Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán nhập khẩu hàng hóa tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu kỹ thuật – TECHNIMEX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.98 KB, 90 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới trong xu hướng
quốc tế hoá mạnh mẽ đã khiến cho mỗi quốc gia trở thành một mắt xích
không thể thiếu trong dây truyền hệ thống kinh tế thế giới, không một quốc
gia nào có thể tồn tại và phát triển mà không tham gia vào phân công lao động
quốc tế và trao đổi hàng hoá với bên ngoài. Trong quá trình hội nhập vào xu
thế phát triển chung đó, ngoại thương trở thành một lĩnh vực kinh tế quan
trọng, thông qua hoạt động ngoại thương các mối liên hệ được thiết lập và
thực hiện trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh của mỗi nước. Chính vì thế
hoat động ngoại thương trong đó có nhập khẩu giữ vai trò vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong chiến lược phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng.
Việt Nam chúng ta là một nước đang trên đà phát triển. Mặc dù qua gần
15 năm mở cửa, các mối quan hệ hợp tác về thương mại, khoa hoc kỹ thuật
giữa Việt Nam và các nước trên thế giới không ngừng được tăng cường và mở
rộng nhưng trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ cũng như trình độ tổ chức
sản xuất của ta vẫn chưa theo kịp các nước trên thế giới. Chúng ta vẫn còn
thiếu rất nhiều các dây chuyền công nghệ, các trang thiết bị hiện đại. Do đó để
từng bước hiện đại hoá nền sản xuất trong nước và đảm bảo đời sống của
người dân không ngừng được nâng lên thì một trong những vấn đề quan trọng
nhất là phải tổ chức tốt các hoạt động nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của thị trường trong nước, khắc phục những yếu kém về mặt kỹ thuật,
công nghệ sản xuất, tạo sức mạnh cho xuất khẩu, phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong điều kiện hiện nay, để hoạt động kinh doanh nhập khẩu có hiệu
quả thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động, nhanh nhạy nắm bắt và thoả
mãn kịp thời nhu cầu thị trường. Muốn làm được điều đó thì hệ thống hạch
toán kế toán của đơn vị phải thực sự hoạt động có hiệu quả. Bởi vì hạch toán
là công cụ không thể thiếu trong quản lý kinh tế nói chung và trong hoạt động
kinh doanh nhập khẩu nói riêng, với chức năng thu thập, xử lý và cung cấp
thông tin nó cung cấp một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời về tình hình sản


xuất kinh doanh, làm cơ sở cho việc gia quyết định kinh doanh phù hợp.

1


Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề nhập khẩu nói chung và công
tác kế toán nhập khẩu nói riêng kết hợp với thời gian tìm hiểu thực tế tại công
ty cổ phần xuất nhập khẩu kỹ thuật em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu : “ Hoàn
thiện tổ chức công tác kế toán nhập khẩu hàng hoá tại công ty cổ phần xuất
nhập khẩu kỹ thuật – TECHNIMEX”.
Được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Tiến sĩ Trương Thị Thuỷ và sự
giúp đỡ của các anh chị phòng tài chính kế toán của công ty TECHNIMEX
em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình
Luận văn được trình bày gồm ba phần chính :
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về kế toán nhập khẩu hàng hoá
tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng kế toán hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại công
ty cổ phần xuất nhập khẩu kỹ thuật-TECHNIMEX
Chương III: Hoàn thiện kế toán hoạt động nhập khẩu tại công ty cổ
phần xuất nhập khẩu kỹ thuật-TECHNIMEX.
Do hiểu biết còn hạn chế nên luận văn của em sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, em kính mong được sự góp ý chỉ bảo của cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN
NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH

XUẤT NHẬP KHẨU.

1.1Nhập khẩu hàng hoá và vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh ở
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như trong toàn bộ
nền kinh tế Quốc dân
Sự phân công lao động Quốc tế ngày càng rõ nét khiến các Quốc gia
xích lại gần nhau hơn. Mỗi quốc gia được tự nhiên ban tặng những lợi thế
nhất định tạo thành thế mạnh kinh tế của mỗi quốc gia đó. Nhưng nếu chỉ dựa
vào sản xuất trong nước thì không thể cung cấp đầy đủ hàng hoá, dịch vụ đáp
ứng như cầu sản xuất tiêu dùng. Vì vậy để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền
kinh tế thì ngoài những hàng hoá là thể mạnh, mỗi quốc gia cần nhập khẩu
những hàng hoá thiết yếu khác phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Ngược lại
trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế vốn có sản xuất những mặt hàng thế
mạnh, một mặt phục vụ nhu cầu trong nước, mặt khác xuất khẩu phần thặng
dư ra nước ngoài thu ngoài tệ để nhập khẩu những thứ trong nước có nhu cầu
nhưng không thể đáp ứng. Như vậy do nhu cầu phát triển của nền kinh tế mà
nảy sinh ra nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau hay hoạt
động nhập khẩu là yêu cầu khách quan của tất cả các nền kinh tế.
Là một mặt của hoạt động ngoại thương, nhập khẩu là việc mua hàng
hoá của các tổ chức kinh tế nước ngoài và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu ở thị
trường nhập khẩu hoặc tái xuất khẩu, được thực hiện bởi các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu. Một số quan điểm kinh tế cho rằng nhập khẩu ảnh
hưởng không tốt tới sự phát triển của nền kinh tế, làm tăng trưởng tỷ lệ thất
nghiệp. Về một mặt độc lập mà xét thì quan điểm này đúng vì tiêu dùng nhiều
hàng ngoại nhập sẽ làm giảm mức cầu về hàng hoá nôị địa dẫn tới ảnh hưởng
không tốt tới sản xuất trong nước. Tuy nhiên xét trên tầm vĩ mô thì nhập khẩu
lại khuyến khích sản xuất hiệu quả, giá thành thấp, là động lực cho sản xuất
hàng hoá xuất khẩu. Thực tế cho thấy trong xu hướng toàn cầu hoá, các nền
kinh tế của các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, hoạt động ngoại


3


thương nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng càng ngày càng phát
triển mạnh mẽ.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì hoạt động xuất
nhập khẩu có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất: nhập khẩu góp phần đẩy mạnh sự đổi mới trang thiết bị và công
nghệ sản xuất làm cho lực lượng sản xuất và trình độ sản xuất được nâng cao,
giúp đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó, nhập
khẩu còn giúp chúng ta tranh thủ khai thác thế mạnh về vốn, kỹ thuật, trình độ
quản lý của các nước phát triển, mở rộng quan hệ đối ngoại, trao đổi liên kết
kinh tế giữa nước ta và các nước khác.
Thứ hai: nhập khẩu cũng có tác động tích cực thúc đẩy xuất khẩu vì đối với
một số hàng xuất khẩu đòi hỏi phải có nguồn nguyên liệu đầu vào thông qua
nhập khẩu. Một số chính sách nhập khẩu hợp lý đối với nguyên vật liệu, máy
móc, thiết bị phục vụ sản xuất sẽ góp phần làm tăng năng suất, hạ giá thành,
cải tiến chất lượng, tạo tính cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu.
Thứ ba: hoạt động nhập khẩu thúc đẩy sản xuất có hiệu qủa. Nhập khẩu tạo
sức cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cải tiến
kỹ thuật, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hàng hoá, mẫu
mã; từ đó đưa nền sản xuất nội địa đi lên. Thứ tư nhập khầu là một bộ phận
của cán cân xuất nhập khẩu, là một chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của
một quốc gia.
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay của nước ta, nhập khẩu giữ vai trò
cực kì quan trọng. Tuy nhiên nhập khẩu tràn lan khối lượng lớn gây lãng phí
nguồn ngoại tệ, kìm hãm sản xuất trong nước và là nguyên nhân của nạn thất
nghiệp. Chính vì thế, muốn tận dụng tốt mặt tích cực của hoạt động nhập
khẩu thì chúng ta phải có những chính sách hợp lý về nhiều mặt, đặc biệt là
chính sách thuế có phân biệt.

