Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Mâu thuẫn biện chứng giữa việc tìm hiểu những cơ hội và thách thức khi VN gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.1 KB, 32 trang )

Tiểu Luận Triết Học
ĐỀ CƯƠNG
Đề tài: Mâu thuẫn biện chứng giữa việc tìm hiểu những cơ hội và thách
thức khi Việt Nam gia nhập WTO.
Lời mởđầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
 Khẳng định hội nhập là xu thế tất yếu của thời đại.Và việc Việt Nam gia nhập
WTO là cần thiết trong giai doạn hiện nay.
 Mức độ cần thiết của việc nghiên cứu khó khăn và thách thức khi Việt Nam
gia nhập WTO.
2.Mục đích nghiên cứu và lý do lựa chọn đề tài
 Mục đích nghiên cứu của bản thân về vấn đề này.
 Nêu lên lý do tại sao lại chọn đề tài.
Nội Dung
1.Nguyên lý triết học của đề tài
Dựa vào nội dung của quy luật thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập:
1.1.Khái niệm các mặt đối lập,mâu thuẫn,sự thống nhất vàđấu tranh của các mặtđối
lập:
 Khái niệm về mặt đối lập.
 Khẳng định Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau
tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
 Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên
xã hội và tư duy.
1.2.Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
 Nêu lên sựđấu tranh của các mặt đối lập.
 Khẳng định mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển.
1.3.Phân loại mâu thuẫn
 Phân loại mâu thuẫn của đề tài thuộc loại mâu thuẫn nào.
1.4.ý nghĩa của việc nghiên cứu mâu thuãn này
2.Vận dụng nguyên lý vào thực tiễn
 Khó khăn và thuận lợi của việc Việt Nam gia nhập WTO là mâu thuẫn biện


chứng.
 Nêu ra các khó khăn,thuận lợi chính.
 Đi sâu nghiên cứu vào các ngành để làm rõ mâu thuẫn biện chứng giữa khó
khăn và thách thức khi Việt Nam vào WTO.
 Nêu ra hướng, biện pháp giải quyết.
Kết Luận
 Gói gọn vấn đềđã nêu trên.
 Ý kiễn của bản thân.
 Tài liệu tham khảo.
1
Tiểu Luận Triết Học
LỜI NÓI ĐẦU
1.tính cấp thiết của đề tài
Vào nửa cuối của những năm 90 của thế kỷ trước, với đà phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, lực lượng sản xuất đã
có bước phát triển vượt bậc trên phạm vi toàn cầu . Các công ty xuyên quốc gia với
tiềm lực tài chính to lớn và khả năng công nghệ dồi dào gia tăng hoạt động. Sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự gia tăng hoạt động của các công ty xuyên
quốc gia là 2 yếu tố lớn tác động đến bức tranh kinh tế thế giới trong thời đại ngày
nay. Hai yếu tố này, một mặt đặt ra nhu cầu, mặt khác tạo ra khả năng tổ chức lại thị
trường trên toàn thế giới. Nói một cách khác, hai yếu tố này thúc đẩy quá trình toàn
cầu hoá kinh tế. Sự mở rộng thị trường gắn với sự phát triển lực lượng sản xuất và
tính chất của quá trình này đãđược C. Marx chỉ ra trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản.
Do các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hoá và dịch vụ dịch chuyển tự do từ
nước này sang nước khác nên sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và diễn ra
trên phạm vi toàn thế giới, hình thành nên các chuỗi giá trị toàn cầu. Từ thực tế này,
một loạt vấn đề mới đặt ra trong chính sách thương mại vàđầu tư. Trong đó, cóđối
sách của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trước xu thế của thời đại, hoặc tham gia vào tiến
trình toàn cầu hoá hay đứng ngoài tiến trình ấy. Tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá,
tiến cùng thời đại tuy thách thức là rất lớn, nhưng cơ hội cũng rất nhiều. Không tham

