Tải bản đầy đủ (.pdf) (258 trang)

Giáo trình luật hiến pháp của các nước tư bản phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.04 MB, 258 trang )

Chương VIII

NGHỊ VIỆN


m

I. s ự XUẤT HIỆN CỦA NGHỊ VIỆN T ư SẢN VÀ VỊ TRÍ
CỦA NGHỊ VIỆN
Cung với sự phát triển của xã hội, việc tồ chức hộ máy
nhà nước cũng phát triển. Ngay từ những thời cố của Ai
Cập, Hy Lạp, La Mã đã có những nhà tư tưởng như Xôlông
(638 - 559 trước công nguyên) đã vượt lên trên cả thời đại
mà họ đang sông và đã cho rằng quyền lực nhà nước
không phải ở đâu xa lạ mà chính được bắt nguồn từ những
cá nhân sông trong cộng đồng. Và tất cả những người sông
trong cộng đồng không thể trực tiếp giải quyết được tất cả
mọi công việc được gọi là nhà nước, họ phải bầu ra những
người đại diện cho cộng đồng đứng ra giải quyết nhiều
công việc được gọi là nhà nước như bây giờ. Lúc bấy giờ
những người được đi bầu cử và những người được bầu cử
đều phải là những người có của hoặc phải là những người
cầm vũ khí. Đó là những Viện Nguyên lão bao gồm những
chủ nô quý tộc, Đại hội nhân dân (Comita centuria) bao
gồm những người cầm vũ khí 105
1,15 Xem: Ngô Văn Thâu: Thực chất phân chia quyền lực - Tạp chí Pháp lí
thông tin 2/1992.

173



Nhưng với nghĩa là Nghi viện nhự ngày nay thì chi có
từ chủ nghĩa tư bẩn, hay nói một cách cụ thể hơn từ khi có
cách mạng tư sản. Nghị viện tư sản được sinh ra cùng với
việc sinh ra hiến pháp, v ề vấn đề này tiến sĩ luật học
Nguyễn Đình Lộc viết: "Sự ra đòi của hiến pháp với tinh
cách là luật cơ bản gắn liền với thòi kì giai cấp tư sản
giành chính quyển trong cuôc đấu tranh chông lại nhà
nước chuyên chế phong kiến. Trong cuộc đấu tranh này
giai cấp tư sản đã đạt được sự hạn chê quyển lực của
vương triều bằng sự thành lập một cơ quan gọi là Nghị
viện tồn tại bên cạnh nhà vua hoặc thành lập một chê độ
cộng hoà thừa nhận các quyền của các cóng dán có của" l0tì.
Trong lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, nhiều
người thường cho rằng quê hườngxủ a Nghi viên tư sản là
nước Anh. Vào khoảng thế kỷ thứ 13 - 14, do nhu cầu chi
tiêu ngay càng tăng của ngân sách hoàng gia, nhà vua
thường triệu tập những cuộc họp bao gồm đại diện các
lãnh địa trực thuộc nhằm mục đích vừa thăm dò, vừa yêu
cầu thực hiện tốt việc thu thuê tăng hơn so với mức bình
thường trưóc. Khoần chi tiêu ngày càng tăng lên của ngân
sách hoàng gia, và các cuộc họp như trên diễn ra nhiều
hơn, từ bất thưòng thành ra thường kì, rồi trở thành tục
lệ. Bên cạnh việc đồng ý thu tăng th u ế cho ngân sách của
hoàng gia, đại diện các lãnh địa đã khôn khéo yêu cầu
hoàng đế chỉ được cai trị những lãnh địa mà họ là người
đại diện theo một quy định nhất định. Chính những cuộc
họp đại diện này đã dần dần thành nghị viện Anh * một
điển hình cổ điển của Nghị viện ngày nay. Chính những
106 Xem: Luật Nhà nước Việt Nam , Khoa Luật • Trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội, 1993, tr.43.


174


yéu caui gia tăng thu thuê trỏ thành một chức năng tài
chính (tthông qua ngân sách) của Nghị viện bây giờ và
rùng 'hình những quy định yêu cầu của các đại diện trỏ
thành 11 hững văn bán luật như hiện nay.
Neu đứng dưới giác độ các khoán thu chi ngân sách
(thu tăng thuê cho ngân sách hoàng gia) cũng là những
quy đinh có tính chất pháp luật, thì việc làm luật đã trỏ
thành nnột chức năng duy nhất cơ bản của Nghị viện. Và
để ch( c hức năng này được thực hiện tôt trên thực tế, Nghị
viện cẳra có một chức năng cơ bản tiếp theo nữa là giám sát
việc thực hiện các văn bản luật mà Nghị viện đã đặt ra.
T n n g thời kì này - cách mạng tư sản và thời kì đầu
của chủ nghĩa tư bản - việc tăng cường quyển hạn của
Nghị vdện trỏ thành một đòi hỏi dân chủ của mọi người
dân Anh. Những đòi hỏi tăng cưòng quyền hạn của Nghị
viện (tồmg thời là những biện pháp (yêu cầu) hạn chê
quyền lực phong kiến đã hết thòi của Anh. Lúc này câu hỏi
"Nghị viíện có quyền được làm tất cả, chỉ trừ việc biến đàn
ông thàỉnh đàn bà" đã trỏ thành một câu ngạn ngữ của
người Amh '°7.
Theo lịch sử của chê độ tư bản, sự phát triển Nghị viện
được phát triển làm hai giai đoạn ứng với hai giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Ttòi kì đầu của chủ nghĩa tư bản - tư bản tự do cạnh
tranh Là thời kì hoàng kim của Nghị viện. Nghị viện thực
sự có

thê hơn hẳn các cơ quan nhà nước khác. Mặc dù
,n Nghịvitện tiếng Pháp là "parlement”, có nghĩa là nói, cãi vã. Nghị viện
có niừ ng tên gọi hết sức khác nhau: có ndi gọi là quốc hội, có nơi còn
gọi lì hiội đồng các dân tộc.

175


lúc bấy giờ có nhiều nưóc quyền lực nhà nước phải chia sẻ
nhưng Nghị viện vẫn có một ưu thê nhất định so với các Cd
quan nhà nước khác.
Với hoạt động của Nghị viện trong Nhà nước tư sản
mới đang lên, chê độ xã hội có Nghị viện đã trở thành một
chê độ đại nghị. Theo quan điểm của V.I. Lênin: chê độ đại
nghị là chế độ rr à ở đó nhà nước được tổ chức theo nguyên
tắc phân chia quyển lực: quyền lực lập pháp, quyền lực
hành pháp và quyền lực tư pháp (xét xử). Trong đó tuyền
lực lập pháp của nghị viện có ưu thê hưn hắn và những
thành viên của nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra có
nhiều đặc quyền đặc lợi nhưng lại không chịu trách nhiệm
trực tiếp trưốc cử t r i 108.
Trong thời kì của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nưóc
thành chủ nghĩa đế quốc và hiện nay, chê độ đại nghị bị
khủng hoảng do sự lấn quyền của bộ máy hành phap và
Nghị viện tư sản đã trở thành cơ quan hình thức, nơi bị bộ
máy hành pháp thao túng. Lí do của việc khủng hoảig sẽ
được phân tích kỹ ở những phần tiếp theo của chương này.
II. THẨM QUYỂN VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGHỊ VIỆN

