Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

KIEN THUC GIAC NGU nguoi benh tang huyet ap

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.42 KB, 12 trang )

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ GIẤC NGỦ
Ở NGƯỜI BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH
VŨ THỊ MINH PHƯỢNG
Trường đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về giấc ngủ của người bệnh tăng
huyết áp điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả ngang được
thực hiện trên 400 người bệnh. Sử dụng thang đo SKQ (Sleep Knowledge
Questionaire) để đánh giá kiến thức về giấc ngủ và sử dụng tỷ lệ phần trăm
và các bảng tần suất để mô tả thực trạng kiến thức về gi ấc ng ủ của ng ười
bệnh.
Kết quả: Số người bệnh trả lời đạt trên 50% số câu hỏi là 70,25% với số
điểm trung bình là 5,18 ± 6,90 điểm, điểm thấp nhất là -14 điểm, điểm cao
nhất là 26 điểm trên dải điểm -30 đến 30 điểm.
Kiến thức vệ sinh giấc ngủ: Hầu hết người bệnh(99%) nhận thức được
dành thời gian thư giãn trước ngủ có lợi cho giấc ngủ, 80% biết rằng để tình
trạng khát nước trước khi ngủ sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ. Tuy nhiên, việc
nhận thức được việc hút thuốc lá sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ thấp 37%, chỉ có
38% nhận thức được rằng để bụng đói khi đi ngủ là việc không nên. Rất ít
người(13,2%) trả lời đúng việc uống rượu khoảng 3 chén nhỏ sẽ ảnh h ưởng
đến giấc ngủ và chỉ có 11,5% nhận thức được một số chất kích thích th ường
ngày hay dùng như nước chè cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ.
Kiến thức về hành vi điều trị giấc ngủ: Hành vi thức dậy cùng một thời gian
mỗi ngày hay hành vi không nên nằm trên giường và cố gắng ngủ lại khi bị thức
giấc giữa đêm hay độ dài xấp xỉ mỗi đêm như nhau không ành hưởng đến giấc ngủ
thì người bệnh hầu như trả lời đúng lần lượt là 79,8%; 73,2%; 79,2%. Tuy nhiên,
hành vi đi ngủ vào cùng một thời gian mỗi đêm sẽ làm phá vỡ giấc ng ủ có đ ến
70,8% trả lời sai và 10,5% trả lời không hề biết. Hầu h ết người b ệnh nh ận



thức sai(57,2%) hoặc không biết(16%) về hành vi nằm lại trên giường lâu hơn
thời gian cần thiết để ngủ, hay như hành vi tương tự để đạt được gi ấc ng ủ
cần thiết ví dụ 8 tiếng thì nên nằm lại trên giường lâu hơn ví dụ 10 ti ếng thì
hầu hết đã trả lời sai vì cho rằng đó là hành vi đúng và chỉ có 32,8% nhân th ức
được điều này.
Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy lỗ hổng kiến thức về
giấc ngủ là rất phổ biến ở người bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại trú b ệnh
viện Đa khoa tỉnh Nam Định trong cả hai lĩnh vực là kiến thức vệ sinh gi ấc ngủ
và kiến thức về hành vi điều trị giấc ngủ.
Từ khóa: kiến thức giấc ngủ, vệ sinh giấc ngủ, tăng huyết áp.
ABTRACT
SLEEP KNOWLEDGE OF OUTPATIENTS TREATMENT WITH
HYPERTENSION IN NAM DINH GENERAL HOSPITAL
Objective: To describe the sleep knowledge of outpatients treatment with
hypertension in Nam Dinh general hospital.
Method: The cross sectional study was conducted among 400 patients. SKQ
(Sleep Knowledge Questionaire) was applied to assess the sleep knowledge and
used percentage and frequency tables to cross reality sleep knowledge for
patients.
Result: The number of patients answered over 50% of the questions is
72.25% with an average score of 5.18 ± 6.90, The lowest point is -14 points, the
highest point is 26 points with the score range of -30 to 30.
Sleep hygiene knowledge: Most patients (99%) are aware that spending time
before sleep is good for sleep, 80% of patients know that to thirst before bedtime
will affect sleep. however, there are few people who are aware that smoking will
affect sleep (37%), only 38% of patients are aware that it is not advisable to go
to bed hungry. very few patients (13.2%) correctly answered that drinking
about 3 small cups will affect sleep and only 11.5% of patients are aware of
some common stimulants or use as water Tea can also affect sleep quality.



