sau:
Thứ nhất, so với các TCTD khác, các NHTM là loại hình TCTD có quyền tiến
hành nhiều hoạt động NH nhất36. Từ đó, việc nghiên cứu về hoạt động sử dụng vốn của
các NHTM sẽ trở nên đầy đủ hơn, bao quát hơn.
Thứ hai, theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các NH được phân loại thành
NHTM, NH chính sách, NH hợp tác xã. Tuy nhiên, trong số các TCTD đã, đang hoạt
động tại Việt Nam thì số lượng các NHTM luôn chiếm tỉ lệ lớn. Tính đến 31-12-2013,
số lượng NHTM cổ phần hoạt động ở Việt Nam là 37, 1 NHTM nhà nước, 5 NH 100%
vốn nước ngoài, 4 NH liên doanh, 1 NH chính sách, 1 NH hợp tác xã, 17 công ty tài
chính, 12 công ty cho thuê tài chính, 2 tổ chức tài chính vi mô37. Tính đến 31-12-2017,

36

NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận (Khoản 3 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010)
37
Ngân hàng nhà nước (2017), “Danh sách các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước (Đến 31-12-2016)”,
[],truy cập ngày 1-05-2017.

20


số lượng NHTM cổ phần hoạt động ở Việt Nam là 3138, NHTM nhà nước là 439, NH

chính sách là 240. Không chỉ tại Việt Nam mà trên thế giới, “bộ phận lớn nhất trong
nhóm các ngân hàng trung gian là hệ thống các ngân hàng thương mại (Commercial
Banking System)41
Việc giới hạn đối tượng nghiên cứu như trên không có nghĩa là luận án không đề
cập đến các loại TCTD khác ngoài loại hình NHTM. Khi cần, việc đề cập đến các TCTD
khác trong luận án nhằm mục đích để làm rõ hơn hoặc so sánh những vấn đề có liên
quan đến các NHTM.

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ được thực hiện trong giới hạn sau:
Về nội dung:
Vốn của NHTM bao gồm vốn ở khía cạnh nguồn nhân lực và vốn ở khía cạnh
kinh tế. Trong phạm vi luận án này, nghiên cứu sinh chỉ tập trung nghiên cứu về vốn ở
khía cạnh kinh tế của NHTM, không tập trung nghiên cứu về nguồn vốn con người của
các NHTM.
Luận án khảo sát khung pháp lý điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM
mà không tập trung vào các nghiệp vụ NH. Luận án này không hướng đến tìm hiểu về
công việc chuyên môn hàng ngày trong NH mà chỉ hướng đến việc theo quy định thì
NHTM sử dụng vốn như thế nào. Hoạt động sử dụng vốn được đề cập chủ yếu trong
luận án này là các hoạt động như: dùng nguồn vốn của NHTM để góp vốn (đối với công
ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên; công ty trách nhiệm hữu hạn 01 thành viên),
mua cổ phần (công ty cổ phần), mua bán trái phiếu, kinh doanh vàng, kinh doanh ngoại
hối, kinh doanh BĐS, thành lập hệ thống chi nhánh mở rộng hoạt động của các NHTM.

Ngân hàng nhà nước (2018), “Danh sách các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước (Đến 31-12-2017)”,
/>%40%3F_afrLoop%3D3558762679909000%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26righ
tWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrlstate%3D8wlg1v91k_293, truy cập ngày 28-08-2018
39
Ngân hàng nhà nước (2018), “Danh sách các Ngân hàng thương mại nhà nước (tính đến 31-12-2017)”,
/>%40%3F_afrLoop%3D3558457225417000%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26righ

tWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrlstate%3D8wlg1v91k_172, truy cập ngày 28-08-2018
40
Ngân hàng nhà nước (2018), “Danh sách các Ngân hàng chính sách (đến 31-12-2017)”,
/>_afrLoop%3D3558463252122000%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%
3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D8wlg1v91k_214,
truy
cập ngày 28-08-2018
41
Lê Vinh Danh (2006), Tiền và hoạt động ngân hàng, Nxb Tài chính, tái bản lần thứ 2, tr.121
38