gia vào tiến trình ấy, trở thành người ngoài cuộc sẽ bị phân biệt đối xử trong tiếp cận
thị trường về hàng hoá, dịch vụ vàđầu tư, sẽ rất khó khăn trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là trong bối cảnh thế giới
đang diễn ra cuộc cách mạng kỹ thuật - công nghệ lần thứ 3; và từđó, dẫn đến làn
sóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế lần thứ 3. Mà sự chuyển dịch cơ cấu kinh tếở mỗi
nước sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các nước. Do nhận thưc rõđược
điều này và trên cơ sở những thành tựu đạt được sau gần 10 năm đổi mới, năm 1995,
nước ta chính thức làm đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Nhận thức rõ
“toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia” (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII tại Đại hội toàn
quốc của Đảng tháng 4 năm 2001) và thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị khoá
VIII về hội nhập kinh tếquốc tế, chúng ta đã nỗ lực hoàn thiện thể chế, chính sách
2
Tiểu Luận Triết Học
nhằm hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, kiên trìđàm phán trên cả 2
kênh song phương (mở cửa thị trường) vàđa phương (thực hiện các hiệp định của Tổ
chức thương mại thế giới). Ngày 07 tháng 11 vừa qua, nước ta đã chính thức được
kết nạp vào tổ chức này. Trong bối cảnh đó, để Việt Nam sử dụng được tối đa những
cơ hội và hạn chếđược những khó khăn vấp phải , đòi hỏi chúng ta phải cóđược
những biện pháp,chính sách cụ thể,những phuơng án tối ưu để chúng ta không bị bỡ
ngỡ khi hội nhập, để nền kinh tế Việt Nam có thểđứng vững và phát triển một cách
bền vững.
Trước hoàn cảnh đất nước trước thềm hội nhập với rất nhiều khó khăn và thách
thức như vậy thì những ý kiến những đề tài nghiên cứu về vấn đề này là hết sức cần
thiết ,nó góp phần quan trọng trong việc xây dựng các chính sách,các mục tiêu và con
đường đi cho nền kinh tế Việt Nam sau này.
2.Mục đích nghiên cứu và lý do lựa chọn đề tài
Đứng trước một nền kinh tế Việt Nam đang ầm ầm chuyển động theo cơ chế thị
trường trong thời kỳ hội nhập, các khó khăn và thách thức đãđược các nhà hoạch
định kinh tế vạch ra,và có rất nhiều tài liệu ,nhiều cuộc hội thảo nói về vấn đề này. Là

một sinh viên của một trường đại học khối kinh tế, trong quá trình học đãđược bổ
sung thêm các kiến thức song những kiến thức thực tế của em và hầu như của các bạn
sinh viên khác đều rất hạn hẹp . Đứng trước là một sự kiện lớn là Việt Nam gia nhập
WTO, do đòi hỏi của thực tế và sau một thời gian nghiên cứu tìm hiểu em đã chọn đề
tài:”Mâu thuẫn biện chứng với việc tìm hiểu những cơ hội và thách thức khi Việt
Nam gia nhập WTO” để nghiên cứu với mục đích là mong muốn được nâng tầm hiểu
biết về thực tế của mình để sau này khi ra trường không bị bỡ ngỡ trước thực tế công
việc và em cũng mong muốn được đóng góp ý kiến của mình vào sự kiện có một
không hai của đất nước này để góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp hơn.
3
Tiểu Luận Triết Học
NỘI DUNG
1.Nguyên lý triết học của đề tài
Đề tài này được nghiên cứu dựa trên nguyên lý triết học:”Quy luật thống nhất vàđấu
tranh của các mặt đối lập”.để tìm hiểu nguyên lý triết học này ta cần tìm hiểu trong
các mặt sau:
1.1.Khái niệm các mặt đối lập,mâu thuẫn,sự thống nhất vàđấu tranh của các mặtđối
lập :
Tất cả các sự vật ,hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược
nhau .Trong nguyên tử cóđiện tử và hạt nhân; trong sinh vật cóđồng hoá và dị hoá;
trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền…những mặt trái ngược nhau đó
trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập. Từđó ta có thể rút ra định nghĩa về
mặt đối lập: mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ
biến trong tất cả các sự vật. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách
quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư
duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
4