Còn riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh, hoạt động nhập khẩu có vai trò
khác nhau. Những doanh nghiệp thiên về nhập khẩu thì vai trò của nhập khẩu
tại các doanh nghiệp này rất rõ ràng.
Nhập khẩu là nguồn cung cấp hàng hoá rất quan trọng cho đầu ra của
doanh nghiệp. Thông qua nhập khẩu doanh nghiệp có được nguồn hàng cung
cấp cho thị trường trong nước và tạo doanh thu. Việc tổ chức tốt quá trình
4


nhập khẩu, làm ra những mặt hàng đối tác cung ứng hợp lý giúp doanh nghiệp
thu được mức chênh lệch cao.
Để có thể hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có hiểu biết sâu sác về thị trường quốc tế, những hiểu biết này chỉ
có được thông qua nghiên cứu, tìm hiều thực tế, từ đó phát hiện ra những cơ
hội kinh doanh. Những cơ hội này chính là sự chênh lệch giá cả giữa hai thị
trường, nếu giá cả trong nước thấp hơn ta có hoạt động xuất khẩu và ngược lại
ta có hoạt động nhập khẩu. Những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
thông qua các hợp đồng gia công quốc tế thì nhập khẩu là nguồn dưỡng khí
của doanh nghiệp. Hầu hết các nguyên liệu chính phục vụ cho quá trình gia
công đều được thông qua quá trình nhập khẩu từ đối tác. Hoạt động của các
doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu, nếu không có nguyên
liệu nhập khẩu thì sẽ không có hàng xuất khẩu.
Nhận thức được những vai trò to lớn của nhập khẩu không chỉ đối với
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này mà còn đối với cả nền kinh tế
quốc dân hiện nay mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến hoạt
động xuất nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu thiết bị, dây chuyền công nghệ
tiên tiến phục vụ cho sản xuất và cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
1.2 Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp

kinh doanh xuất nhập khẩu
1.2.1 Các điều kiện dao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế
Hoạt động nhập khẩu diễn ra giữa hai quốc gia, vì có sự xa cách về mặt
địa lý dẫn đến những phát sinh ảnh hưởng tới việc giao nhận hàng hoá theo
hợp động đã kí. Để đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia hợp đồng xuất nhập
khẩu, hạn chế những rủi ro, thiệt hại cho các chủ thể nói trên trong qúa trình
đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu các bên cần quan tâm đến hàng loạt các
vấn đề như: điều kiện và tiền tệ, địa điểm thanh toán, thời gian thanh toán,
phương thức thanh toán… Những vấn đề này thường được gọi chung là các
điều kiện cơ sở giao hàng.
Các điều kiện cơ sở giao hàng do phòng thương mại quốc tế soạn thảo
ra nhằm giải thích một cách thống nhất các tập quán thông lệ quốc tế khi giao
hàng, nó là cơ sở cho các bên ký kết cũng như thực hiện các hợp động ngoại

5


thương. Hiện nay, điều kiện cơ sở cho giao hàng được thực hiện theo
INCOTERN 2000 gồm 13 điều kiện chia thành 4 nhóm khác nhau:
Nhóm ‘E’: người bán hàng dưới quyền định đoạt của người mua ngay
tại xưởng của người bán, nhóm này chỉ có một điều kiện là EXW.
Nhóm ‘F’: người bán được yêu cầu giao hàng hoá cho người chuyên
chở do người mua chỉ định, gồm 3 điều kiện FCA, FAS, FOB.
Nhóm ‘C’: người bán hàng kí hợp đồng vận tải nhưng không chịu
những rủi ro đối với hàng hoá sau khi đã gửi hàng hoặc bốc hàng lên tàu, gồm
4 điều kiện: CFR, CiF, CIP, CPT.
Nhóm ‘D’: người bán hàng chịu mọi phí tổn và rủi ro để đưa hàng đến
nơi, gồm 5 điều kiện: DAF, DES, DEQ, DDU, DDP
EXW: giao tại xưởng
FCA: giao cho người chuyên chở

FAS: giao dọc mạn tàu
FOB: giao qua lan can tàu
CFR: tên hàng và cước
CIP: cước phí bảo hiểm trả tới
CPT: cước trả tới
DAP: giao tại biên giới
DES: giao tại tàu
DEQ: giao tại cầu cảng
DDU: giao tại đích chưa nộp thuế
DDP: giao tại đích đã nộp thuế
Ứng với mỗi điều kiện cơ sở giao hàng là một điều kiện về giá. Tuy
nhiên do điều kiện kinh nghiệm trong hoạt động ngoại thương của chúng ta
nên trong quá trình xuất nhập khẩu chúng ta thường sử dụng các loại giá:
Giá FOB: giá giao tính đến khi hàng được xếp lên phương tiện vận
chuyển tại cảng xuất. Theo điều kiện giá này người mua phải chịu trách
nhiệm thuê tàu, chịu chi phí vận chuyển, bảo hiểm, mọi rủi ro từ khi hàng đã
qua khỏi lan can tàu đi ở cảng. Người bán có trách nhiệm giao hàng lên tàu do
người mua chỉ định, thông báo cho người mua, cung cấp các chứng từ cần
thiết. Đây là điều kiện mà các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam thường sử
dụng khi xuất khẩu hàng hóa.
6