Trong tất cả các yếu tô" (có thể là các chê định pháp

luật) tạo thành vị trí pháp lí của Nghị viện, nhiệm Tụ và
quyền hạn của Nghị viện đóng vai trò rất quan trọrg. Vì
Nghị viện là một trong những cơ quan quyển lực nhà nước
tối cao nên nhiệm vụ và quyền hạn của Nghị viện thường
được quy định trong hiến pháp của nhà nước tư sải. Có
thể là một chương trong một đạo luật cd bán của nhà nước
lw V.I.Lê Nin: Toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ, M, 1976, tr. 57 - 58

176


hoặc có thê là một vãn bản luật nằm trong các văn bản có
hiệu lực pháp lí tôi cao được tuvên hố hoặc không được
tuyên bô là một đạo luật cơ bản (hiến pháp) của nhà nước.
Trong khoa học pháp lí, thuật ngữ "nhiệm vụ, quyền
hạn" thường được dùng bằng th u ật ngữ "thẩm quyền".
Khái niệm "thẩm quyền" được hình thành bao gồm nhiều
thành phần tạo nên tuỳ theo cách phán chia của từng nhà
nghiên cứu pháp lu ậ t109. Nhưng trong đó bao giờ quyền
hạn và trách nhiệm của Nghị viện cũng là thành phần co'
bán. Theo Hiến pháp tư bản, thẩm quyển của Nghị viện có
thê dược chia thành các lĩnh vực sau đây:
1.
Q uyển h ạ n và trá c h n h iệ m c ủ a Nghị viện
tro n g lĩnh vực lập p h á p
Dưới chế độ dân chủ tư sản, không có một đạo luật nào
cỏ thê (hục ban hành nêu không có sự xem xét, phê chuẩn
của Ngh: viện, v ề nguyên tắc nghị viên tư sản có thê
thông qua bất cứ môt dao luât nào dể điều chỉnh bất cứ
một quan hệ xã hội nào nêu nghị viện cho rằng việc điều

chỉnh quan hệ xã hội đó bằng luật là cần thiết. Đây là
quan điểm của thòi kì đầu của chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh. Quan điểm này hiện nay vẫn được Hiến pháp
các nước Anh, Hy Lạp và Nhật Bản qui định. Nhưng sang
đến thòi kì chủ nghĩa tư bản nhà nước và hiện nav thì
quan điểm trên không còn đứng vững-nữa. N ybl viên chỉ
được quyến thông qua những đạo luật nếu như những đạo
luật đó không can thiệp.-quá^sâu vao linh vực Tíânh pháp.
Trong

cu ìn

Thấm quyến của Xôviêt địa phương (NXB Mátxcơva, 1988,

tr.34, tiêng Nga) thì K.Seremét và o . Kutaphin cho rằng khái
thẩm quyển gồm ba yếu tô tạo nên: Quyên hạn,

niệm

trách nhiệm, và các

lĩnh vực mà cơ quan hoạt động.

177


Hiến pháp của Pháp năm 1958 (nền cộng hoà thứ V), Hiến
pháp Camơrun, Xênêgan qui định: Nghị viện chỉ được
thông qua luật trong một phạm vi nhất định. Ngoài Ịham
vi những vấn đê được qui định, Nghị viện không có qayền

ban hành luật. Vấn đẩ-aày đưạc giải thích
sa u : \ới tư
cách là cơ quan quyền lực n h à u ưỏc- tôì cao,-Nghị, việt cần
tập trung vào việc giải quỵêj những vấn đê quan trọig có
tính chất nguỵẽn-tắc, tránh m ất thời gian vào nhữig vụ
vặt vãnh....
Với những quy định như vậy, nếu dự án luật đva ra
cho Nghị viện thảo luận không thuộc phạm vi lập ỉháp
của Nghị viện thì Chính phủ chỉ cần tuyên bô dự án tóiông
thuộc quyền lập pháp, do vậy việc thảo luận dự án phải
chấm dứt.
Ị Hiến pháp năm 1958 của Pháp là một trong những hiến
/pháp rất hiếm hoi trên thế giới đã vạch rõ những vín đề
/ thuộc lĩnh vực lập pháp. Còn những vấn đề không ihuộc
qui định là lập pháp thì Chính phủ phải có quyền lập quy.
Lẽ đương nhiên việc liệt kê thì hết sức ngắn, còn niững
việc không được liệt thì không thế nào biết hết được.
Theo điều 34 của bản Hiến pháp, Nghị viện Phá) chỉ
được thông qua các đạo luật thuộc ba lĩnh vực sau đây
Thứ nhất: Các đạo luật có liên quan đến tư nhân, đó là
các đạo luật có liển quan đến quyền dân sự; các bảo đảm
tự do công cộng; nghĩa vụ của công dân; vê tội phạm (gồm
có trọng tội, khinh tội và hình phạt); vể thủ tục tô tụng
hình sự; dân sự; về việc thiết lập một hệ thông tài Ịhán;
qui chê các thẩm phán; về vân đề xác định quốc tịci; về
mức thuế và cách thức thu thuế. Thứ hài'. Các đạo lu\t_có
liên quan đến công quyền. Đó là các đạo luật có liên juan
178



đón chế độ hầu cử Nghị viện, các hội đồng địa phương;
thiêt lặp các loại công sỏ; qui chế công chức; quốc hữu hoá
các xí nghiệp tư nhân và tư hữu hoá các xí nghiệp quốc
doanh. Thứ ba: các đạo luật có liên quan đến lĩnh vực kinh
tê. xã hôi. 0 lĩnh vực này, Nghị viện chỉ được thông qua
những qui định có tính chất nguyên tắc. Còn quyền lập qui
được tuỳ nghi chi tiết hoá. Đó là những đạo luật nói vê sự
tự quản của các địa phương; vê chê độ giáo dục; vê quyền
sở hữu; quyển làm việc; quyền được tham gia các nghiệp
đoàn; về mục tiêu hoạt động kinh tế, xã hội của quốíc gia.
ở đây chúng ta có thê rút ra được kết luận bao quát:
nêu như ở một nước tại một chặng đường lịch sử nào đó
của chê độ tư bản thường là bắt đầu, hoặc vừa kết thúc
một cuộc cách mạng xã hội, thì bao giờ ở đó cũng tăng
cường quyền hạn lập pháp nói riêng, cũng như quyền hạn
của Nghị viện nói chung. Và ở đó, quyền hạn này của Quốc
hội (Nghị viện) là không hạn chế, không cần liệt kê các
quyền hạn cụ thế của Quốc hội và việc liệt kê này thường
dùng đê hạn chê quyền hạn của bộ máy hành pháp (cai
trị). Ngược lại, ở một nước tư bản nào đó, cuộc cách mạng
xâ hội đã giành được thành công, giành được chính quyền,
thì lại bắt đầu liệt kê các quyền hạn, trong đó có cả quyển
lập pháp của Nghị viện, để hạn chế dần ưu thê của Nghị
viện và tăng dần quyền hạn của bộ máy cai trị - hành
pháp. Và đây cũng là biểu hiện sự hình thức, tức là sự
khủng hoảng của chê độ đại nghị.