Tiểu Luận Triết Học
Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu
thuẫn trong logic hình thức. Mâu thuẫn trong logic hình thức là sai lầm trong tư duy.
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời
nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia để
làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng
có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất”
của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao
hàm cả sự “đồng nhất” của các mặt đó.Do có sựđồng nhất của các mặt đối lập mà
trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó,các mặt đối lập có thể chuyển
hoá lẫn nhau.Các mặt đối lập không chỉ thống nhất,mà còn luôn đấu tranh vơí
nhau.Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động quá lại theo xu hướng bài trừ và
phủđịnh lẫn nhau giữa các mặt đó.Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức
phong phú,đa dạng tuỳ thuộc vào tính chất ,vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối
lập và tuỳđiều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
1.2.Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng cũng
bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất vàđấu
tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trìng vận động, phát triển
của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với sựđứng im, với sựổn định tạm thời của sự vật.
Sựđấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động vf phát triển. Điều đó có
nghĩa là: sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời; sựđấu tranh của
các mặt đối lập là tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (…) của các mặt đối lập
là cóđiều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sựđấu tranh của các mặt đối lập bài
trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Trong sự tác động qua mạng của các mặt đối lập thìđấu tranh của các mặt đối
lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu
thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản,

nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát
triển vàđi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đãđủđiều kiện, chúng sẽ
5
Tiểu Luận Triết Học
chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờđó mà thể thống nhất cũđược
thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
V.I.Lênin viết: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy
nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không cóđấu tranh giữa
chúng. Thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong
mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa
tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập quy định
tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận
đông và phát triển.
2.Vận dụng nguyên lý vào thực tiễn
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập đã mang lại
những ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận trong nhận thức và trong hoạt
động thực tiễn. Đây chính là cơ sở dể chúng ta có cái nhìn sâu rộng về bản chất của
sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn. Việc áp dụng
và xem xet tìm hiểu những cơ hội , thách thức của nước ta khi gia nhập WTO chính
làđi xem xét những mặt, những mâu thuẫn của nền kinh tế, sự thống nhất vàđấu tranh
của những mâu thuẫn đó từđó giải quyết mâu thuẫn, chuyển hoá chúng tạo tiền đề
cho sự phát triển là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Việc VIỆTNAM gia nhập
WTO chính là một bước ngoặt lớn vô cùng quan trọng của nền kinh tế nước nhà.
Chúng ta có những cơ hội thực sự, có tiềm năng phát triển, v.v… Nhưng bên cạnh
đó, sự hội nhập cũng để lại cho chúng ta những thách thức vô cùng lớn về mọi mặt.
Vì vậy, xem xét những mặt mạnh và mặt yếu chính là xem xét những cơ hội, thời cơ
và thách thức của nền kinh tế. Những cơ hội và thách thức đó chính là các mặt đối
lập có tác động qua lại lẫn nhau, ởđó có sự nương tựa, thống nhất giữa nhiều thành
phần kinh tế.Vì vậy việc tìm hiểu , đi sâu nghiên cứu phát hiện ra những điểm mạnh,
điểm yếu (những cơ hội, thách thức) từđó tìm cách giải quyết, phát huy những điểm

mạnh, khắc phục những hạn chế những điểm yếu (giải quyết mâu thuẫn) sẽ là những
tiền đề quan trọng, tạo bước đẩy cho chúng ta nhanh chóng phát triển đưa đất nước đi
lên, tận dụng được thời cơ.
Khi gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế là rất nhiều
song có thể gói gọn trong năm thuận lợi và bốn khó khăn chính:
6
Tiểu Luận Triết Học
2.1.Về thuận lợi:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụở tất cả các nước thành viên với
mức thuế nhập khẩu đãđược cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo
các Nghịđịnh thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo
điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn
mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài
biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế cóđộ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim
ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thìđiều này làđặc biệt quan trọng, là yếu
tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo
quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện.
Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần
kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn,
công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra
công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoáđất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước
ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi
trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56%
kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm
việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta cóđược vị thế bình đẳng như các thành viên khác

trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội đểđấu tranh nhằm
thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, cóđiều kiện để bảo vệ lợi
ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quảđấu tranh còn tùy thuộc vào
thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lýđiều hành của
ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủđộng đổi mới, cải cách thể chế
kinh tếở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc
7
Tiểu Luận Triết Học
gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách
trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn cóý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới,
việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta
triển khai có hiệu quảđường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn
là bạn, làđối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và
phát triển.
2.2.Về khó khăn,thách thức
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội cóđược do việc gia nhập WTO mang lại,
cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước
ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém
và bất cập, doanh nghiệp vàđội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này
bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập,
từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập. Những thách thức
này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình
diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các
nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị
trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ
mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm
tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản

phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà
nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển
nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát
huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt
trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo
được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo
dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v…
Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền
kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
8
Tiểu Luận Triết Học
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hóa là không đồng đều.
Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. ở mỗi quốc gia, sự
“phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cưđược hưởng lợi ít hơn,
thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận
doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn.
Điều đóđòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán
triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tếđi đôi với xóa
đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ vàông bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tùy thuộc
lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động
mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ
môđúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ
sởđể nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chếđược ảnh hưởng tiêu cực
trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có
hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường
chưa nhiều thìđây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên
mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tếđặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi

trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Những khó khăn và thuận lợi trên đều được bộc lộ rõ trong hầu hết các ngành
các lĩnh vực kinh tế.Chúng ta sẽ phân tích tìm hiểu một số ngành,lĩnh vực kinh tếđể
làm rõ những khó khăn và thuận lợi này và mâu thuẫn biện chứng giữa chúng.
Đầu tiên chúng ta sẽđi vào ngành dệt may dày da, tháng 1-2007, thuế nhập khẩu hàng
dệt may đã cắt giảm ở mức tương đối lớn. Cụ thể, thuế suất thuế nhập khẩu nhóm
hàng xơ, sợi giảm từ 20% xuống còn 5%; nhóm hàng vải giảm từ 40% xuống còn
12% vàđặc biệt, nhóm hàng may sẵn giảm từ 50% xuống còn 20%. Với da giày, thuế
suất thời điểm cam kết còn 40% đối với giày dép và còn 30% tới năm 2012.Điều này
sẽ tạo ra những thay đổi lớn ở thị trường nội địa. Đó là những tổ hợp các công ty nhỏ
trong lĩnh vực dệt sẽ rất khó khăn và việc đóng cửa hàng loạt doanh nghiệp trong
9
Tiểu Luận Triết Học
ngành là hoàn toàn có thể. Đặc biệt, với nhóm quần áo vàđồ may sẵn, việc cắt giảm
thuế suất thuế nhập khẩu là cơ hội để các thương hiệu quần áo may sẵn đẩy mạnh
hoạt động tại thị trường Việt Nam. Phân tích từ Trung tâm Xúc tiến thương mại
vàĐầu tư TP Hồ Chí Minh cho thấy, vấn đề mấu chốt trong cuộc cạnh tranh này là
kênh phân phối và thương hiệu, vốn là những lĩnh vực yếu của doanh nghiệp Việt
Nam. Kết quả cuộc cạnh tranh là gì? Là các thương hiệu may sẵn của Việt Nam sẽ
nhường chỗ cho các thương hiệu nước ngoài và sự sụt giảm lượng khách đáng kể tại
các nhà may do nhu cầu sử dụng hàng hiệu giá rẻ tăng cao.Ông Lê Quốc Ân, Chủ
tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết, sắp tới, các nhà sản xuất hàng dệt may
trong nước sẽ phải cạnh tranh khốc liệt khi sản phẩm của nước ngoài ồạt vào Việt
Nam, nhất là các nước có cạnh tranh lớn như Trung Quốc, ấn Độ…Ông Trần Hữu
Bưu, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Công nghiệp) nhấn mạnh, thời gian tới,
nếu ngành dệt may trong nước không tích cực đầu tư làm chủ khâu nguyên liệu, thiết
kế mẫu mã, thì sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh. Với sản phẩm giày dép, đây không chỉ
là thế mạnh của riêng Việt Nam, mà còn là thế mạnh của rất nhiều nước ASEAN, vì
thế doanh nghiệp trong nước không thể không nâng cao sức cạnh tranh từđổi mới