Knowledge of sleep treatment behavior: The question about waking up at
the same time every day or behavior should not lie on the bed and try to sleep
again when waking up in the middle of the night or the same sleep time every
night does not affect sleep of patients correctly answered 79.8%; 73.2%; 79.2% .
However, up to 70.8% of people wrong answer about behavior who go to bed at
the same time every night and 10.5% answered without knowing. most people
are wrongly aware (57.2%) or do not know (16%) about bedtime behavior
longer than the time needed to sleep or similar behaviors to achieve the
necessary sleep, for example 8 hours, should stay in bed longer as 10 hours. Most
of them answered wrongly because they thought it was the right behavior and
only 32.8% were aware of this
Conclusion: In our study, the knowledge gap about sleep is very common in
patients with outpatient hypertension treatment in Nam Dinh General Hospital
in both areas of knowledge of sleep hygiene and ant awareness of sleep
treatment behavior.
Key word: sleep knowledge, sleep hygiene, hypertension.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kiến thức về giấc ngủ có thể góp phần tác động lên hành vi ngủ của
người bệnh bao gồm kiến thức về vệ sinh giấc ngủ, về nh ững hành vi đi ều
trị giấc ngủ. Kiến thức về giấc ngủ có sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới
chất lượng giấc ngủ [6],[7]. Giấc ngủ là một yếu tố có liên quan đến nguy cơ
phát triển bệnh và kết quả điều trị và chăm sóc người bệnh nói chung và
người bệnh tăng huyết áp[THA] nói riêng [3]. Mối quan hệ giữa thời gian ngủ
ngắn, mất ngủ với THA, và các yếu tố nguy cơ của các bệnh lý tim m ạch đã
chứng minh [4], [3], [5]. Nghiên cứu của James và cộng sự [9] đã chỉ ra rối
loạn giấc ngủ có liên quan chặt chẽ đến bệnh lý tim m ạch và th ời gian ng ủ
đầy đủ là một yếu tố quan trọng để phòng ngừa và kiểm soát THA. Trong
một số nghiên cứu trước về kiến thức vệ sinh giấc ngủ và đưa ra nhiều ý



kiến về mối quan hệ giữa kiến thức vệ sinh giấc ngủ với chất lượng giấc ngủ
[6], [8], [10].
Giấc ngủ là cần thiết cho sức khỏe tối ưu, sức sống và có th ể t ự qu ản lý
bởi từng cá nhân [11]. Việc tăng cường chất lượng giấc ngủ trở thành một
trong những lĩnh vực trọng tâm trong chăm sóc toàn diện của điều d ưỡng, h ỗ
trợ kiểm soát THA của người bệnh. Việc tìm hiểu những lỗ hổng trong kiến
thức của người bệnh để có kế hoạch chăm sóc phù hợp luôn là m ục tiêu
trong chăm sóc của Điều dưỡng. Một đánh giá khách quan về kiến thức giấc
ngủ của người bệnh tăng huyết áp sẽ là cần thiết để giúp điều dưỡng có một
kế hoạch và hướng chăm sóc bằng những can thiệp chăm sóc phù h ợp nh ất
góp phần kiểm soát tốt hơn huyết áp cho người bệnh.
Nghiên cứu được tiến hành nhằm mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức
giấc ngủ của người bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại Bệnh vi ện đa
khoa tỉnh Nam Định.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian từ tháng 05 đến tháng 10 năm
2016 với đối tượng tham gia là 400 người bệnh tăng huyết áp (THA) được
điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định , tự nguyện tham gia
và không có thêm các bệnh lý mạn tính nặng hoặc các bệnh lý ảnh h ưởng
đến giấc ngủ.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả ngang, đánh giá kiến thức về vệ sinh giấc ngủ, đánh giá
kiến thức về những hành vi điều trị giấc ngủ bằng thang đo SKQ (Sleep
Knowledge Questionaire) được tác giả dịch sang tiếng Việt và được xin ý kiến
chuyên gia để điều chỉnh từ ngữ cho sát nghĩa và phù h ợp v ới điều kiện th ực
tế Việt Nam. Sau đó được kiểm định độ tin cậy trước khi áp dụng cho nghiên
cứu với hệ số Cronbach Alpha là 0,805. Thông qua tỷ lệ phần trăm và các

bảng tần suất để mô tả thực trạng kiến thức về giấc ngủ của người b ệnh .


3. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung của người bệnh THA tham gia nghiên cứu
Trong tổng số 400 người bệnh tham gia nghiên cứu, nữ chiếm 54%, nam
chiếm 46%. Đặc điểm về tuổi và thời gian được chẩn đoán và điều tr ị THA
được thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Tuổi và thời gian được điều trị tăng huyết áp của đối tượng nghiên
cứu (n = 400)
Đặc điểm

Số người
T ỷ lệ %
bệnh
Tuổi
≤ 60 tuổi
41
10,3
Trung bình: 69,2 ± 6,9
61 – 70 tuổi
196
49,0
Thấp nhất: 42
71 – 80 tuổi
150
37,5
Cao nhất: 92
≥ 81 tuổi

13
3,2
Thời gian điều trị THA
≤ 5 năm 151
37,8
6 – 10 năm 180
45,0
Trung bình: 7,64 ± 4,47
11 – 15 năm 44
11,0
Thấp nhất: 1
16 – 20 năm 23
5,8
Cao nhất: 23
> 20 năm
2
0,5
Người bệnh THA trong nghiên cứu chủ yếu là người cao tuổi, tuổi trung
bình là 69,2 ± 6,94. Thời gian được chẩn đoán và điều trị THA trung bình là
7,64 ± 4,47 năm. Người bệnh nam chiếm 54% số còn lại là người bệnh n ữ
chiếm 46%.
2. Thực trạng kiến thức giấc ngủ của đối tượng tham gia nghiên cứu
Các vấn đề phản ảnh thực trạng kiến thức giấc ngủ của người bệnh và tỷ
lệ người bệnh gặp phải những vấn đề này được thể hiện trong Bảng 2 và
Bảng 3
Bảng 2. Thực trạng kiến thức vệ sinh giấc ngủ của người bệnh (n = 400)
Đặc điểm
Uống 3 chén rượu không ảnh
hưởng giấc
Hút hơn một bao thuốc lá không

ảnh hưởng giấc ngủ
Đi ngủ khi đói bụng có lợi cho giấc

Đúng

Sai

53(13.2%)

196(49%)

148(37%
)
112( 38%

163(40,8
%)
223( 55,8

Không
biết
151
(37.8%)
89(22.2%)
65(16,2


ngủ
)
Đi ngủ khi khát nước ảnh hưởng 320(80%

giấc ngủ
)
Dùng thức ăn đồ uống chứa chất 46(11,5%
kích thích không ảnh hưởng giấc )
ngủ
Tập thể dục đổ mồ hôi trong 2 giờ 162(40,5
trước khi đi ngủ làm phá vỡ giấc
%)
ngủ
Thư giãn trước ngủ có lợi cho giấc 396(99%)
ngủ
Đa số người bệnh trong nghiên cứu có các vấn

%)
51(12,8%
)
315(78,8
%)

%)
29(7,2%
)
39(9,8%
)

145(36,2
%)

93(23,2
%)


0,0(0%)

4(1,0%)

đề về kiến thức vệ sinh

giấc ngủ như trả lời sai liên quan đến vấn đề số lượng hút thuốc lá trong
ngày, đi ngủ khi đói bụng, dùng đồ ăn thức uống chứa ch ất kích thích hay t ập
thể dục mạnh quá sức trong 2 giờ trước khi ngủ làm phá vỡi giấc ngủ. Số
người trả lời đúng tương ứng với 37%, 38%, 11,5% và 40,5%. Ch ỉ có ki ến
thức về sự thư giãn tạo sự thoải mái trước khi đi ngủ thì hầu hết trong tổng
số 400 người bệnh trả lời đúng chiếm 99% hay 80% trả l ời đúng liên quan
đến uống rượu trước khi đi ngủ sẽ làm ảnh hưởng đến ch ất lượng gi ấc ng ủ.
Kết quả phân tích kiến thức về hành vi điều trị giấc ngủ của 400 người
bệnh THA tham gia nghiên cứu được thể hiện ở Bảng 3.
Bảng 3. Thực trạng kiến thức về hành vi điều trị giấc ngủ của người bệnh (n
= 400)
Đặc điểm
Xem TV trên giường sẽ pha vỡ
giấc ngủ
Ra khỏi giường nếu không ngủ
được
trong trong 20 phút
Thời gian thức dậy cố định
không ảnh đến giấc ngủ
Thời gian đi ngủ cố định mỗi
đêm làm phá vỡ giấc ngủ
Nên nằm trên giường lâu 2 giờ so
với thời gian cần thiết để ngủ