2.
Quyền hạn và trách nhiệm của Nghị viện
trong lĩnh vực ngân sách và tài chính

Ở phần 1 trình bày của chương này, việc thông qua
ngân sách là một trong những chức năng quan trọng nhất,
179


cổ điển nhất của Nghị viện khi nó mới xuât hiện. Đã hàng
trăm năm, giai cấp tư sản kiên quyết đấu tranh đê bío vệ
thẩm quyển này trước mọi sự xâm lấn từ phía quyềỉ lực
nhà Vua. Thanh tra ngân sách là việc trung tâm của tứ cả
các hệ thống thu nhập của quốc gia để gắn chặt nhiên vụ,
quyển hạn của người đại diện do nhân dân bầu ra. Từ khơi
thuỷ, các nghị viện đều do nhà vua Anh của thời kì t*ung
đại triệu tập do nhu cầu phải gia tăng chi phí ngân sách
của hoàng gia. Và khi Nghị viện phê chuẩn dự án agàn
sách, bao giờ cũng kèm theo những lời ca thán của các
nghị sĩ, đã trở thành thủ tục tài chính của Nhà nước \nh.
Về lí thuyết, nguyên tắc này không bao giò loại bỏ ìoàn
toàn, ngay cả khi vấn đề tài chính công cộng ngày cànỊ trò
nên hết sức phức tạp.
Theo hiến pháp của nhiều nước qui định, Nghị viện
(Quốc hội) có quyền phê chuẩn việc mở các khoản thu
thuế. 0 nước Anh, ngoài việc quyết định các loại thuế,
Nghị viện Anh còn quyết định các loại thuế, Nghị viện
Anh còn quyết định cả các khoản kinh phí cho các bộ.
Sau khi giai cấp tư sản giành được chính quyên nhà
nước thì quyền hạn này của Nghị viện củng giông như
quyển lập pháp lại được chuyển dần từ tay Nghị viện ;ang
tay Chính phủ. Vào thời kì của chủ nghĩa tư bản nhà 1 ƯỚC
và hiện nay, mọi dự án ngân sách, thực hiện ngân iách
cũng như thẩm quyến khác của Nghị viện trong lĩnh vực

tài chính đểu nằm trong tay bộ máy cai trị hành pháp Và
đây cũng là một trong những biểu hiện sự khủng hoảng
của chế độ đại nghị. Ớ Mĩ, Nghị viện không bao giờ tiam
gia vào việc chuẩn bị các dự án ngân sách. Nhiện vụ
chuẩn bị dự án ngân sách do bộ phận quản lí ngân ỉách
hành chính của'tổng thông đảm nhiệm. Nghị viện M chi
180


việc phê ('huấn các dự án đã được chuẩn bị mà không cần
thiét phái thay đổi. ơ Nhật Bản, cũng như ỏ Italia. việc
các nghị sĩ không được quyên phát hiểu về sự gia tăng chi
phí ngân khỏ nhà nước nếu như nghị sĩ không chỉ ra được
nguồn thu hù vào đã trỏ thành một qui định của hiên pháp.
3.
Q uyển hạn, trách nhiệm của Nghị viện trong
lĩn h vực đối ngoại và phòng thủ quốc gia

Với tư cách là cơ quan đại diện quyền lực nhà nước,
Nglvị viện không những chỉ có quyên ban hành các văn bản
pháp luật mà còn có quyền quyết định số phận chung của
cộng đồng, củng như quyền thay mật cộng đồng đặt mốì
quan hệ ngoại giao với các cộng đồng khác. Theo qui định
hiên pháp từng nước, quyền hạn và trách nhiệm của nghị
viện trong lĩnh vực đối ngơại và quổíc phòng hết sức khác
nhau. Nhưng hiến pháp tất cả các nước đêu quy định Nghị
viện - cơ quan quyền lực đại diện của nhà nước - đều có
quyền quyết định chiến tranh và hoà bình. Cho đến nay có
thê nói rất ít Quốc hội thực hiện được quyền hạn này mà
tbưòng do Chính phủ đảm nhiệm. Quôc hội chỉ còn thụ động

phê chuẩn các quyết định đã rồi của bộ máy hành pháp.
Ngoài nhiệm vụ trên, Nghị viện còn được hiến pháp
qui định có quyền phê chuẩn các hiệp ước quốc tê đã được
ký kết. Theo quy định pháp luật Nhà nước Mĩ và pháp
luật Nhật Bản, tất cả các hiệp ước quốíc tê ký kết đều phải
được Nghị viện phê chuẩn. Không đồng nhất với qui định
này, ở Pháp, Italia, Cộng hoà liên bang Đức, Nghị viện chỉ
được phê chuẩn các hiệp ước quan trọng.
Khi phê chuẩn, Nghị viện Pháp không xem xét từng
điểu khoản của hiệp ưốc mà chỉ phê chuẩn hay không phê
chuẩn toàn văn bản hiệp ước. Nhiều nước qui định tương
181


tự như của Pháp. Nhưng ỏ Mĩ thì lại khác, khi phê chuẩn
các hiệp ước, Quôc hội Mĩ có thê xem xét đồng ý hoặc
không đồng ý từng điều ước cụ thể; và có thê đưa ra những
chỉnh lí của mình.
Hiến pháp của Italia, Đan Mạch, Tây Ban Nha còn qui
định, thay cho việc phê chuẩn những hiệp ước đã được ký
kết rồi, Nghi viện có quyền đồng ý trước các hiệp ước quốc
tê quan trọng có liên quan đến vấn đê chính trị, chiến
tranh, tài chính, đến lãnh thổ, và những hiệp ước thay đôi
những đạo luật đang hiện hành, hoặc dẫn đến việc ban
hành một đạo luật nữa.
Theo quy định của hiến pháp các nước, Nghị viện có
quyền thảo luận các hoạt động đôi ngoại của Chính phủ.
Trên thực tê thẩm quyền này chỉ được Nghị viện thực hiện
một cách hình thức. Vê cơ bản, Nghị viện chỉ làm động tác
phê chuẩn các hoạt động đối ngoại của Chính phủ mà thôi,

chứ không mấy khi Nghị viện điều chỉnh các hoạt động đôi
ngoại của Chính phủ.