21


Theo Trần Thị Lan (2018)42, thông thường cơ cấu sử dụng vốn của NH được chia
thành các nhóm chính theo hình thức sử dụng vốn gồm: ngân quỹ, cho vay, đầu tư, tài
sản khác. Cơ cấu ngân quỹ gồm: Tiền mặt, tiền gửi tại NHTW, tiền gửi trên tài khoản
tiền gửi thanh toán tại các TCTD khác. Tuy nhiên, các hoạt động sử dụng vốn của
NHTM được đề cập và phân tích trong luận án sẽ chỉ là những hoạt động đầu tư và cấp
tín dụng. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm rất nhiều hoạt động cụ thể kể cả
việc mua trang thiết bị cho NHTM nhưng luận án này chỉ đề cập đến hai hoạt động
chính, chiếm tỉ trọng cao và phổ biến trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM là đầu tư
và cấp tín dụng. Trong hoạt động cấp tín dụng của NHTM, luận án cũng chỉ đề cập đến
một số loại nhất định vì có những loại cấp tín dụng của NHTM có những hoạt động
giống với hoạt động của doanh nghiệp nói chung.
Các hoạt động của NHTM được đề cập và phân tích trong luận án sẽ chỉ là những
hoạt động nội bảng, không phải là hoạt động ngoại bảng (off-balance sheet). Vì “hoạt
động ngoại bảng dùng để chỉ các hoạt động liên quan đến các dạng cam kết hay hợp
đồng tạo ra nguồn thu nhập cho ngân hàng nhưng không được ghi nhận như tài sản hay
nợ theo thủ tục kế toán thông thường”43. Nói cách khác, về mặt pháp lý, các hoạt động

và nghiệp vụ ngoại bảng (quản lý ngân quỹ, môi giới và trung gian chứng khoán, ủy
thác, đại diện, tư vấn) là những hoạt động và nghiệp vụ NH phát sinh mà không ảnh
hưởng trực tiếp đến việc hình thành hay sử dụng nguồn vốn của NH. Trong đó, các NH
chủ yếu cung cấp dịch vụ và nhận thù lao, hoa hồng từ việc cung ứng dịch vụ. Các hoạt
động cung cấp dịch vụ của NHTM làm tăng thêm thu nhập cho các NHTM dưới hình
thức hoa hồng hay thu phí không phải là đối tượng nghiên cứu của luận án này.
Loại vốn của các NHTM được đề cập và phân tích trong luận án chủ yếu là vốn
tự có và vốn huy động từ các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong đó, nghiên cứu sinh
chủ yếu đề cập phân tích nhiều quy định liên quan đến vốn tự có. Luật các tổ chức tín
dụng năm 199744 (sau đây gọi tắt là Luật các TCTD năm 1997) đã giải thích vốn tự có
là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động NH. Luật các TCTD
năm 2010 giải thích vốn tự có gồm giá trị thực của vốn điều lệ của TCTD và các quỹ dự
trữ, một số tài sản nợ khác theo quy định của NHNN. Tuy Luật các TCTD năm 2010
không minh thị ý vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động NH nhưng vẫn tiếp tục thể hiện ý này thông qua các QPPL cụ thể, đặc biệt là thông
qua các QPPL về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động NH.
42

Trần Thị Lan (2018), luận án tiến sĩ kinh tế Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam, Học viện tài chính, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đinh Xuân Hạng, TS.Đàm Minh
Đức, 180 trang.
43
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Lan Hương (2013), “Quản trị rủi ro hoạt động ngoại bảng trong ngân hàng
thương mại”, Thị trường tài chính tiền tệ, số 3+4 (372+373), tr.61
44
Được ban hành 12-12-1997, hiệu lực từ 01-10-1998, hết hiệu lực 01-01-2011

22



Luật nước ngoài được sử dụng để tham khảo, so sánh chủ yếu sẽ là luật của Mỹ,
Thụy Sĩ, Trung Quốc và Singapore. Hệ thống NH Việt Nam không hoàn toàn giống với
bất kỳ một quốc gia nào khác, song có những nét tương đồng với Trung Quốc về văn
hóa, mối quan hệ của hệ thống NH và khối doanh nghiệp nhà nước. Một điểm quan
trọng khác là nền kinh tế Việt Nam và Trung Quốc đều đang trong quá trình chuyển
đổi45. Trên cơ sở sự tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thống NH Việt Nam và Trung
Quốc, hai nền kinh tế chúng ta có thể rút ra một số khuyến nghị chính sách nào của
Trung Quốc trong hoạt động sử dụng vốn của NH cho phù hợp với tình hình Việt Nam.
Nghiên cứu sinh chọn Singapore vì quốc gia này được xem như là “Thụy Sĩ ở châu Á”
hoặc so với các nước trong khối ASEAN thì Singapore được xem là có thị trường tài
chính phát triển nhất. Mỹ được xem là quốc gia có hệ thống NH phát triển và có nhiều
kinh nghiệm đặt ra các quy định pháp luật mới sau khi đã trải qua các cuộc khủng hoảng
NH.
Về thời gian:
Luận án lấy bối cảnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM hiện nay (2018) để
nghiên cứu. Việc đề cập đến khung pháp lý về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM
trong những giai đoạn trước đây không nằm ngoài mục đích so sánh và phân biệt để làm
rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn.