Giá CIF: bao gồm giá FOB + chi phí bảo hiểm + cước phí vận tải. Theo
điều kiện này bên bán phải thuê tàu mua bảo hiểm cho hàng hóa ở mức tối
thiểu, rủi ro về hàng hóa vận chuyển giao tại cảng nhận.
Giá CFR: bao gồm tiền hàng và cước phí vận chuyển.
Giá DAF: giá hàng giao tại biên giới đối với mọi loại hình vận tải. Do
những yếu kém còn tồn tại cùng với tư tưởng cầu toàn sợ rủi ro nên trong
nghiệp vụ xuất nhập khẩu việc lựa chọn các điều kiện giao hàng của chúng ta

không kinh tế. Xuất FOB, nhập CIF là những điều kiện thường gặp không tạo
điều kiện cho ngành vận tải biển và ngành bảo hiểm của chúng ta phất triển.
1.2.2 Các phương thức kinh doanh nhập khẩu
Hiện nay đối với hoạt động nhập khẩu có hai phương thức cơ bản đó là
nhập khẩu theo nghị định thư và nhập khẩu ngoài nghị định thư.
* Nhập khẩu theo nghị định thư : là phương thức mà các doanh nghiệp
phải tuân theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước thực hiện các hợp đồng kinh
tế bằng văn bản. Chính phủ Việt Nam sau khi ký nghị định thư hay hiệp định
thư với các nước khác để nhập khẩu hàng hoá sẽ giao cho các doanh nghiệp
nhập khẩu trực tiếp thực hiện. Việc thanh toán cho hợp đồng nhập khẩu theo
phương thức này do Nhà nước đứng ra trả tiền hoặc cam kết trả tiền hoặc uỷ
nhiệm cho doanh nghiệp thanh toán .
Đối với ngoại tệ thu được khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải
nộp vào quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước thông qua tài khoản của Bộ
Thương Mại và được thanh toán bằng VNĐ tương ứng theo tỷ giá do Nhà
nước quy định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, đa số các đơn
vị kinh doanh nhập khẩu được chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình
nên số lượng các đơn vị kinh doanh theo phương thức này rất ít chỉ trừ các
đơn vị hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt.
* Nhập khẩu ngoài nghị định thư: là phương thức hoạt động trong đó các
doanh nghiệp nhập khẩu không theo nghị định thư hay hiệp định thư do chính
phủ ký kết nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ pháp lý do Nhà nước quy định.
Các doanh nghiệp phải tự cân đối về tài chính, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với

7


ngân sách Nhà nước, chủ động về giá cả hàng hoá, thị trường trong phạm vi
Nhà nước cho phép. Và các doanh nghiệp hoàn toàn cố quyền chủ động trong
tổ chức nhập khẩu từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng. Doanh nghiệp

phải tự tìm bạn hàng, nguồn hàng, tổ chức giao dịch ký kết và thực hiện hợp
đồng trên cơ sở tuân thủ chính sách chế độ kinh tế của Nhà nước. Đối với số
ngoại tệ thu được từ tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu doanh nghiệp không phải
nộp vào quỹ ngoại tệ tập trung mà có thể bán ở trung tâm giao dịch ngoại tệ
hoặc ngân hàng. Nhập khẩu theo phương thức này tạo cho các doanh nghiệp
điều kiện để phát huy sự năng động sáng tạo và độc lập trong hạch toán kinh
doanh phù hợp với cơ chế thị trường.
1.2.3. Các hình thức nhập khẩu
Hiện nay họat động nhập khẩu thường được thực hiện theo các hình
thức sau:
Hình thức nhập khẩu trực tiếp.
Hình thức nhập khẩu ủy thác.
1.2.3.1. Hình thức nhập khẩu trực tiếp:
Là hình thức mà các doanh nghiệp trong nước có đủ điều kiện về tài
chính, điều kiện nhân lực , điều kiện địa lý có khả năng mua hàng nhập khẩu
và được nhà nước, bộ thương mại cấp giấy phép, cho phép trực tiếp giao dịch,
kí kết các hợp đồng về nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài và thanh toán
bằng ngoại tệ (chủ yếu là các ngoại tệ mạnh). Để nhằm phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng và phương trình kinh tế địa phương theo chính sách của Nhà nước.
1.2.3.2. Hình thức nhập khẩu ủy thác.
Là hình thức nhập khẩu được áp dụng đối với các doanh nghiệp có nhu
cầu nhập khẩu hàng hóa nhưng không có khả năng điều kiện hoặc chưa được
Nhà nước nhập khẩu trực tiếp nên phải nhờ doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp
nhập khẩu hộ. Theo hình thức này doanh nghiệp ủy thác được phép hạch toán
trị giá hàng nhập khẩu và có trách nhiệm thanh toán chi phi nhập khẩu cho
bên nhận ủy thác. Còn bên nhận ủy thác đóng vai trò là đại lý mua hưởng hoa
hồng theo thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác mà hai bên đã kí kết. Đơn vị
nhận ủy thác có trách nhiệm nhập hàng về theo đúng số lượng , chất lượng,
mẫu mã được yêu cầu.
Kinh doanh nhập khẩu theo hình thức nào là tùy thuộc vào điều kiện cụ

thể của từng doanh nghiệp. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp áp dụng cả hai
8


hình thức nhập khẩu trên nhằm tối đa hóa hiệu quả trong kinh doanh. Thông
thường tổ chức hoạt động nhập khẩu theo hình thức trực tiếp có lợi hơn vì
doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thông tin, tìm hiểu thị trường một cách
sâu sắc và toàn diện, có điều kiện mở rộng quan hệ, uy tín với bạn hàng nước
ngoài.
1.2.4. Các phương thức thanh toán Quốc tế chủ yếu dùng trong hoạt
động nhập khẩu
Phương thức thanh toán là một yếu tố quan trọng trong việc thực hiện
hợp đồng và nó cũng ảnh hưởng tới công tác kế toán. Phương thức thanh toán
quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận và trả tiền hàng trong dao dịch
mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Hiện nay
trong quan hệ ngoại thương có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau,
tùy theo mức độ tín nhiệm và giá trị hợp đồng mà người nhập khẩu phải nhận
hình thức thanh toán do người xuất khẩu yêu cầu hoặc theo điều kiện thanh
toán theo hợp đồng ngoại thương đã kí.
1.2.4.1. Phương thức ghi sổ
Là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu hàng hóa cung
ứng dịch vụ thì ghi nợ cho người nhập khẩu, theo dõi vào một cuốn sổ riêng
và việc thực hiện thanh toán các khoản nợ này sẽ được thực hiện sau một thời
kì nhất định.
1.2.4.2. Phương thức chuyển tiền
Theo phương thức này người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng phục vụ
mình chuyển một số tiền nhất định cho người xuất khẩu theo địa điểm nhất
định trong một thời gian nhất định.
Về hình thức việc chuyển tiền của ngân hàng phục vụ người nhập khẩu có thể
bằng điện hoặc bằng thư chuyển tiền

Sơ đồ phương thức thanh toán chuyển tiền

Ngân hàng phục vụ
người nhập khẩu

Người nhập khẩu

(4)

Ngân hàng phục vụ
người xuất khẩu

9


(2) (3)
(2)

(5)
(3)

Người xuất khẩu

(1)

(1) Người xuất khẩu sau khi kí hợp đồng xuất khẩu với phương thức thanh
toán chuyển tiền sẽ giao hàng cùng bộ chứng từ cho người nhập khẩu.
(2) Người nhập khẩu sau khi nhận hàng một thời gian nhất định quy định
trong hợp đồng sẽ liên hệ với ngân hàng phục vụ mình để nhờ chuyển trả tiền
cho người xuất khẩu.