4.
Quyến hạn của Nghị viện trong lĩnh vực tư
pháp (xét xử)
Quyền hạn và trách nhiệm của nghị viện trong lĩnh
vực tư pháp là hết sức hạn chế. Phần lớn, theo qui định
của hiến pháp các nước tư bản, Nghị viện có quyền luận
tội các quan chức cao cấp nhất của nhà nước, từ hàm bộ
trưởng cho đến nguyên thủ quốc gia. Thủ tục xét xử này
được gọi là thủ tục đàn hạch. Thủ tục này lần đầu tiên
được áp dụng ỏ Anh, khi các bộ trưởng, theo qui định cửa
pháp luật, phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Hiện
nay, vê mặt pháp lí thì Nghị viện Anh vẫn có quyền buộc
tội bất cứ bộ trương nào, nếu cho rằng bộ trương đó phạm
182


tội chính trị hoặc các trọng tội khác và Thượng Nghị viện
(Viện nguyên lão) cỏ quyên két tội. Nhưng thực tê quyển
nay của Nghị viện Anh chí còn là hình thức. Lần cuối cùng
quyền này điíỢc thực hiện ỏ Anh là nám 1805.
Cũng tưõng tự như vậy, Hiên pháp Mĩ quy định: Hạ
n^hị viện có quyên buộc tội các quan chức cao cáp của Nhà
nước Mĩ kê cả nguyên thủ quốc gia là Tổng thông Mĩ. Khi
luận tội Tổng thống Mĩ hoặc Phó Tổng thống Mĩ thì điêu
khiển phiên họp xét xử của Thượng viện là Chánh án Toà
án tôi cao. Hình phạt được đưa ra là cách chức đôi với
quan chức phạm tội. Các hình phạt khác do các toà án

tuyên phạt theo thủ tục bình thường.
ở một sô nước khác như Pháp, Italia, Nhật và những
nước chỉ có co' cấu một viện thì việc khởi tô những vụ án
nói trên thuộc vê thẩm quyền của toàn Nghị viện. Sau đó
vụ án được chuyển cho Toà án đặc biệt (Pháp, Nhật, Đan
Mạch, Hy Lạp...) hoặc vê Toà án hiến pháp (Cộng hoà Liên
bang Đức, Italia) hoặc về Toà án tôi cao (Tây Ban Nha,
Thuỵ Điển) xem xét.
Chức năng xét xử của Nghị viện đõi với quan chức cao
cấp mặc dù mang nhiều dấu hiệu của chê độ dân chủ
nhiíng cho đến nay rất ít được thực hiện, kể cả ở chính thể
Cộng hoà tổng thông. Trong lịch sử của nước Mĩ, thủ tục
đàn hạch được áp dụng 13 lần, chỉ có 4 lần Thượng nghị
viện kêt được tội. Trong sô này có 5 đời tống thông, 3 lần bị
Thượng viện từ chối không kết được tội, 2 lần tổng thống
phải từ chức (năm 1868, E.Dzonson và 1974, Nichsơn buộc
phải từ chức sau khi Uỷ ban pháp luật của Hạ viện đặt
vấn đề khỏi tố theo thủ tục đàn hạch).
ỏ Anh, Thượng Nghị viện (Viện đại quan) là toà án cao
nhất có chức năng xét xử các kháng nghị của Toà án tôi
183


cao và Toà án các cấp dưới. Thượng viện có trách nhièm
xét xử theo thủ tục thượng thẩm đốì với bản án hình sự đà
được Toà án tốì cao xét xử chung thấm theo đê nghị (ùa
Tổng công tô" (Generalis attorney) nếu như vụ án hình sự
đó có ý nghĩa toàn quốc. Việc xem xét các vụ án nêu trên
do các thẩm phán - thượng nghị sĩ - có kinh nghiệm chủ
toạ. Thẩm phán này do Nữ hoàng bổ nhiệm theo đê nghị

của Thủ tưóng. Quyết định của Toà án Thượng viện là
quyết định cuốỉ cùng.

5.
Quyền hạn của Nghị viện trong lĩnh vực giám
sát hoạt động bộ máy hành pháp
ở chính thể cộng hoà đại nghị hay ở chính thể quân
chủ đại nghị, hành pháp phải chịu trách nhiệm trước lập
pháp. Điều này được qui định rõ ràng trong hiến pháp:
Chính phủ được tiếp tục hoạt động khi vẫn còn tín nhiệm
của Quốíc hội. Trong trường hợp mất tín nhiệm, Chính phủ
bị lật đổ hay buộc phải thay đổi thành phần. Bởi vì ỏ hai
loại chính thể này, Chính phủ được thành lập dựa trên cơ
sở của Quốc hội (Nghị viện).
ở chính thể cộng hoà Tổng thống, với việc áp dụng học
thuyết phân quyền một cách tuyệt đôì, tổng thống - người
đứng đầu bộ máy hành pháp - không chịu trách nhiệm
trước Quồc hội. Với lí do hành pháp không được thành lập
trên cơ sở Quốic hội, tổng thống do cử tri trực tiếp (hoặc
gián tiếp) bầu ra nên vấn đề hành pháp phải chịu trách
nhiệm trước luật pháp không được lập pháp qui định một
cách chi tiết, tức là hành pháp không chịu sự giám sát của
lập pháp.
Nhưng dẫu sao, Chính phủ vẫn phải chịu trách nhiệm
trưóc Nghị viện. Đây là một đòi hỏi của tiến bộ, của dân
chủ tư sản. Chifth phủ tư sản phải thừa nhận rằng cơ
184


quan dại diện do cử tri trực tiếp bầu ra là một trong

những hình thức thế hiện chủ quyên của rứ ìn dân. Điều
đó đuỢc tuyên hố hay không tuyên bô trong Hiến pháp, thì
trong tiềm thức của nhân dân, cơ quan lập pháp vẫn là cơ
quan cao nhất trong bộ máy nhà nước, có quyền thông qua
các ván bản luật. Còn Chính phủ chỉ là cơ quan thực hiện
các ván bản luật và chi được phép tiếp tục hoạt động khi
vẫn còn tín nhiệm trước cơ quan lập pháp. Chính những
ngu-yẽn nhân trên làm cơ sở cho cơ quan hành pháp buộc

phải ùhịu sự kiểm tra (giám sát) của Nghị viện. Chính hệ
thốmg "kiềm chẽ và đôì kroKg-Uxong Hiến pháp Mĩ là cơ sỏ
pháp lí cho việc hành pháp phải chịu trách nhiệm trước
lập pháp, phải chịu sự giám sát của lập pháp.
Trường hợp Hiến pháp quy định Nghị viện có quyển
giám sát tư pháp là rất hãn hữu. Điều này được giải thích
bằng mấy lí do sau đây:
Tnứ nhất, tư pháp
mình luôn luôn là độc
kháng nghị, kháng cáo
việc cụ thế sẽ được xét
thẩm giám đôc thẩm.

trong tổ chức và hoạt động của
lập. Trong trường hợp có những
về quyết định của Toà án về vụ
xử lại theo thủ tục tô tụng, phúc

Tnứ hai, trong một số trường hợp Thượng viện của lập
pháp được Hiến pháp quy định như là 1 loại toà án tôi cao
(Anh quốc).