1.4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Trên cơ sở nền tảng nghiên cứu lý luận, thực tiễn về các quy định pháp luật ở
Việt Nam về hoạt động sử dụng vốn của NHTM, nghiên cứu sinh sẽ trả lời câu hỏi
nghiên cứu lớn như sau: Hoạt động sử dụng vốn của NHTM là gì và tại sao cần có khung
pháp luật phù hợp với các nguyên tắc kinh tế, pháp luật để điều chỉnh hoạt động sử dụng
vốn của NHTM ở Việt Nam?
Trên cơ sở câu hỏi nghiên cứu tổng quát trên, luận án được thực hiện để giải quyết
ba câu hỏi nhỏ sau:
Câu hỏi 1: Vì sao phải dùng pháp luật để điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của

các NHTM?
Vấn đề trên sẽ được phân tích trên cơ sở giải đáp những câu hỏi chi tiết sau: hoạt
động sử dụng vốn của NHTM là gì và tại sao không sử dụng đạo đức, tập quán để điều
chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM? Nếu nhà nước không quản lý hoạt động sử
dụng vốn của các NHTM thì những chủ thể nào sẽ được hưởng lợi? Pháp luật có hiệu
quả và vai trò như thế nào trong việc điều chỉnh/ điều tiết/ quản lý/ giám sát hoạt động

Trịnh Quang An (2006), “Giám sát ngân hàng: Kinh nghiệm của một số nền kinh tế chuyển đổi và hàm ý đối
với Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giải pháp phát triển hệ thống giám sát tài chính-ngân hàng hữu hiệu”,
Nxb Văn hóa thông tin, tr. 26, 27
45

23


sử dụng vốn của NHTM? Giới hạn nào cho việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt
động sử dụng vốn của NHTM? Những khía cạnh, nội dung nào của hoạt động sử dụng
vốn cần được giới hạn sự điều chỉnh bằng pháp luật?
Câu hỏi 2: Khung pháp luật điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở
Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay như thế nào?
Vấn đề trên sẽ được phân tích trên cơ sở giải đáp những câu hỏi sau: Pháp luật
về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM được thể hiện dưới những hình thức nào? Nội
dung pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM bao gồm những vấn đề gì?
Những quy định pháp luật hiện nay của Việt Nam có đảm bảo được an toàn vốn cho các
NHTM hay không?, có đảm bảo được quyền tự do kinh doanh của các NHTM hoặc/ và
của chủ sở hữu vốn?, Làm sao để cân bằng giữa quyền tự do kinh doanh của NHTM với
mục tiêu của Nhà nước là quản lý được một cách an toàn hoạt động sử dụng vốn của
NHTM nhằm bảo vệ người gửi tiền? Người gửi tiền có được khởi kiện đòi bồi thường
khi NHTM sử dụng vốn nhưng không tuân thủ quy định của pháp luật không? Các
NHTM có cần phải kiểm tra và đảm bảo dự án mà mình tài trợ có đáp ứng hay không