(3) Ngân hàng ghi nợ tài khoản của người nhập khẩu.
(4) Ngân hàng người nhập khẩu tiến hành chuyển tiền cho ngân hàng phục vụ
người xuất khẩu.
(5) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển giấy báo cho người xuất
khẩu.
1.2.4.3. Phương thức thanh toán nhờ thu
Là phương thức thanh toán mà trong đó người xuất khẩu khi đã hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng thì tiến hành ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình
thu hộ tiền hàng trên cơ sỏ hối phiếu do người xuất khẩu lập. Có hai hình thức
nhờ thu là: nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
Nhờ thu trơn: Người xuất khẩu giao hàng và bộ chứng từ hàng hóa cho
ngừời nhập khẩu và sau đó nhập hối phiếu ủy quyền cho ngân hàng phục vụ
mình nhờ thu tiền từ người nhập khẩu.
Nhờ thu kèm chứng từ: Người xuất khẩu chỉ giao hàng cho người nhập
khẩu, sau đó nhập hối phiếu cùng bộ chứng từ hàng hóa giao cho ngân hàng
và nhờ ngân hàng thu tiền từ người nhập khẩu, bao gồm:
Nhờ thu chứng từ đổi lấy chấp nhận: theo phương thức này người nhập
khẩu khi nhận được hối phiếu có kì hạn do người xuất khẩu lập chỉ cần chập
nhận thanh toán trên hối phiếu là có thể nhận được bộ chứng từ hàng hóa.
Nhờ thu chứng từ đổi lấy sự thanh toán: Người nhập khẩu phải thanh toán tiền
hàng mới nhận được hàng hóa, quy trình như sau …
Sơ đồ 1.2:

Sơ đồ phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ
10


(3)

Ngân hàng phục vụ

người nhập khẩu

Ngân hàng phục vụ
người xuất khẩu

(6)

(5) (4)

(7)

(5) nhập
(4)khẩu
Người

(1)

(2)

Người xuất (7)
khẩu (2)

(1) Người xuất khẩu sau khi kí hợp đồng, trong đó quy định phương thức
thanh toán là nhờ thu kèm chứng từ sẽ giao hàng không kèm theo chứng từ
cho người nhập khẩu.
(2) Người, xuất khẩu chuyển hối phiếu cùng với bộ chứng từ cho ngân hàng
phục vụ mình uỷ thác thu.
(3) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển hối phiếu kèm chứng từ cho
ngân hàng phục vụ người nhập khẩu để nhờ thu.
(4) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu và bộ chứng từ cho

người nhập khẩu đổi lấy tiền.
(5) Người nhập khẩu chuyển trả tiền cho ngân hàng phục vụ mình.
(6) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển tiền cho ngân hàng người
xuất khẩu.
(7) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu gửi giấy báo cho người xuất khẩu.
1.2.4.4. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Là một thỏa thuận trong đó một ngân hàng đáp ứng những yêu cầu của
khách hàng cam kết sẽ trả một số tiền I’ định cho một người khác hoặc chấp
nhận hối phiếu do người này kí phát trong phạm vi số tiền đó khi người này
xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy
định đề ra trong thư tín dụng.
Sơ đồ 1.3 : Sơ đồ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
(2)
Ngân hàng L/C
(5)

(1)

(7)

(8)

(2)
(5)
(6)

Ngân hàng thông báo

(6)
11


(5)

(3)


Người nhập khẩu

Người xuất khẩu

(4)

(1) người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C và gửi cho ngân hàng mở L/C yêu
cầu mở L/C cho người xuất khẩu hưởng.
(2) Căn cứ vào đơn xin mở L/C ngân hàng mở L/C tiến hành mở L/C và
chuyển cho ngân hàng thông báo mở L/C.
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho
người xuất khẩu toàn bộ nội dung của thông báo về việc mở L/C và khi nhận
được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
(4) Người bán nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng, ngược lại thì đề
nghị người mua và ngân hàng mở L/C sửa đổi và bổ xung L/C cho phù hợp
với hợp đồng mới giao hàng.
(5) Sau khi giao hàng, người bán lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C xuất
trình cho ngân hàng mở L/C thông qua ngân hàng thông báo để đòi tiền.
(6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp với L/C thì trả tiền
cho người bán, nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ
chứng từ cho người xuất khẩu.
(7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng
hoá cho người nhập khẩu.
(8) Người mua kiểm tra chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì hoàn trả tiền

cho ngân hàng mở L/C , ngược lại thì từ chối trả tiền.
Thông qua trình tự tiến hành các bước ta thấy quá trình giao dịch giữa
người nhập khẩu, người nhập khẩu và ngân hàng ta thấy sự vận động chặt chẽ
hai luồng tiền và hàng. Ngoài ra ta còn thấy hai mặt vừa độc lập vừa phụ
thuộc giưa L/C và hợp đồng nhập khẩu. Chúng dộc lập ở chỗ ngân hàng chỉ
căn cứ vào đơn xin mở L/C của bên nhập khẩu để tiến hành mở L/C mà
không hề quan tâm đến hợp đồng xuất nhập khẩu, và tiến hành thanh toán cho
bên xuất khẩu khi bộ chứng từ thỏa mãn các điều kiện của L/C kể cả khi các
điều kiện này trái với hợp đồng. Tuy nhiên chúng lại phụ thuộc nhau ở chỗ
L/C được thảo ra trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng đã kí.
Tính chặt chẽ trong quy trình thanh toán khiến phương thức thanh toán
bằng L/C có độ tin cậy rất cao. Tuy nhiên phương thức này cũng có một số
hạn chế đó là sự phức tạp và độ chi phí cao phải trả cho ngân hàng phục vụ.
12


Mặt khác khi mở L/C người nhập khẩu phải kí một khoản tiền tương ứng 10 100% giá trị hợp đồng tùy mức độ tín nhiệm của ngân hàng với người xin mở
L/C. Đây chính là khoản vốn mà người nhập khẩu phải ứ đọng tại ngân hàng
trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu.
1.2.5. Các phương tiện thanh toán chủ yếu dùng trong hoạt động nhập
khẩu
1.2.5.1. Sec
Là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng kí phát ra lệnh
cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trên sec
hoặc trả theo lệnh của người đó hoặc trả cho người cẫm sec một số tiền nhất
định.
1.2.5.2. Kỳ phiếu
Kỳ phiếu do người nhập khẩu lập ra trong đó cam kết sau một thời gian
sẽ thanh toán toàn bộ số tiền ngân hàng nhập khẩu cho người xuất khẩu.
1.2.5.3. Hối phiếu