Bị thức giấc mà không ngủ lại

Đúng

Sai

148(37%)

163(40.8%)

Không
biết
89(22.2%)

205(51,2
%)

135(33.8%)

60(15%)

319(79,8
%)
75(18,8%
)
107(26,8
%)
293(73,2

37(1,2%)


44(11%
)
42(10,5
%)
64(16%
)
71(17,8

283(70,8
%)
229(57,2
%)
36(9,0%)


được sau 20 phút nên nằm và cố
gắng ngủ lại
Độ dài giấc ngủ như nhau không
ảnh hưởng đến giấc ngủ
Để đạt được thời gian cần thiết
nên nằm lại lâu hơn

%)

%)

317(79,2
20(5,0%)
%)

131(32,8%) 195(48,8
%)

63(15,8
%)
74(18,5
%)

Ngược lại với kiến thức về hành vi thời gian thức dậy cố định trong
ngày hay độ dài giấc ngủ như nhau hay hành vi bị thức giấc mà không ngủ l ại
được sau 20 phút số người bệnh trả lời đúng cao t ương ứng v ới 79,8%;
79,2% và 73,2%. Còn lại hầu hết trả lời sai liên quan đ ến các hành vi trong
điều trị giấc ngủ như chỉ có 18,8% trả lời đúng về th ời gian đi ngủ c ố đ ịnh
mỗi đêm hay chỉ có 26,8% trả lời đúng rằng n ằm trên gi ường lâu h ơn 2 gi ờ
so với thời gian cần thiết để ngủ là sai, chỉ có 37 % người bệnh bi ết r ằng xem
tivi trên giường cũng sẽ làm phá vỡ giấc ngủ hay h ầu hết ng ười b ệnh tr ả l ời
sai và không biết rằng không nên nằm lâu lại trên giường h ơn th ời gian c ần
thiết để ngủ.
Bảng 4. Tổng hợp điểm đánh giá liên quan đến kiến thức giấc ngủ của người
bệnh
Nội dung đánh giá

Dải
điểm

Điểm đạt của người bệnh
Thấp
Cao
Trung bình
nhất

nhất
X
(
± SD)
(Min)
(Max)
-14
26
5,18 ±
6,90
-10
14
6,8 ± 4,0
-14
12
-1,9 ± 4,8

Kiến thức về giấc ngủ
-30 – 30
chung
Kiến thức vệ sinh giấc ngủ
-14 – 14
Kiến thức về hành vi điều
-16 – 16
trị giấc ngủ
Bảng 4 tổng hợp điểm đánh giá các nội dung liên quan đến kiến thức giấc
ngủ của người bệnh trong nghiên cứu.Với thang đo kiến th ức đi ểm s ố th ấp
biểu hiện kiến thức chưa đầy đủ về giấc ngủ.
BÀN LUẬN
Tuổi trung bình của 400 người bệnh THA trong nghiên cứu là 69,2 ± 6,9 và

không có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ người bệnh nam và nữ. Kết quả này cho
thấy sự tương đồng về xu hướng theo các kết quả thống kê đã được công bố là


THA là thường gặp ở người cao tuổi và ở độ tuổi ≥ 65, nam và nữ có nguy cơ
THA ngang nhau [1]. Người bệnh trong nghiên cứu có thời gian được quản lý và
điều trị THA trung bình 7,64 ± 4,47 năm và đây là khoảng thời gian đủ dài để họ
cảm nhận được đầy đủ về giấc ngủ của họ cũng như những kíến thức nhất định
vệ giấc ngủ của mình.
Về thực trạng kiến thức vệ sinh giấc ngủ:
Kiến thức giấc ngủ bao gồm kiến thức vệ sinh giấc ngủ và kiến thức về hành
vi điều trị giấc ngủ có sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giấc
ngủ. Những hành vi điều trị giấc ngủ là những hành động có thể mang lại một
cảm giác nhẽ nhõm dẫn đến một giấc ngủ tốt. Điều này đã được kiểm tra trong
nghiên cứu của nghiên cứu của Julie Gallasch là có lợi ích cho người bệnh có
CLGN kém hoặc những người có mất ngủ thoáng qua và rất có lợi cho công tác
phòng chống mất ngủ [7]
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 53(13,2%) có kiến thức đúng về
giấc ngủ liên quan đến rượu. Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi cho rằng
uống khoảng 3 chén rượu không ảnh hưởng đến giấc ngủ mà ngược lại nó
giúp cho họ ngủ tốt hơn. Thực tế đó là quan niệm chưa đúng bởi bất cứ ai
thỉnh thoảng uống rượu đều biết rằng rượu đôi khi có thể khiến buồn ngủ đê
giúp họ ngủ nhưng rượu là một chất gây trầm cảm, có thể giúp cơ thể con
người ngủ nhanh hơn nhưng có cũng góp phần vào giấc ngủ kém chất lượng
sau này [5]. Đặc biệt với người bệnh THA rượu là một chất kích thích gây
tăng co bóp nhịp tim làm tăng nhịp tim gây tăng huyết áp. Kết quả nghiên
cứu của Jacek Wolf cho thấy rằng có sự liên quan lâm sàng của hiện tượng
không giảm chỉ số huyết áp sinh lý đêm ngày ( non- dipping) với việc tăng
tần số tổn thương các cơ quan đích như não, tim, thận, mắt và mạch máu
cũng như các bệnh lý tim mạch khác ở người bệnh THA [12]. Như vậy việc