Vi vậy, giám sát hoạt động của Chính phủ là một trong
những chức năng quan trọng của Nghị viện tư sản.
ĩ)«m đặc biệt ở đây khác với qui định của các nước xã
hội chủ nghĩa, trong pháp luật tư sản Nghị viện được qui
định ỉhủ yếu giám sát hoạt động của Chính phủ. Bởi vì
trong bộ máy nhà nước tư sản, mọi hoat động thi hành

185


pháp luật đều nằm trong tay Chính phủ. ở đó không có cơ
cấu Viện kiểm sát, chức năng công tô nằm trong chức
năng của Chính phủ. Tổng thống là người đứng đầu hành
pháp, nếu không chỉ nguyên thủ quốc gia là nhái vật
tượng trưng cho nhà nước. Chánh án, thẩm phán thi hành
nhiệm vụ sau khi được hành pháp bổ nhiệm.
Việc thực hiện quyền giám sát của Nghị viện, ^iống
như các quyền khác, phụ thuộc hoàn toàn vào hình thức
chính thể. ở chính thể đại nghị, Nghị viện thực hiện
quyển hạn này một cách đa dạng nhưng lại khỗng (ó kết
quả cao vì Nghị viện phụ thuộc vào Chính phủ và có thể bị
giải tán khi quá căng với Chính phủ. Ngược lại ở chírh thể
tổng thống cộng hoà thì việc thực hiện quyền hạn niy lại
có hiệu quả cao vì Chính phủ không có quyền giầ tán
Nghị viện.

Theo pháp luật qui định trong chê độ đại nghị, các hìnì thức
thực hiện chức năng giám sát của Nghị viện đối với hoại động
của Chính phủ thường được qui định dưới các dạng sau đây:
a.

Chính phủ có thể đặt vấn đề không tín nhiện của
mình trưốc Nghị viện. Đây là biện pháp chỉ được áp lụng
ỏ chính thể cộng hoà Nghị viện, tức nơi Chính phủ được
thành lập trên cơ sở thành phần nghị sĩ. Ớ đây, Chínl phủ
chỉ được thi hành nhiệm vụ hành pháp của mình kh vẫn
còn có tín nhiệm với Quốc hội. Khi mà Chính phủ cảm
thấy không còn tin tưởng vững chắc vào sự tín nhiện của
Quốc hội thì tự nêu lên vấn đê tín nhiệm của mình rước
Quốc hội. Sự đặt vấn đê bất tín nhiệm này có thể đưạ bắt
đầu bằng việc Quốc hội không đồng ý thông qua các (ê án
mà Chính phủ đệ trình, nhất là dự án ngân sách hoặ' các
dự án luật. Theo Hiến pháp Đệ ngũ cộng hoà Pháp khi
€ í

186


Quóc hội không chấp thuận chưdng trình, hay chính sách
do Chính phủ đệ trình thi Thủ tướng phải đệ đơn xin Tống
thón^ cho nội các từ chức.
Khi Chính phú không tự biết mình phái rút lui, thì
Quôe hội. theo qui định của pháp luật, có quyền nêu vấn
đề hát tín nhiệm bàng cách thông qua quyết định khiển
trách Chính phu. Việc chấp thuận kiến nghị khiên trách
Chính phủ làm cho Chính phủ dương nhiên phải từ chức.
Hai trường hợp nêu trên trong khoa học pháp lí gọi là kỹ
thuật lật đô Chính phủ. Trường hợp thứ nhất sáng kiến nằm
ỏ phía Chính phủ. trường hợp thứ hai nằm ở phía Quốc hội.
Sụ bất tín nhiệm để lật đồ Chính phủ là một chê tài
gay gắt, nên đê hạn chê việc dùng nó, pháp luật qui định

một sô điểu kiện khắt khe khi sử dụng. Hạn chê thứ nhất
thường được áp dụng khi đòi hỏi phải có một sô nghị sĩ kí
tên vào kiến nghị bất tín nhiệm thì kiến nghị mới được
cứu xét. Điều 49 Hiến pháp Pháp nền Cộng hoà thứ V qui
định: "Quốc hội (Hạ viện) có thể đặt vấn đề tín nhiệm
Chính phủ bằng việc thông qua một nghị quyết khiển
trách. Dự án nghị quyết khiển trách Chính phủ được Hạ
viện thảo luận chỉ khi có ít nhất 1/10 tổng số hạ nghị sĩ có
chữ ký đồng ý. Hạn chê thứ hai là việc biểu quyết chỉ được
tiên hành trong vòng một thời gian ngắn từ 1 đến 3 ngày
kê từ khi dự thảo nghị quyết khiển trách được đệ trình, ở
Pháp là 2 ngày (48 giờ), ở Italia là 3 ngày. Hạn chê thứ ba,
nếu nghị quyết không được quá bán tổng sô" hạ nghị sĩ đồng
ý thi trong suốt thời gian tiến hành khoá họp, những tác
giả của nó không được quyền đưa ra lần thứ hai. Hạn chê
thứ tư quốc hội có thê bị giải tán theo đề nghị của Chính phủ.

Trường hợp Chính phủ tự đặt vấn đề tín nhiệm trước
Quốc hội chỉ được sử dụng trong giai đoạn hiện nay đê có
187


lợi cho Chính phủ. Theo qui định của các nước áp dụng chê
định này, Chính phủ có quyền giải tán Nghị viện và ấn
định cuộc bầu cử mới. Thực tê cho thấy, Chính phủ t í sản
thường dùng biện pháp này để đe doạ Nghị viện trước
thảm hoạ có thể bị giải thể, buộc Nghị viện phải thôn? qua
các dự án, chính sách của Chính phủ.
b. Chất vấn Chính phủ. Chất vấn là sự đòi hỏi buộc
Chính phủ phải trình trước Quốc hội vê việc thực hiện các

chính sách đối nôị và đổì ngoại, hoặc về một vấn đê nào đó
trong hoạt động của Chính phủ. Cũng giống như những
trưòng hđp trên, muốn trỏ thành một chất vấn, buộc hành
pháp phải điều trần trước Nghị viện, chất vấn phải đưực
một lượng nghị sĩ nhâ't định đồng ý ủng hộ. Ví dụ, ở Cộng
hoà liên bang Đức chất vấn bằng văn bản phải có chữ ký
ủng hộ của ít nhất 15 nghị sĩ.
c. Những câu hỏi miệng hoặc bằng văn bản. Đìy là
hình thức được áp dụng rộng rãi trong các nghị viện ti sản
để kiểm tra hoạt động của Chính phủ. Khác với chất vấn,
những câu hỏi miệng và viết không qui định thủ tụ< tiến
hành một cách cụ thể trong qui chế Nghị viện. Chúng được
dùng như một phương pháp thông tin. ở Nghị viện nước
Anh và những nước theo hệ thông pháp luật Anh, nhiều
phiên họp thường được bắt đầu bằng "giò câu hỏi". Sau trả
lòi Hạ Nghị viện không cần phải thảo luận, khônj cần
phải biểu quyết.
d. ở nhiều nưỏc tư bản, chức năng giám sát (kiêm tra)
hoạt động của Chính phủ được Nghị viện giao cho Ưỷ ban
thường trực, hoặc uỷ ban đặc biệt được thành lập đê kiểm
tra một vấn đề, một hoạt động nào đó của Chính phủ.
đ. Hoạt động của nhân viên kiểm tra. ở nhiều nvớc tư
bản, ngay từ đầu thê kỷ 19, để thực hiện chức năng giám
188


sát hoạt động bộ máy hành pháp và các quan chức trong
hộ máy này, Nghị viện bô nhiệm một sô người chuyên
đám nhiệm chức năng này gọi là nhân viên kiểm tra
(ambudman). Chê định này bắt đáu được áp dụng ò Thuỵ