Là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một
người khác, yêu cầu người này khi nhận được nó phải trả ngay hoặc phải trả
vào một thời gian xác định trong tương lai một số tiền nhất định cho một
người nào đó có tên trên hối phiếu hoặc theo lệnh của người này trả cho một
người khác hoặc trả cho người cầm hối phiếu.
1.3 Những quy định đối với hàng nhập khẩu
1.3.1 Yêu cầu quản lý đối với hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là hoạt động tương đối phức tạp. Nó đòi hỏi các doanh
nghiệp có một tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có trình độ hiểu biết về nghiệp vụ
ngoại thương, tập quán kinh doanh quốc tế, luật pháp quốc tế ở một mức độ
nhất định. Trong điều kiện hiện nay, mức độ cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tương đối cao. Muốn hoạt động kinh
doand có hiệu qủa để đạt được các yêu cầu đề ra ở trên thì các doanh nghiệp
cần phải làm tốt các khâu quản lý.
Trong hoạt động nhập khẩu với những đặc thù riêng và vai trò quan
trọng của nó thì việc quản lý tốt các giai đoạn của quá trình nhập khẩu là rất
cần thiết. Muốn vậy phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
Trước khi kí kết các hợp đồng nhập khẩu, các nhà quản lý doanh
nghiệp phải nắm bắt chính xác, kịp thời nhứng thông tin về nhu cầu của thị
13


trường, về tình hình cung cầu của các loại hàng hoá mà doanh nghiệp dự định
sẽ mua, phải hiểu rõ và nắm vững quy luật vận động của thị trường, đặc biệt
là về giá cả hàng hoá. Hơn nữa, các nhà quản lý còn phải quan tâm đến những
biến động khó lường của tỷ gía thị trường để có biện pháp ứng phó kịp thời,
nắm chắc các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng: tên hàng, số lượng, phẩm
chất, giá cả, thời hạn thanh toán…
Khi thực hiện hợp đồng cac doanh nghiệp phải luôn luôn bám sát các
điều khoản của hợp đồng, tuân thủ chặt chẽ mọi điều khoản nhưng vẫn bảo

đảm mức chi phí bỏ ra tối thiểu nhằm tăng uy tín của doanh nghiệp và nâng
cao hiệu quả của kinh doanh. Cụ thể các doanh nghiệp cần thực hiện tốt từ
khâu đầu tiên là mở L/C, kiểm tra hàng hoá kĩ lưỡng cả về chất lượng và số
lượng, kiểu dáng…, trước khi nhận hàng cho đến khâu cuối cùng là thanh lý
hợp đồng.
Khi hàng nhập khẩu về kho, doanh nghiệp phải có chế độ bảo quản tốt và
quản lý, giám sát chặt chẽ số hàng đó cả về số lượng và mặt giá trị.
1.3.2 Thời hạn và phạm vi xác định hàng nhập khẩu
1.3.2.1Phạm vi hàng nhập khẩu
Hàng nhập khẩu là những hàng hoá từ nước ngoài vào nước ta thông
qua việc mua bán, trao đổi ngoại thương giữa các doanh nghiệp trong nước và
các doanh nghiệp ngoài nước. Hàng nhập khẩu vào nước ta rất đa dạng và
phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau: phục vụ cho nhu cầu đầu tư, sản xuất,
cho tiêu dùng…, các trường hợp sau được coi là hàng nhập khẩu:
Hàng mua của nước ngoài trên cơ sở các hợp đồng ngoại thương mà
doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta đã kí kết với các doanh nghiệp nước
ngoài.
Hàng hoá mà nước ngoài đưa vào nước ta để tham gia hội chợ, triển
lãm…, sau đó doanh nghiệp xuất nhập khẩu mua lại và thanh toán bằng ngoại
tệ.
Hàng hoá của nước ngoài viện trợ cho nước ta trên cơ sở các hiệp định,
nghị định thư ký kết giữa các Chính phủ Việt Nam với các nước khác, được
thực hiện thông qua các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Hàng hoá mua ở nước ngoài để xuất khẩu cho nước thứ ba theo hợp
đồng đã kí giữa các bên.
1.3.2.2 Thời điểm xác định hàng nhập khẩu
14


Việc xác định thời điểm hàng nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng trong

công tác hạch toán kế toán và thống kê. Theo thông lệ chung và nguyên tắc kế
toán được thừa nhận thì thời điểm xác định là hàng nhập khẩu là khi chủ hàng
có quyền sở hữu cho khách hàng, khách hàng đã thanh toán và chấp nhận
thanh toán. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc rất lớn vào phương thức bán
hàng và địa điểm giao nhận hàng hoá cụ thể như sau:
Nếu hàng chấp nhận vận chuyển bằng đường biển thì hàng nhập khẩu
tính từ ngày hàng hoá đến hải phận nước nhập, hải quan cảng biển đã kí xác
nhận vào tờ khai hàng nhập.
Nếu hàng hoá nhập khẩu được vận chuyển bằng đường sắt hoặc đường
bộ thì hàng nhập khẩu được tính từ ngày hàng hoá đến ga, trạm biên giới
nước nhập theo xác nhận của hải quan cửa khẩu.
Nếu hàng nhập khẩu vận chuyển bằng đường hàng không thì hàng hoá
nhập khẩu được tính từ ngày hàng hoá đến sân bay đầu tiên của nước nhập
theo xác nhận của hải quan sân bay đã hoàn thành thủ tục hải quan.
1.3.3 Những quy định về thuế quan đối với hàng nhập khẩu
Khi hàng hoá về đến cảng thì người nhập khẩu phải làm các thủ tục hải
quan như sau: Tiếp nhận và kê khai hàng hoá nhập khẩu trên cơ sở tính các
loại thuế phải nộp.
Số thuế phải nộp được tính theo công thức:
Số thuế nhập khẩu = số lượng từng mặt hàng x giá tính thuế của từng mặt
hàng x thuế xuất từng mặt hàng.
Giá tính thuế là giá CIF. Các lô hàng nhập khẩu dùng giá trị khác nhau
như giá FOB, CF…phải quy đổi sang giá CIF để tính thuế.
Hàng nhập khẩu có giá trị hợp đồng là ngoại tệ nên khi tính thuế trị giá
phải quy đổi ra tiền VIệt Nam theo tỷ giá hải quan quy định (thường là tỷ giá
do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm đăng kí tờ khai hàng
hoá). Tỷ giá này là không đổi kể từ khi ấn định trên tờ khai hải quan đến khi
nộp thuế là 30 hay 60 ngày và có sụ biến động của tỷ giá trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng.
Số thuế GTGT của hàng nhập khẩu được xác định theo công thức:

Thuế GTGT = [giá trị mua thực tế của hàng nhập khẩu + thuế nhập khẩu] x
thuế xuất theo GTGT.