uống rượu trước khi ngủ đối với người bệnh THA là không có lợi cho CLGN
và tăng khả năng xảy ra các nguy cơ biến chứng, làm tăng nặng tình trạng
bệnh. Hầu hết người bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi không có kiến thức
về tác hại của việc hút thuốc lá lên sức khỏe tim mạch, ngược lại họ chỉ có


kiến thức đơn giản là việc hút thuốc lá ảnh hưởng đến cơ quan trực tiếp mà
khói thuốc tác động đó là phổi. Hút thuốc lá một yếu tố nguy cơ quan trọng
thúc đầy sự hình thành các mảng xơ vữa động mạch, chất nicotine có trong
khói thuốc kích thích hệ thần kinh gây co mạch máu làm tăng huyết áp, đặc
biệt là huyết áp tâm thu. Tương tự kiến thức về mối liên quan các đồ ăn thức
uống có chất kích thích khác cũng tác động lên hệ thống thần kinh kiểm soát
huyết áp làm ảnh hưởng đên CLGN và sức khỏe tim mạch đặc biệt là huyết
áp [12].
Về thực trạng kiến thức hành vi điều trị giấc ngủ:
Thực hành vệ sinh giấc ngủ của người bệnh được đánh giá trên 4
phương diện là thói quen về thời gian ngủ, thói quen ăn u ống trước khi
ngủ, thói quen sinh hoạt trước khi ng ủ và môi trường mà người b ệnh
dùng để ngủ. Điểm trung bình thực hành vệ sinh giấc ngủ của người
bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi là 30,88 ± 3,93 trên tổng s ố 65
điểm của thang đo SHI, cao hơn so với điểm số này (23/65 điểm) trong
nghiên cứu sử dụng cùng thang đo của Barker [11] nhưng ở người có
bệnh mạch vành, và sự khác biệt về đối tượng nghiên cứu có lẽ là lý do
chủ yếu cho sự khác biệt về điểm số này . Trong 15 nội dung hỏi có một
số nội dung hầu hết mọi người đều đã có nhận thức nhất định về những yếu
tố có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến chất lượng giấc ngủ như hành động thư
giãn trước khi ngủ sẽ có lợi cho giấc ngủ hoặc các kiến thức về hành vi ăn
uống trước ngủ như để tình trạng khát nước đi ngủ sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng giấc ngủ. Có thể do đối tượng nghiên cứu chủ yếu là người cao tuổi bị
bệnh THA nên hầu hết mọi người đều có những kinh nghiệm hoặc quan tâm

nhất định đến các vấn đề liên quan đến sức khỏe bản thân từ nhiều nguồn.
Tuy nhiên, vẫn còn các lỗ hổng về một số kiến thức trong hành vi điều trị
giấc ngủ của người bệnh. Cụ thể 70,8% người bệnh cho rằng không nhất
thiết phải đi ngủ vào cùng một thời gian nhất định trong ngày vì người bệnh
nghĩ rằng bản thân đã khó ngủ nên khi nào cảm thấy buồn ngủ thì mới đi ngủ
còn nếu cố gắng ngủ vào một giờ nào đó thì càng khó ngủ. Đó là quan niệm