Điên năm 1809 và sau đó được nhiều nước khác áp dụng.
Chức năng của các ambucìsman này điều tra các hoạt động
quản lí của các quan chức trong hộ máy hành pháp theo
đơn khiếu nại, tô cáo của công dân. Kết quả điêu tra phải
háo cáo trước Quốc hội.
Một khái niệm hết sức gắn bó với thẩm quyên và nhiều
khi được dùng thay cho thẩm quyền, hoặc ngược lại, đó là
khái niệm "chức năng". Một sô nhà khoa học cho rằng chức
nảnjr là phương hướng cơ bản thực hiện thâm quyền110.
Nhưng theo quan điểm của tôi, ý kiến trên phần nào chưa
thực sự chính xác. Chức năng là một khái niệm khái quát
hoá cao từ những nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan nhà
nước. Qua khái niệm này cho phép chúng ta xác định được
vị trí của cd quan nhà nước trong hệ thông các cơ quan
nhả nước.
Qua chức năng xác định sự tồn tại của cơ quan nhà
nước đó. Có khi chức năng của cơ quan nhà nước được xác
định
bởi một

* nhiệm
• vụ• lớn nhất, bao trùm nhất mà cơ
quan nhà nước đảm nhiệm. Vì vậy, nhiều chức năng trùng
vói nhiệm vụ (thẩm quyền) của cơ quan. Chức năng là
khái niệm đầu tiên thực hiện sự phân công, phân nhiệm
giữa các cư quan nhà nước. Quốc hội có chức năng làm
luật. Chức năng làm luật là chức năng cơ bản nhất, đồng
thời là nhiệm vụ cơ bản nhất của quổíc hội. Cho nên Nghị
ÌW Xem: Li luận chung vế Nhà nước và Pháp luật - Trường Đại học Pháp
lí, Hà Nội, 1992 (phần nói về chức năng Nhà nước).


189


viện với cơ quan lập pháp nhiều khi được dùng đồng nghĩa
với nhau, không phân biệt. Mặc dù như trên phân tích,
Quổc hội (Nghị viện) có chức năng giám sát hoạt động của
Chính phủ (hành pháp). Nhưng không mấy ai gọi chức
năng giám sát là chức năng chủ yếu của Quốc hội. Hoặc
không ai có thể gọi Nghị viện là cơ quan giám sát. Vì vậy,
phải chăng là có thể đặt chức năng giám sát là chức nấng
thứ yếu của nghị viện đề góp phần tăng cường hiệu quả
lập pháp của nghị viện?
III. C ơ CẤU NGHỊ VIỆN

Quôc hội của các nước tư sản thường có cơ cấu hai viện:
Thượng viện và Hạ viện.
Cơ cấu hai viện này trước hết được áp dụng cho nhà
nưốc liên bang, tức là nhà nước liên bang Nghị viện có cơ
cấu hai viện. Hạ viện là viện đại diện cho ý chí của toàn
liên bang không phân biệt các bang hợp thành, do toàn cử
tri của liên bang bầu ra. Thượng viện là viện phải đại diện
cho ý chí của các bang và mối liên hệ giữa các bang với
nhau do cử tri của từng bang bầu ra rồi nhóm họp lại. Ó
đây, các viện đều tham gia vảo việc giải quyết các công
việc của toàn liên bang. Vì nhiệm vụ khác nhau, cho nên
có sự phân biệt giữa Hạ viện và Thượng viện: Thượng viện
có nhiệm vụ này lại không có nhiệm vụ kia và ngược lại
công việc này thuộc về chức năng của Hạ viện mà không
thể là của Thượng viện. Vì vậy, không thể nói rằng viện

này có nhiều quyền năng hơn, hoặc viện kia có ít quyền
năng hơn.
•«* *'

Nghị viện Mĩ là một ví dụ của Nghị viện có cơ câu hai
viện thuộc Nhà nước liên bang. Thượng viện được gọi là
Senat, là viện đại diện cho ý chí của 50 bang hợp thành
190


Hợp chủng quốc Hoa Kì gồm 100 thượng nghị sĩ, không
phán biệt bang to. bang nhỏ, mỗi bang hai đại diện. Hạ
Nghị viện là viện đại diện cho ý chi của toàn liên hang do
cử tri toàn liên hang trực tiếp báu ra gồm 438 hạ nghị sĩ.
Quyôn hạn. trách nhiệm của các viện rất khác nhau xuất
phát tư bản chất như đã nêu trên của mỗi viện. Ví dụ, Hạ
Nghị viện Mĩ có quyền buộc tội các quan chức cao cấp nhất
của Nhà nước Mĩ kê cả tống thông nhưng lại không có
quyển luận và kết tội, quyền này thuộc vê Thượng viện Mĩ.
Khi phân tích lịch sử hình thành cơ cấu hai viện của
Nghị viện Mĩ, có tác giả cho rằng đê đạt mục đích cân
bằng với bộ máy hành pháp, tránh cho Nghị viện quá cao
sẽ trở thành lân át các cơ quan nhà nước khác, người làm
luật Mĩ đã chia Nghị viện Mĩ ra làm hai viện. Ngược lại,
dựa vào lịch sử hình thành Nhà nước Mĩ, có người đã cho
rằng tại hội nghị lập hiến Philadenphia hình thành hai
phe đỏi lập: đại diện cho các bang lớn, với dân số đông
muôn nghị sĩ được phân bô' theo sô" dân không phân biệt
các bang; đại diện cho các bảng nhỏ dân sô" ít hơn, thì lại
yêư (‘ầu mỗi bang phải có một đại diện ngang nhau trong

cơ quan lập pháp. Giải quyết mối quan hệ này, các nhà lập
hiến sau này được gọi là "nhừng người cha sáng lập lên
Hợp chủng quôc" đã đưa ra một phương án thoả hiệp. Đó
là Quốc hội Mĩ gồm hai viện.
Cơ cấu hai viện không phải là cơ cấu đặc thù của nhà
nước liên bang. Không ít những nước có lãnh thổ là đơn
nhất nhưng vẫn có cơ câu là hai viện. Ví dụ như ỏ Anh, ỏ
Nhật Bản, ở Italia... và nhiều nước khác. Hạ viện thường
do phố thông đầu phiếu bầu ra, đại diện cho quyền lợi của
tầng lớp thị dân, nông dân, trí thức, tư sản mới... Vì vậy,
thường được gọi là Viện thứ dân. Thượng viện, thường là
191