15


Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải nộp thuế nhập khẩu và thuế
GTGT hàng nhập khẩu theo từng lần nhập khẩu. Thời hạn nộp thuế thường là
sau 30 ngày kể từ khi đăng kí tờ khai hải quan.
1.4 Kế toán hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu
1.4.1. Vai trò của kế toán nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá
Mỗi hoạt động kinh tế trong doanh nghiệp đều có một bộ phận kế toán
riêng theo dõi và quản lý hoạt động đó. Trong các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu thì hoạt động xuất nhập khẩu là chủ yếu, ở đó kế toán hoạt
động xuất nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống kế toán các
hoạt động của doanh nghiệp.
Xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu, kế
toán hoạt động kinh doanh nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc:
Phản ánh tình hình thực hiện kế hoạch nhập khẩu hàng hoá cả về số
lượng và chất lượng, giá trị theo từng mặt hàng, nhóm hàng giúp nhà quản trị
nắm được toàn bộ các nghiệp vụ nhập khẩu, trên cơ sở đó kiểm tra việc chấp
hành các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước trong doanh nghiệp, kiểm
tra, đánh giá qúa trình thực hiện kế hoạch nhập khẩu và tiêu thụ hạng nhập
khẩu để có biện pháp hoàn thiện công tác kinh doanh nhập khẩu thu lợi nhuận
tối đa.
Kiểm tra tình hình thanh toán giữa các bên. Vai trò này rất quan trọng
vì trong quá trình kinh doanh nói chung và tình hình kinh doanh xuất nhập
khẩu nói riêng không thể tránh khỏi tình trọng các doanh nghiệp chiếm dụng
vốn của nhau. Việc chiếm dụng vốn ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp, kế toán hoạt động nhập khẩu sẽ cung cấp các thông
tin đầy đủ về việc thanh toán với các bên nhập khẩu và những thông tin về
tình hình thanh toán trong tiêu thụ hàng nhập khẩu để tránh doanh nghiệp bị
phạt do chậm thanh toán cũng như tránh bị các doanh nghiệp khác chiếm
dụng vốn.
Kiểm tra tình hình doanh thu và chi phí: Giúp doanh nghiệp sử dụng
tiết kiệm các loại vật tư tiền vốn trong quá trình nhập khẩu. Trong cơ chế kinh
tế mới, các doanh nghiệp phải tự chủ về tài chính, các hoạt động của doanh
nghiệp phải đảm bảo thu bù chi và có lãi. Chỉ thế mới có thể tồn tại trên

16


thương trường. Điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp phải hạch toán đầy đủ và
chính xác doanh thu và các chi phí trong quá trình nhập khẩu.
Cung cấp số liệu, tài liệu cho việc điều hành hoạt động kinh doanh
nhập khẩu, kiểm tra, phân tích hoạt động kinh tế tài chính phục vụ công tác
lập kế hoạch và theo dõi việc thực hiện kế hoạch kì sau.
1.4.2. Chứng từ sử dụng
Xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động nhập khẩu hàng hoá và căn
cứ vào hệ thống chứng từ bộ Tài chính ban hành, tập quán thương mại quốc
tế,…trong hoạt động nhập khẩu thường sử dụng các loại chứng từ chủ yếu
sau:
Hoá đơn thương mại: là chứng từ cơ bản của khâu hạch toán, là yêu
cầu cảu người bán đòi hỏi người mua phải trả số tiền ghi trên hoá đơn. Hoá
đơn thương mại là cơ sở cho việc theo dõi, thực hiện hợp đồng và khai báo
thủ tục hải quan. Hoá đơn thương mại nói rõ đặc điểm của hàng hoá, đơn giá,
tổng giá trị của hàng hoá, điều kiện cơ sở giao hàng, phương thức thanh toán
và phương tiện để chuyên chở. Hoá đơn thương mại thường lập làm nhiều bản
và dùng trong nhiều việc khác nhau như xuất trình cho ngân hàng để đòi tiền

hàng, xuất trình cho công ty bảo hiểm để tính phí bảo hiểm, xuất trình cho cơ
quan quản lý ngoại hối của nước nhập khẩu để xin cấp ngoại tệ, xuất trình cho
hải quan để tính thuế.
Vận đơn đường biển: Là một chứng từ chuyên chở băng đường biển do
người chuyên chở hoặc người đại diện của họ cấp cho người gửi hàng sau khi
đã xếp hàng lên tàu hoặc sau khi nhận hàng về để xếp. Vận đơn đường biển
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong buôn bán quốc tế, nó là chứng từ không
thể thiếu trong thanh toán, bảo hiểm và khiếu nại.
Vận đơn đường sắt: là chứng từ vận tải co bản trong vận chuyển bằng
đường sắt. Vận đơn đường sắt có chức năng là bằng chứng của hợp đồng
chuyên chở hàng hoá bằng đường sắt và là biên lai của cơ quan đường sắt.
Vận đơn này thường dùng trong việc thanh toán tiền hàng, thông báo giao
hàng…
Vận đơn đường không: là chứng từ do cơ quan vận tải đường không
cung cấp cho người gửi hàng nhằm xác nhận việc giao hàng cho bên vận
chuyển. Vận đơn đường không cũng có ý nghĩa quan trọng, nó là chứng từ
giao nhận hàng hoá, là chứng từ thanh toán, bảo hiểm và khiếu nại.
17


Giấy chứng nhận bảo hiểm: Là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp
nhằm hợp thức hoá họp đồng bảo hiểm và được dùng dể điều tiết quan hệ
giữa tổ chức bảo hiểm và người được bảo hiểm. Tuỳ theo điều kiện giao hàng
mà người mua bảo hiểm có thể là bên nhập khẩu hoặc là xuất khẩu. Bảo hiểm
hàng hoá trong xuất nhập khẩu thường có bao mức A, B, C thông thường
người xuất khẩu sẽ mua bảo hiểm với mức thấp I’ theo giá CIF + 10% CFI
nếu xuất khẩu theo điều kiện CIF.
Giấy chứng nhận số lượng và trọng lượng: là chứng từ xác nhận số
lượng trọng lượng hàng hoá thực giao. Giấy chứng nhận này có thể do người
cung ứng hoặc tổ chức kiểm nghiệm hàng hoá nhập khẩu cấp tuỳ theo sự thoả

thuận của các bên trong một hợp đồng xuất nhập khẩu.
Giấy chứng nhận phẩm chất: Là chứng từ xác nhận chất lượng của
hàng hoá thực được giao, nó là bằng chứng chứng minh phẩm chất hàng hoá
phù hợp với hợp đồng. Giấy chứng nhận phẩm chất có hể do xưởng hoặc xí
nghiệp sản xuất hàng hoá hoặc cơ quan kiểm nghiệm cấp tuỳ theo điều kiện
giao hàng hay thoả thuận giữa các bên liên quan.
Giấy chứng nhận xuất xứ: là chứng từ do phòng thương mại cấp để xác
định nơi sản xuất hoặc khai thác đối với hàng hoá.
Giấy chứng nhận về vệ sinh: Do cơ quan có thẩm quyền kiểm tra chất
lượng hàng hoá hoặc y tế cấp cho chủ hàng sau khi đã kiểm tra hàng hóa và
không phát hiện ra những tác nhân gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ của người
sử dụng.
Bảng kê chi phí đóng gói: là bảng kê khai tất cả hàng hoá đựng trong
kiện hàng. Phiếu đóng gói được lập ngay khi đóng gói hàng hoá tạo điều kiện
kiểm tra hàng hoá trong mỗi kiện hàng.
Ngoài ra có thể còn một số chứng từ khác trong bộ chứng từ. Tuỳ theo
yêu cầu của các bên đã kí kết trong hợp đồngxnk. Bộ chứng từ này bao gồm
rất nhiều chứng từ nhằm phục vụ cho các nghiệp vụ giao, nhận hàng hoá.
Trong thực tế kế toán viên chỉ sử dụng một số chứng từ trong số đó phục vụ
cho nghiệp vụ hạch toán ban đầu.
Ngoài ra những chứng từ trong bộ chứng từ giao nhận hàng, kế toán
hoạt động nhập khẩu hàng hoá còn sử dụng những chứng từ khác trong hạch
toán ban đầu
Phiếu nhập kho
18