công nghệđến chất lượng và giá cả.Theo nguyên lý của phép biện chứng triết học thì
khi khó khăn này xuất hiện thì cũng sẽ xuất hiện mặt đối lập của nó nghĩa là sẽ xuất
hiện những thuận lợi.Thật vậy tuy đây là những khó khăn với các doanh nghiệp dày
da may mặc Việt Nam nhưng đối với người tiêu dùng thìđây là một yếu tố rất có lợi,
khi chúng ta cam kết giảm thuế nhập khẩu ngay khi gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) đã mang lại cho người tiêu dùng có thêm nhiều lựa chọn các sản
phẩm thời trang, đặc biệt là sớm có cơ hội được mua hàng hiệu với giá mềm
hơn.Theo các chuyên gia, thời gian tới sẽ có sựđiều chỉnh trong thị trường quần áo
may sẵn. Với dòng thời trang giá rẻ, thị phần sẽ có phần nghiêng qua các sản phẩm
sản xuất từ Trung Quốc. Trước đây, các sản phẩm này vào Việt Nam chủ yếu qua
đường buôn lậu, tới đây đã có thể nhập vào Việt Nam qua đường chính ngạch. Giá
các sản phẩm này vốn đã rất rẻ, sẽ cóđiều kiện để củng cố thị trường ở khu vực nông
thôn, vùng núi. Theo nhiều chuyên gia, các doanh nghiệp trong nước khó có thể cạnh
tranh với các sản phẩm này.
10
Tiểu Luận Triết Học
Ở dòng sản phẩm trung bình thấp và trung, hàng từ các nước ASEAN nhập vào Việt
Nam chủ yếu vẫn là Thái-lan. Với mức giá bình quân 255.000-499.000 đồng/sản
phẩm, hàng Thái-lan cũng có mặt ở các chợ và các shop nhỏ lẻ. Nhưng so với hàng
sản xuất trong nước, sản phẩm của Thái-lan không có sự khác biệt lớn về mẫu mã lẫn
chất lượng, giá lại cao hơn nên sức cạnh tranh cũng không cao. Riêng các sản phẩm
nhập khẩu từ Indonesia, Malaysia... do không phù hợp mẫu mã nên không được
người Việt ưa chuộng.
Theo các chuyên gia, ở phân khúc này các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh
tranh tốt. Tuy nhiên,Theo bàĐặng Quỳnh Đoan, giám đốc nhãn hiệu thời trang Việt
Thy “doanh nghiệp cần phải tính lại giá thành, nâng cao chất lượng và kiểu dáng,
điều đó có nghĩa doanh nghiệp phải đầu tư nhiều lần so với trước”.Cũng theo các
chuyên gia, gay cấn nhất sẽ rơi vào các mặt hàng thời trang cao cấp. Những sản phẩm
mua bản quyền từ Pierre Cardin của An Phước, hoặc T-up của Việt Tiến, hay veston
của Nhà Bè sẽ gặp rất nhiều khó khăn trước những thương hiệu nổi tiếng khác như