viện đại diện cho giới thượng lưu cúa giai cấp phong kiến,
tư sản dân tộc, không clo phố thông đầu phiếu trực tiếp,
mà bằng nhiều phương pháp rất khác nhau, có thả bầu
gián tiếp, có thể do bổ nhiệm, hoặc thậm chí có thê là clo
truyền ngôi; thường được gọi là Viện Nguyên lão.
Nước Anh là một trong những nước có cơ câu hai viện
vào loại sớm nhất. Người ta thường nói nước Anh là quê
hương của Nghị viện hai viện. Ngay từ thế kỷ thứ 14, ở
đây đã có cơ cấu hai viện. Hạ Nghị viện có cơ cấu 6 55 đại
biểu do nhân dân trực tiếp bầu ra; Thượng viện được hình
thành từ 4 loại thượng nghị sĩ: 1. Truyền ngôi cho nhũng
quan chức phong kiến có phẩm hàm từ bá tước trở ên; 2.
Suốt đòi cho những phẩm hàm từ bá tước trở xuôn?111; 3.
Các thủ lĩnh tôn giáo đương nhiệm; 4. Thủ tướng Anh hết
nhiệm kì; 5. Một sô" khác do đích thân Hoàng đê bô rhiệm.
Tính đến nay có tói hơn 1.100 thượng nghị sĩ.

Ở những nước này, quyền hạn và trách nhiệm của
Thượng viện và Hạ viện cũng rất khác nhau. Là đại diện
của thê lực bảo thủ, của giai cấp lỗi thời đã hết vai tĩò lịch
sử trong xã hội, thượng viện hoạt động rất hình thức và có
tính chất danh nghĩa, là thê lực kiềm chế và đối trọng của
Hạ viện. Ghính vì vậy, nhiều người ngay trong giai íấp tư
sản đã đề nghị cần phải giải tán Thượng viện. Nhưng cho
đến nay Thượng viện vẫn tồn tại. Phải chăng ở đây ?ự tồn
tại của thượng viện là một minh chứng cho luận điển triết
học: "Mọi sự tồn tại đều thể hiện tính hợp lí của ciúng".
Sự tồn tại này được giải thích là để tránh sự vội vàằg của
Hạ viện, khi Hạ viện thông qua những quyết địrủ luật
111 Quan lại phong kiến Tây phương được chia thành 5 hạng: côig, hầu,
bá, tử, nam.

192


t heo sức ép của dân chúng. Bới vì khi có Thượng viện thì ít
nhát công đoạn làm luật, hay thông qua các quyết định
phai được tiên hành dài hơn. với những thủ tục rườm rà hơn,
đê n^ăn chặn mọi sự quá tả, vội vàng hấp tấp của Hạ viện.
Khi phân tích cơ cấu của Nghị viện, chúng ta phải kê
đến Vãn phòng của Nghị viện (Văn phòng Quốc hội), có nơi
còn íỉọi là Ưỷ ban thường vụ quôc hội như của nhà nước ta.
Văn phòng gồm cỏ: Chủ tịch, Phó chú tịch nghị viện, ơ đa
sô cúc nước tư bản, Chủ tịch hạ nghị viện và các Phó c h u r
tịch thường gắn với một đáng phái chính trị chiêm được da
sô ghê trong nghị viện. Chức năng chủ yếu của Chủ tịch.
Phó chủ tịch của Nghị viện là điều hành các khoá họp của

Nghị viện. Để tỏ rõ sự điều khiển vô tư của người điêu
khiên khoá họp, một sô nước quy định Chủ tịch phải từ bỏ
đảnị' phái của mình khi nhậm chức. Và một sô nước còn
quy định Chú tịch Nghị viện không được bỏ phiếu khi
Nghị viện thông qua các quyết định, trừ trường hợp sô
phiêu thuận và chông ngang nhau, thì ý kiến của Chủ tịch
là ý kiến quyết định. Ngoài việc điều khiển các khoá họp,
Chủ tịch Nghị viện còn có nhiệm vụ giải thích qui chê
Nghị viện.
Chủ tịch Hạ Nghị viện Anh có tên gọi là người phát
ngôn "Speaker", nguồn gốc là người thay mặt Nghị viện
chuyển những quyết định của Nghị viện Anh cho nhà Vua.
NgoÀi việc phát ngôn chính thức, Chủ tịch Hạ viện còn có
nhiệm vụ điều khiến các khoá họp của Hạ Nghị viện, phải
gánh trách nhiệm duy trì những đặc quyền, đặc lợi của
nghị sĩ.
0 một nước có Thượng viện, Chủ tịch Thượng viện có
thể không do Thượng viện bầu ra, mà chức danh này gắn
liền với bộ máy hành pháp. 0 Canađa, Chủ tịch Thượng
193


viện do Chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị cúa Thượng
viện. Ở Hoa Kì, Phó tổng thống đương nhiên là Chủ tịch
Thượng viện. Vì vậy, Chủ tịch Thượng viện gắn liền VỚI bộ
máy hành pháp, không mấy khi điểu khiển các phiên họp
của Thượng viện. Thượng viện phải bầu ra một Protempore
để điều khiển các khoá họp. Trong các phiên họp, Phó tông
thống có thể tham dự nhưng không bao giờ tham gia tr.inh
luận, chỉ biểu quyết khi có sô" phiếu ngang nhau.

Tiếp theo cơ quan thường trực, để thực hiện chức nâng
lập pháp cũng như những chức năng đa dạng, Nghị viện
các nước tư sản thường thành lập các ban, các nhóm nghị
sĩ có nhiệm vụ nghiên cứu, chuẩn bị các dự án quyết định
của Nghị viện. Các ban, các nhóm nghị sĩ được gọi là các
uỷ ban thường trực (các ủy ban chuyên môn) của Nghị
viện. Nói chung những uỷ ban này được tổ chức theo các
lĩnh vực cần phải thực hiện các chức năng của Nghị viện
gần tương ứng như các Nghị viện. Chức năng, nhiệm vụ
của nó là giúp cho Nghị viện chuẩn bị trước các dự án,
kiểm tra các hoạt động của Chính phủ. Thành phần của
chúng gồm có: Chủ tịch uỷ ban (có nơi gọi là Trưởng, hoặc
Chủ nhiệm uỷ ban), các Phó chủ tịch, Thư ký và các uỷ
viên uỷ ban. Các uỷ ban này được thành lập cho từng viện
của Nghị viện có cơ cấu hai viện, có uỷ ban được thành lập
chung cho cả hai viện.
Trong lịch sử của Nghị viện tư sản, vấn đề này được
giải quyết hết sức khác nhau.
ở Anh và các nước theo khối Liên hiệp Anh, các uỷ ban
chỉ được thành lập ra ở Hạ Nghị viện. Thành phần của các
uỷ ban này thường từ^T^đến^SÕ nghị sĩ, có trình độ
chuyên môn sâu phù hợp với từng dự án luật, do một uỷ
ban đã được thành lập sẵn gọi là "Uỷ ban lựa chọn" chỉ
194