Hoá đơn kiêm phiếu xuất nhập khẩu
Bảng kê tính thuế
Biên lai nộp thuế

Các hóa đơn đặc thù, hóa đơn GTGT trong quá trình vận chuyển bốc dỡ
hàng hoá
Giấy tạm ứng
Giấy báo nợ, giấy báo có
Phiếu thu, phiếu thu
Tờ khai hải quan
Bảng kê chi tiết hàng nhập khẩu
Biên bản kiểm nghiệm, thừa thiếu, đổ vỡ
Biên bản quyết toán hàng với tàu
1.4.3. Tài khoản sử dụng
Song song với quá trình hạch toán ban đầu là hạch toán tổng hợp và
hạch toán chi tiết. Hạch toán tổng hợp là việc ghi chép phản ánh và giám đốc
các nghiệp vụ kinh tế ps một cách tổng hợp trên cơ sở các chứng từ cung cấp
từ khâu hạch toán ban đầu tạo ra các thông tin tổng hợp nhằm đáp ứng yêu
cầu quản lý.
Việc sử dụng một hệ thống tài khoản đầy đủ hợp lý đối với mỗi phần
hành kế toán trong doanh nghiệp giúp giảm nhẹ công việc của kế toán, giảm
bớt thời gian tổng hợp số liệu trong lập báo cáo cuối các tháng, quý và cả
năm.
Kế toán hoạt động hàng hoá sử dụng những tài khoản sau:
Tài khoản 151: Mua hàng đang đi đường
Tài khoản này nhằm phản ánh trị giá hàng hoá nhập khẩu đã có chứng
từ nhưng chưa về tới kho cuối cùng. K/c của tài khoản này như sau:
Bên nợ:
Trị giá hàng nhập khẩu về đang chờ kiểm nhận
Số thuế nhập khẩu phải nộp
Bên có:
Trị giá hàng nhập khẩu đã kiểm nhận nhập khẩu nhập kho
Trị giá hàng hoá nhập khẩu đã bán thẳng
Trị giá hàng thiếu chờ giải quyết


19


Số dư bên nợ: phản ánh trị giá hàng hoá nhập khẩu chưa về nhập kho cuối
tháng
Tài khoản 156: hàng hoá
Tài khoản này phản ánh trị giá hiện có và tình hình biến động hàng hoá
nhập khẩu đã nhập kho của doanh nghiệp kết cấu của tài khoản.
Bên nợ:
Trị giá hàng nhập khẩu đã nhập kho
Thuế nhập khẩu của số hàng đã nhập kho
Chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng nhập khẩu đã nhập kho
Trị giá hàng thừa phát hiện trong quá trình nhập kho
Bên có:
Trị giá thực tế của hàng hoá nhập khẩu xuất kho để bán, giao đại lý ký
gửi, thuê ngoài gia công hoặc sử dụng trong doanh nghiệp
Chi phí thu mua phân bổ cho hàng nhập khẩu đã tiêu thụ trong định kì
Chiết khấu mua hàng nhập khẩu được hưởng, giảm giá hàng nhập khẩu
được hưởng
Trị giá hàng nhập khẩu trả lại sau khi đã nhập kho do hư hỏng, mất
phẩm chất.
Trị giá hàng hoá nhập khẩu bị phát hiện thiếu hụt trong kho
Số dư bên nợ:
Trị giá hàng hoá nhập khẩu còn tồn kho cuối kỳ
Chi phí mua hàng phân bổ cho hàng nhập khẩu chưa được tiêu thụ cuối
kỳ.
Tài khoản 112 (1122): tiền gửi ngân hàng
Dùng để phản ánh số hiện có và tình hình biến động của các khoản tiền
gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng, tại kho bạc Nhà nước hoặc công ty tài

chính.
Bên nợ: các khoản tiền gửi vào ngân hàng
Bên có: các khoản rút ra từ ngân hàng
Số dư bên nợ: số tiền doanh nghiệp hiện có gửi tại ngân hàng
Ngoài ra kế toán hoạt động ngân hàng còn sử dụng một số tài khoản
khác:

20


Tài khoản 515 (doanh thu hoạt động tài chính) và tài khoản 635 (chi
phí hoạt động tài chính) để thay thế cho tài khoản 413 (chênh lệch tỷ giá) để
phản ánh số chênh lệch do thay đổi tỷ giá ngoại tệ.
TK111: tiền mặt
TK133: thuế GTGT được khấu trừ
TK138 : PhảI thu khác
TK144: thế chấp ký cược ký quỹ ngắn hạn
TK157: hàng gửi đI bán
TK331: phảI trả người bán
TK333: thuế và các khoản phảI nộp nhà nước
TK338: phait trả phảI nộp khác
TK611: mua hàng( nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê
định kỳ
Ngoài ra, để phục vụ cho yêu cầu quản lý chi tiết hoạt động nhập khẩu
của chính mình các doanh nghiệp còn mở các tài khoản cấp 2, 3, 4,…
1.4.4. Kế toán hoạt động nhập khẩu hàng hoá theo từng hình thức
1.4.4.1-Nguyên tắc kế toán ngoại tệ
Thanh toán trong hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu bằng ngoại tệ do
vậy việc sử dụng tỷ giá hối đoái để ghi chép, phản ánh có ảnh hưởng lớn đến
kết quả các thương vụ, kế toán cần nắm rõ các nguyên tắc cơ bản sau:

- Nguyên tắc 1: Các đơn vị phải tiến hành hạch toán các nghiệp vụ kinh
tế liên quan đến hoạt động nhập khẩu thanh toán bằng ngoại tệ theo tỷ giá
thực tế do liên ngân hàng công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ.

21


- Nguyên tắc 2: Đồng thời với việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế liên
quan đến hoạt động nhập khẩu thanh toán bằng ngoại tệ ra VNĐ theo tỷ giá
thực tế thì phải theo dõi nguyên tệ chi tiết ngoài hệ thống sổ ghi kép (Tài
khoản ngoài bảng - 007) để biết số ngoại tệ biến động trong kỳ và còn lại ở
mọi thời điểm.
- Nguyên tắc 3: Nếu đơn vị có phát sinh lớn về các giao dịch ngoại tệ
nhập khẩu thì có thể sử dụng tỷ giá hạch toán để quy đổi về VNĐ để ghi chép
kịp thời, thuận tiện các giao dịch kinh tế, cuối kỳ phải điều chỉnh về tỷ giá
thực tế được công bố vào ngày cuối kỳ.
- Nguyên tắc 4: Các công nợ phải thu, phải trả người bán có gốc ngoai
tệ thì phải hạch toán rành mạch về nợ bằng nguyên tệ và quy đổi về VNĐ
theo nguyên tắc 1 và 3.
- Nguyên tắc 5: Các tài khoản có gốc ngoai tệ còn dư như TK 331,
TK111, TK 112 , ngoại tệ phải được điều chỉnh về tỷ giá thực tế cuối kỳ kế
toán . Chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ và chênh lệch đánh giá lại cuối kỳ
của các tài khoản công nợ và vốn bằng tiền được xử lý như sau:
+ Chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ được đưa vào thu nhập hoặc chi
phí hoạt động tài chính
+ Chênh lệch tỷ giá ngoại tệ đánh giá lại cuối kỳ được treo trên bảng cân
đối kế toán ở TK 413
1.4.4.2. Nguyên tắc xác định giá hàng nhập khẩu
Hàng hoá trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được phản ánh trên
tài khoản kế toán và trên báo cáo kế toán theo trị giá vốn thực tế, nghĩa là toàn