Mango, Velentino, Guest, Giordano - vốn đã có mặt tại thị trường Việt Nam thông
qua các đại lý phân phối độc quyền. Những người có thu nhập khá và cao sẽ không
ngần ngại lựa chọn sản phẩm mà mình ưa thích vì tới đây giá sẽ rẻ hơn do thuế nhập
khẩu giảm. Thuế nhập khẩu giảm, thương hiệu nổi tiếng, tâm lý người Việt lại
chuộng hàng ngoại - đó là những khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong
cuộc chạy đua giữ chân khách hàng.Trong khi đó, các công ty chuyên kinh doanh
hàng hiệu đang tích cực khai thác cơ hội làm ăn. Phụ trách kinh doanh của một công
ty chuyên nhập khẩu các nhãn hiệu thời trang nổi tiếng tiết lộ các kế hoạch mở rộng
thêm điểm bán hàng và tăng lượng hàng nhập khẩu đều đãđược công ty chuẩn bị từ
ba tháng trước để có thể triển khai ngay khi việc cắt giảm thuế có hiệu lực. “Giá các
sản phẩm này sẽ không giảm nhanh chóng, nhưng so với trước chắc chắn sẽ mềm
hơn, mở ra nhiều cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn” .Khi Việt Nam vào WTO thì
hàng dệt may giày da của Việt Nam sẽ có thị trường rộng lớn hơn tiêu biểu như EU
nhưng nó cũng gây ra một số khó khăn nhất định. EU là một thị trường rộng lớn, đa
dạng có nhiều triển vọng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam... nhưng cũng là một thị
trường "sang trọng" và "khó tính". Chinh phục thị trường này là một điều không dễ,
11
Tiểu Luận Triết Học
nhất là khi Việt Nam phải cạnh tranh với Trung Quốc, một cường quốc về các mặt
hàng xuất khẩu.
Tuy vậy khó khăn này cũng đi kèm một số thuận lợi nhất định,kể từ khi quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng đồng châu Âu được bình thường hóa vào ngày
22-10-1990, quan hệ thương mại Việt Nam-EU không ngừng phát triển. Tiến trình
đóđược thúc đẩy thêm bởi việc ký kết các hiệp định thương mại song phương như
Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU ngày 15-12-1992, vàđặc biệt là
Hiệp định khung hợp tác giữa Việt Nam - EU ngày 17-7-1999 đã mở ra một chương
mới trong quan hệ giữa nước ta và EU. Ngày nay, Việt Nam và EU đã trở thành
những bạn hàng không thể thiếu được của nhau. Mới đây, EU đã công nhận và cho
phép đưa hàng Việt Nam lên ngang hàng các nước kinh tế thị trường trong việc điều
tra và thi hành các biện pháp chống phá giá.Vậy liệu EU có phải là một thị trường lớn

triển vọng cho hàng dệt may dày da của Việt Nam?
EU là một đối tác quan trọng của Việt Nam trong các lĩnh vực hợp tác thương
mại, nhất là xuất khẩu. Tuy kim ngạch chưa lớn nhưng tốc độ tăng trưởng và phát
triển tương đối cao. Danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU ngày càng tăng
lên. Ngoài thủy sản, nông sản (cà phê, chè, gia vị) còn có các sản phẩm công nghiệp
chế biến như dệt may, giày dép, sản phẩm bằng da thuộc, đồ gỗ, đồ chơi trẻ em, dụng
cụ thể thao, gốm sứ mỹ nghệ và các mặt hàng chế biến cao cấp như hàng điện tử,
điện máy.Giày dép là mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này sang EU năm 2002 đã tăng gấp hai lần so với 5 năm trước.
Sau khi Việt Nam ký với EU Biên bản chống gian lận trong buôn bán giày dép, hằng
năm kim ngạch xuất khẩu sang EU đều tăng trên 10% /năm.
Theo dự báo của Hiệp hội da-giày Việt Nam, năm nay ngành da-giày có khả
năng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1,6 tỷ USD, tăng hơn năm 2002 trên 300 triệu và
dựđoán sẽ còn tăng đến 4,7 tỷ vào năm 2010, trong đó có 76,49% là xuất sang EU.
Đây là thị trường đầy tiềm năng với dân số gần 400 triệu, mức sống cao và nhu cầu
tiêu thụ giày dép lớn song cũng là thị trường cóđòi hỏi rất cao về mặt chất lượng
cũng như mẫu mã. Chính vì vậy nên các doanh nghiệp da-giày Việt Nam hiện đang
phải cố gắng đểđáp ứng các qui định về tiêu chuẩn xuất xứ cũng như nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm để có thểđứng vững trên thị trường EU.Tiếp
12

×