các điều kiện mà pháp luật quy định khi các dự án thuộc lĩnh vực ngành nghề kinh doanh
có điều kiện?
Câu hỏi 3: Những nguyên tắc kinh tế và pháp luật nào tác động đến việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM Việt Nam?
Vấn đề trên sẽ được phân tích trên cơ sở giải đáp những câu hỏi sau: Việc tuân
thủ pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM có làm tăng chi phí hoạt động
và chi phí tuân thủ của các NHTM không? Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các
NHTM hiện nay tác động như thế nào đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM? Việt
Nam cần tuân thủ những nguyên tắc kinh tế và pháp luật nào khi hoàn thiện quy định
pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM? Những nội dung nào của pháp luật về
hoạt động sử dụng vốn hiện nay của NHTM cần được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
hoặc cần được loại bỏ?
Trên đây là những câu hỏi nghiên cứu cho đề tài này. Việc giải đáp những câu
hỏi trên sẽ góp phần giải quyết các vấn đề bất cập hiện nay về hoạt động sử dụng vốn
của các NTHM ở Việt Nam. Những câu hỏi này gắn với mục đích nghiên cứu ở phần
5.1.
1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Để giải đáp thỏa đáng các câu hỏi nghiên cứu trên, nghiên cứu sinh đề ra các giả
thuyết nghiên cứu sau:
Giả thuyết 1: Pháp luật là công cụ hữu hiệu hơn các quy phạm xã hội khác trong việc
điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam. Trái ngược với xu thế chung
là giảm thiểu thủ tục hành chính, tự do hóa kinh doanh, bãi bỏ các loại giấy phép, hoạt
24


động sử dụng vốn của NHTM thông qua hoạt động cấp tín dụng, hoạt động đầu tư vẫn
còn cần phải được giám sát chặt chẽ với các hình thức và công cụ phù hợp, đa dạng.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sử dụng vốn của các NHTM vẫn cần có sự điều
tiết của nhà nước bằng pháp luật.
Giả thuyết 2: Dù đã được cập nhật, sửa đổi, bổ sung, cải thiện liên tục, đáp ứng yêu cầu

điều tiết của NHNN nói riêng, của NN nói chung nhưng pháp luật về hoạt động sử dụng
vốn của các NHTM hiện còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ, cần được đánh giá đầy đủ về
mặt nguyên nhân, cách thức thực hiện để có các kiến nghị và điều chỉnh cho phù hợp.
Giả thuyết 3: Pháp luật điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở Việt Nam
hiện chưa phù hợp các nguyên tắc kinh tế, pháp luật để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế
và xu thế hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, dù có những điểm chung nhất định giữa Việt
Nam và các quốc gia khác, nhưng quy định pháp luật của các quốc gia khác chặt chẽ
hơn các quy định của Việt Nam khi điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM.
1.4.3. Lý thuyết nghiên cứu

1.4.3.1. Lý thuyết về pháp luật
Về nền tảng lý thuyết, luận án sử dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lenin về
mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật để luận giải về sự cần thiết phải có sự điều
chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Bên cạnh đó, tác giả
Phạm Duy Nghĩa đã nhận định rằng nghiên cứu pháp luật phải gắn liền với nghiên cứu
chính sách46. Tác giả Đinh Dũng Sỹ cũng cho rằng không có pháp luật phi chính sách
hay pháp luật ngoài chính sách47. Các hoạt động kinh doanh của các NHTM vừa chịu
sự tác động về mặt kinh tế, vừa chịu sự tác động của các yếu tố chính trị như chủ trương,
chính sách của nhà nước. Chính vì vậy, trong luận án này, ngoài việc nghiên cứu các
quy định của pháp luật, nghiên cứu sinh còn nghiên cứu các chính sách gắn liền với hoạt
động sử dụng vốn của NHTM, mà cụ thể là chính sách tín dụng, chính sách tiền tệ quốc
gia của NHNN, chính sách liên quan đến BĐS, chính sách thuế để tác động vào hoạt
động sử dụng vốn của NHTM.
Các lý thuyết về pháp luật liên quan chặt chẽ đến luận án này bao gồm lý thuyết
về quyền tự do kinh doanh, lý thuyết về tự do hợp đồng (HĐ), lý thuyết về quyền sở
hữu, lý thuyết về hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.
Lý thuyết về quyền tự do kinh doanh: Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, nên kinh tế được vận hành theo theo cơ chế quan liêu, kế hoạch theo chỉ
tiêu pháp lệnh, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh trong phạm vi những ngành nghề
được cho phép. Điều 4 Luật công ty năm 1990 quy định trong khuôn khổ pháp luật, công

46

Phạm Duy Nghĩa (2014), Phương pháp nghiên cứu luật học, Nxb Công an nhân dân, tr.78
Đinh Dũng Sỹ (2008), “Chính sách và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật trong hoạt động lập pháp”,
[ truy cập ngày 10-5-2018
47

25


×