chưa đúng về thời gian ngủ của hầu hết đối tượng nghiên cứu trong nghiên
cứu của chúng tôi. Sự nhận thức chưa đúng về điều này phần nào đó có thể
sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ người bệnh. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy rằng có sự cần thiết có những can thiệp chăm
sóc giúp người bệnh thay đổi hành vi từ bỏ những thói quen cũ b ất l ợi
cho giấc ngủ sang thực hiện những hành vi giúp cải thiện chất l ượng
giấc ngủ.
KẾT LUẬN
Người bệnh THA trong nghiên cứu có kiến thức về giấc ngủ nói chúng và
kiến thức về vệ sinh giấc ngủ cũng như kiến thức về hành vi điều tr ị gi ấc
ngủ nói riêng không cao đồng nghĩa với những lỗ hổng trong kiến th ức v ề
giấc ngủ của người bệnh trong nghiên cứu với điểm trung bình ki ến th ức
giấc ngủ chung là 5,18 ± 6,90 điểm, điểm kiến thức vệ sinh giấc ngủ là 6,8 ±
4,0, điểm kiến thức hành vi điều trị giấc ngủ là -1,9 ± 4,8. Đa số người bệnh
đều gặp phải các vấn đề về kiến thức vệ sinh giấc ngủ nh ư tr ả l ời sai khi
cho rằng để bụng đói sẽ có lợi cho giấc ngủ hay m ột số đ ồ uống t ưởng ch ừng
như vô hại lại làm ảnh hưởng đến CLGN của người bệnh như uống n ước chè
đặc trong ngày hay thói quen xem tivi trên giường đề đi vào gi ấc ngủ cho d ễ
hay hầu hết người bệnh cho rằng không cần thiết ph ải đi ng ủ đúng gi ờ.
Những phát hiện trong nghiên cứu của chúng tôi cho th ấy c ần có nh ững can
thiệp thay đổi kiến thức về giấc ngủ nói chúng đề nâng cao ki ến th ức và có
thể sẽ góp phần cải thiện CLGN cho người bệnh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Lân Việt (2012). Dịch tễ học tăng huyết áp và các nguy c ơ tim
mạch ở Việt Nam 2001-2009, Đại hội Tim mạch toàn quốc lần th ứ 13.
Tp. Hạ Long


2.

Trần Hữu Bình (2005). Rối loạn giấc ngủ không thực tổn. Tài liệu
giảng dạy sinh viên y 5, Bộ môn Tâm thần Trường Đại học Y Hà N ội,

3.

trang: 245-251
Gangwisch JE (2009). Epidemiological evidence for the links between sleep,
circadian rhythms and metabolism. Published in final edited form as: Obes Rev

4.

2009;10(Suppl 2):37-45
Bruno RM et al (2013). Poor sleep quality and resistant hypertension.
Sleep Medicine 2013;14:1157-1163

5. Palagini L, Bruno RM, Gemignani A, Baglioni C, Ghiadoni L, Riemann D

(2013). Sleep loss and hypertension: a systematic review. Curr Pharm
Des;19:2409–19

6.

Julie GALLASCH and Michael GRADISAR( 2007). Relationships between
sleep knowledge, sleep practice and sleep quality. Sleep and
Biological Rhythms2007;5:63–73doi:10.1111/j.1479-

7.

8425.2006.00248
Gallasch J and Gradisar M (2007). Relationships between sleep knowledge,
sleep practice and sleep quality. Sleep and Biological Rhythms 2007;5:63–73

8.

doi:10.1111/j.1479-8425.2006.00248
Lorna KP Suen; Wilson WS; Tam KL Hon ( 2010). Association of sleep
hygiene–related factors and sleep quality among university
students in Hong Kong, Hong Kong Med J 2010;16:180-5

9. James E. et al (2006). Short Sleep Duration as a Risk Factor for Hypertension.

Original Articles. 47:833-839. Available at
10.

Bogdan Ioan Voinescu and Aurora Szentagotai-Tatar (2015). Sleep
hygiene awareness: its relation to sleep quality and diurnal preference
Voinescu and

Szentagotai-Tatar Journal of Molecular Psychiatry


(2015) 3:1
11.

Barker TM (2008). A descriotion of sleep patients and sleep hygiene pratice for
adults in cardiac rehabilitation programs in southern Nontana, a thesis of
Master of Science in Nursing, Montana State University.

12. Lloyd-Jones D, Adams RJ, Brown TM et al (2010). Heart disease and stroke


statistics 2010 update: a report from the American Heart Association.
Circulation 2010; 12: e46-e215



×