định, trừ Chú tịch uỷ ban được thành lập trước. Cách thức
thành lập uỷ ban này người ta gọi là các ủy ban tìm đến
dự án luật. Đối với dự án quan trọng như: tài chính, ngân
sách... thì uỷ ban này là Uý han toàn viện. Tức là toàn thê

hạ nghị sĩ Hạ viện họp đê xem xét thảo luận trước, đê tiện
lợi cho việc thông qua ỏ phiên họp chính thức. Khác phiên
họp chính thức, phiên họp của uỷ.ban toàn thể không CỈO
Speaker chú trì mà do một nghị sĩ có uy tín được bầu lên
chủ toạ. Các uỷ ban thường trực được gọi là các uỷ ban
thường trực lập pháp. Ngoài những uỷ han này đê giám
sát hoạt động của bộ máy hành pháp. Hạ Nghị viện Anh
còn thành lập 14 uỷ ban tương ứng với 14 bộ. Các uỷ ban
này có nhiệm vụ xem xét việc chi tiêu, quản lí, chính sách
của các hộ và được gọi là các uỷ ban chuyên môn. Hệ thống
uỷ han của Nghị viện Pháp khác một cách rõ rệt với hệ
thống của Anh. Mặc dù các uỷ ban của Nghị viện Anh
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp và
giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhưng chúng
chỉ là những bộ phận phụ thuộc Nghị viện. Ngược lại, các
uỷ ban của Nghị viện Pháp không những là công cụ quan
trọng trong quá trình lập pháp, mà còn là một phần đáng
kể quyền lực của Nghị viện.
Ó Pháp có hai loại uỷ ban: uỷ ban thường trực và uỷ
ban đặc biệt. Dưới nền Cộng hoà thứ IV, luật pháp không
quy định phải hạn chê số lượng uỷ ban thường trực. Các
uỷ ban này đã kiểm soát toàn bộ chương trình lập pháp
của Nghị viện. Nhưng đến Hiến pháp năm 1958, nền Cộng
hoà thứ V. cùng với việc hạn chê quyền lực của Nghị viện,
Thưựng và Hạ nghị viện chỉ được phép thành lập một sp
lượng hạn chê các uỷ ban - sáu uỷ ban. Sáu uỷ ban thường
trực này có nhiệm vụ xem xét, nghiên cứu trước các dự án
195



luật và giám sát hoạt động cúa bộ máy hành pháp. Theo
đề nghị của Chính phủ, của các uỷ han thường trực hoặc
của ít nhất 20 nghị sĩ, Nghị viện thành lập các uỷ btn đặc
biệt đê xem xét, nghiên cứu trước một số dự án luậ' hoặc
dể giải quyết bất kì một vấn đề cụ thê nào. Ngoài n h ũ n g u ỷ
ban trên, hai viện còn có thể thành lập các uỷ ban hung
hoặc các uỷ ban điểu tra đặc biệt.
So vối hai Nghị viện của hai Nhà nước tư bản phá’, triển
nêu ở phần trên thì ở Mĩ, hệ thống các uỷ han của Quốc
hội Mĩ có qui mô, có quyên lực rộng lớn và trong hoạ, động
có tính độc lập hờn cả. Loại thứ nhất là các uỷ ban thường
trực được thành lập theo qui định của pháp luật, nhểu uỷ
ban trong số này có ngân sách riêng. Loại thứ hai, 'ác uỷ
ban đặc biệt được thành lập theo quyết định của mồ. viện,
đê nghiên cứu, điểu tra một hoạt động nào đó của bộ máy
hành pháp. Các uỷ ban Quốc hội Mĩ ngoài việc nghiên cứu,
xem xét trước các dự án, còn có quyền giám sát một cách
độc lập hoạt động của các quan chức trong bộ máy hành
pháp. Với thẩm quyền to lớn này, nhiều ngưòi cho rịng uỷ
ban của Quốc hội Mĩ có tói 16 uỷ ban thường trực ở Ihượng
viện và 22 ủy ban ở Hạ viện. Giống như Nghị viện Anh,
trong hệ thống các uỷ ban hoà giải, để giải quyết nhữig vấn
đê' chuyên sâu, trong cơ cấu uỷ ban Quốc hội Mĩ còt phân
thành các tiểu ban.
Khác với các nước XHCN trước đây trong hoạ: động
của các Nghị viện tư sản vai trò đảng phái có ý ngỉĩa hết
sức quan trọng. Các đảng viên thuộc một đảng phìi họp
thành một nhóm đảng phái của Nghị viện"2. Các nghị sĩ
tư sản không chịu trách nhiệm trước cử tri, không b cử tri
"■ Xem: Chương V Các đảng phái chính trị của giáo trình này.


196


hãi niién. chi chịu trách nhiệm trước đảng phái trực thuộc
uỉanịí đã giới thiệu mình ra ứng cu). Quan điểm ngự trị
tron^ pháp luật tư sán, nghị sĩ là người đại hiểu cho cả
dán tộc chú không đại biếu cho củ tri đơn vị hầu cứ đã bầu
ra n^hị sĩ. Vì vậy, nghị sĩ tư sản không cần phải liên hệ
với cử tri. Điều 38 Hiên pháp Cộng hoà liên bang Đức quy
định: "Đại biêu Hạ nghị viện (Bundestag) là người đại diện
cho C'á nhân dân Đức, chỉ hoạt động theo lương tâm của

mình, không theo sự uỷ nhiệm của cử tri".
Việc nghị sĩ không phái chịu trách nhiệm trước cử tri
và không bị hãi miễn được giải thích bằng nguyên nhân: 1.
Nghị sì phái chịu trách nhiệm trưóc đàng mà đại biếu trục
t huộc; 2. Nghị sĩ phụ thuộc vào những tô chức, công ty đã
bỏ tiền vận động bầu cử (bó phiếu) cho nghị sĩ; 3. Quyền
uỷ thác của củ tri đã được hoàn lất ớ công đoạn bỏ phiêu
của cử tri.
Tổng sô đại biểu Nghị viện tư sán rất khác nhau. Nếu
như Nghị viện có cơ cấu hai viện, thì thường Hạ viện (Viện
thứ dân) có nhiều đại biểu hơn. Nhưng cũng có trường hợp
ngược lại, Thượng viện của nước Anh thì lại nhiều hđn Hạ
viện: Thượng viện 1118; còn Hạ viện 635. Mọi người đều
thừa nhận rằng, đã là Nghị viện thì phải là đông ngưòi,
càng đông bao nhiêu càng có khả năng thực hiện chức
năng đại diện và càng thảo luận hăng hái bấy nhiêu. Quốc
dân đại hội của Trung Quốc có tới hơn 2000 người.

Thông thưòng Quốc hội các nước (Hạ Nghị viện) có con
số khoảng chừng từ 400 đến 600 đại biểu. Nhiều người giải
thích rằng vói con sô khoảng này cho phép các khoá họp
của Nfihi viện tính đến một cách tương đôi đầy đủ và
chuẩn xác các ý kiến của nghị sĩ, bằng những phương tiện
khoa học hiện đại ngày nay.
197


×