bộ số tiền doanh nghiệp bỏ ra để có được số hàng hoá đó. Trị giá vốn của
hàng nhập khẩu được xác định như sau:
Giá vốn thực
tế hàng nhập
khẩu

Giá mua thực
Thuế
Thuế
Thuế
Phí
= tế hàng nhập + NK + TTĐB hoặc GTGT + mua hàng
khẩu (quy đổi
hàngNK
hàngNK
theo tỷ giá liên NH
(nếu thuế
do NHNN VN công bố
GTGT tính
tại thời điểm thanh toán
vào giá hàng

22

+

Giảm giá
bớt giá



*Trong đó:Giá mua thực tế bằng ngoại tệ: Mua theo giá nào ghi theo giá
đó và quy ra VNĐ theo tỷ giá khoán (nếu nhập khẩu theo nghị định thư), theo
giá thực tế liên ngân hàng công bố (nếu nhập khẩu ngoài nghị định thư). ở
Việt Nam hiện nay giá hàng hoá xuất nhập khẩu thường áp dụng hai loại giá
chủ yếu là giá CIF hoặc giá FOB và trong hoạt động nhập khẩu, thường thì
giá CIF hay được sử dụng hơn.
Giá FOB là giá của hàng hoá được giao tại cảng, sân bay hoặc biên giới
nước xuất khẩu (nước bán)
Giá
FOB

=

Giá mua thực tế
hàng xuất khẩu

+

Chi phí vân chuyển bốc dỡ tới cảng
biên giới của nước xuẩt khẩu

Giá CIF là giá của hàng hoá được giao tại cảng, sân bay hoặc biên giới
nước nhập khẩu (nước mua )

Giá
CIF

=

Giá thực tế hàng

nhập khẩu

Phí bảo
hiểm hàng
NKnhập
khẩu

+

*Thuế nhập k `

Thuế nhập khẩu
phải nộp

=

Số lượng hàng
nhập khẩu

x

+

Phí vận chuyển tới nơi
giao hàng cho người mua
hàng

Giá tính thuế
nhập khẩu(VNĐ)


x

Thuế
suất

Lưu ý: Nếu giá hàng NK trên hợp đồng thấp hơn giá tối thiểu thì sử dụng
đơn giá tối thiểu do Nhà nước quy định Thuế TTĐB (nếu có)
thuế
=
TTĐB

Số lượng hàng x
nhập khẩu

Giá tính thuế
nhập khẩu

23

+

Thuế
NK

Thuế

x suất


*Thuế GTGT của hàng nhập khẩu:

Thuế =
GTGT



Số lượng hàng x
nhập khẩu

Giá tính thuế
+
nhập khẩu

Thuế
NK

x

Thuế
suất

Nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ thuế và hàng
NK sử dụng để sản xuất những mặt hàng chịu thuế GTGT thì
thuế GTGT của hàng nhập khẩu không được tính vào giá vốn
thực tế của hàng NK.



Nếu doanh nghiệp áp dụng phương thức trực tiếp khi tính thuế

GTGT hoặc hàng nhập khẩu là để sử dụng cho phúc lợi, sự

nghiệp, hoặc sản xuất những mặt hàng thuộc diện chịu thuế
GTGT thì thuế GTGT của hàng nhập khẩu được tính vào giá thực
tế của hàng NK.
ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chủ yếu mua hàng
nhập khẩu theo giá CIF.
1.4.4.3. Kế toán hoạt động nhập khẩu trực tiếp
*Theo phương pháp kê khai thường xuyên
Sau khi kí kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá doanh nghiệp làm thủ tục
mở L/C tại ngân hàng do bên bán chỉ định. Doanh nghiệp tiến hành kí quỹ để
mở L/C
Nợ TK 144: tổng số tiền kí quỹ
Có TK 111 (1122), 112 (1122): số tiền kí quỹ
Có TK 311: số tiền vay ngắn hạn để ký quỹ
Đồng thời ghi có tài khoản 007: số nguyên tệ đã ký quỹ
Khi nhận được thông báo hàng về đến địa điểm giao nhận và làm thủ
tục hải quan, kế toán phương án hàng phụ thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp.
Nợ TK 151 : trị giá hàng nhập khẩu (theo tỷ giá thực tế)
Có TK 331: phải trả người bán
Khi kê khai thuế nhập khẩu kế toán ghi:
Nợ TK 151:
số thuế phải nộp
Có TK 333
24


Nếu hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trong khâu
nhập khẩu, khi kê khai thuế tiêu thụ đặc biệt kế toán ghi.
Nợ TK 151: thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp
Có TK 3332

Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá trị đã có thuế nhập khẩu
Khi kê khai thuế GTGT phải nộp, kế toán ghi:
Nợ TK 133: thuế GTGT phải nộp
Có TK 3331 (33312)
Giá trị thuế GTGT là giá đã có thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt
Khi nộp các khoản thuế này kế toán ghi:
Nợ TK 3333,3332, 3331(33312): số tiền thuế đã nộp
Có TK 111, 112
Khi hàng về kho, hoặc gửi đi bán hoặc bán thẳng không qua kho, kế
toán ghi:
Nợ TK 156 (1561) nếu hàng về nhập kho
Nợ TK 157: nếu hàng gửi đi bán
Nợ TK 632 nếu hàng bán không qua kho
Có TK 151
Khi phát sinh các chi phí liên quan đến quá trình nhập khẩu hàng hoá,
kế toán ghi:
Nợ TK 156(1562): giá chưa có thuế
Nợ TK 133: thuế GTGT
Có TK 111, 112: giá thanh toán
Khi thanh toán với bên xuất khẩu
Nếu phát sinh lãi tỷ giá trong hạch toán kế toán ghi
Nợ TK 331: tỷ giá ghi sổ (thời điểm giao hàng)
Có TK 515: chênh lệch tỷ giá
Có TK 144: tỷ giá ghi trên sổ (thời điểm ký quỹ)
(tỷ giá thực tế tại thời điểm mở thư tín dụng nhỏ hơn tỷ giá thực tế tại thời
điểm giao hàng)

Nợ TK 331: tỷ giá ghi trên sổ (thời điểm giao hàng)
Có TK 515: chênh lệch tỷ giá


25


×