Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.52 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
KHOA:

Môn TTHCM TRẢ LỜI CÂU HỎI CHƯƠNG V
NHÓM

TT
1
2
3
4
5
6
7
8

CA THỨ

Họ
Lê Thị Mai
Huỳnh Thị Hồng
Ngô Thị Thùy
Võ Lam
Nguyễn Thị Thanh
Nguyễn Đỗ Uyên
Mai Thùy
Nguyễn Ngọc Như

Tên
Phương
Nhi


Vân
Triều
Huyên
Vi
Dung
Ý

Năm 2017

CHƯƠNG V

TT/D


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ ĐOÀN
KẾT QUỐC TẾ
1. Vì sao Hồ Chí Minh quan tâm đến vấn đề đoàn kết dân tộc?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Di chúc trước khi Người đi về
cõi vĩnh hằng, để lại cho những thế hệ muôn đời sau nhiều lời căn dặn, nhắn
nhủ cũng như nhiều dự liệu, định hướng quan trọng. Trong 6 vấn đề lớn mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới ở nội dung Di chúc, Người cũng đặc biệt
chú trọng đến vấn đề đoàn kết, được coi là vấn đề mà Người lo ngại và trăn
trở nhất. Người đã từng nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”.
PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà – Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng cho rằng: “Bác
Hồ đã khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu của Đảng và nhân
dân ta. Điều đó xuất phát từ 4 lý do. Thứ nhất, Người hiểu về sức mạnh của
đoàn kết, nếu không có đoàn kết thì nội bộ sẽ chia rẽ, không tạo ra sự nhất
trí. Thứ hai, Người hiểu rõ truyền thống của dân tộc ta, để chống được giặc
ngoại xâm là nhờ sự đoàn kết, nhờ sự góp sức và đồng lòng với nhân dân.

Thứ ba, Người coi đoàn kết như con ngươi của mắt mình, là định hướng để
hành động có hiệu quả. Và thứ tư, Người nhận thấy tác hại của sự thiếu vắng
tinh thần đoàn kết. Đó là lý do mà Người đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề
đoàn kết trong nội bộ”.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những
đối tượng khác nhau. Người cho rằng: Đại đoàn kết là vấn đề sống còn của
cách mạng, và đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của
cách mạng:


Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản,
nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh,
là then chốt của thành công. Cách mạng muốn thắng lợi phải có lực lượng đủ
mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất.
Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, quy mô của đoàn kết
quyết định quy mô,mức độ của thành công.
2.Giải thích quan niệm của Hồ Chí Minh: ĐĐKDT là vấn đề chiến lược,
nhất quán xuyên suốt của tiến trình CMVN.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng và
lực lượng đó phải đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù, xây dựng thành công xã
hội mới. Trong thời đại mới, kẻ thù của cách mạng mang tính quốc tế, cách
mạng mỗi nước là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới. Trong điều
kiện đó, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng mạnh mẽ ở trong
nước, đồng thời phải có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của cộng đồng quốc tế.
Cũng theo Hồ Chí Minh, muốn có lực lượng phải thực hành đoàn kết vì
“đoàn kết là lực lượng”. Bởi vậy trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là
vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn lâu dài, quyết định thành bại của
cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ, đoàn kết trong đảng, đoàn kết dân tộc kết

hợp chặt chẽ với đoàn kết quốc tế, tạo ra sức mạnh to lớn, vượt trội là
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Để thực hiện đại đoàn kết điều căn bản là phân biệt rõ bạn và thù. Hồ Chí
Minh đã từng nhắc nhở những người cách mạng: chủ nghĩa Mác - Lênin dạy
chúng ta rằng, muốn làm cách mạng thắng lợi phải phân biệt rõ ai là bạn, ai
là thù, phải biết thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Nhận thức này có từ rất sớm ở Hồ
Chí Minh. Đầu thế kỷ XX, trong khi nhiều người Việt Nam căm thù thực
dân Pháp cho rằng, những người Pháp, người da trắng là kẻ thù, hoặc nhiều


người lao động Pháp bị hệ thống tuyên truyền thực dân lừa gạt cho rằng
những người ở thuộc địa là loại người ngu dốt cần được “khai hoá”, thì
ngược lại, Hồ Chí Minh đã sớm xác định đúng đắn bạn, thù của cách mạng
Việt Nam. Nghiên cứu tổng kết thực tiễn Hồ Chí Minh đi đến kết luận, thực
dân Pháp và tay sai là kẻ thù của nhân dân lao động Pháp và nhân dân Việt
Nam. Còn nhân dân Việt Nam cùng nhân dân các thuộc địa và nhân dân lao
động Pháp là anh em, quan hệ giữa họ “sẽ là những mối quan hệ đoàn kết và
liên minh”. Với nhận định đúng đắn đó, Hồ Chí Minh đã xác định trong
cộng đồng người Việt Nam có một số rất ít thững kẻ cố tình phản bội lợi ích
dân tộc, cấu kết với phátxít Nhật, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược là kẻ
thù của nhân dân và cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ, tất cả những
người Việt Nam yêu nước, nhân dân Nhật, Pháp, Mỹ yêu hoà bình, tự do,
phản đối cuộc chiến của chính phủ nước họ tiến hành ở Việt Nam thì đều là
bạn bè, là lực lượng cần đoàn kết, liên minh. Đi theo tư tưởng đại đoàn kết
Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam ngày càng được nhiều lực lượng trong
nước và trên thế giới đồng tình ủng hộ. Hồ Chí Minh từng khẳng định nhờ
lực lượng đó, cách mạng Tháng Tám đã thành công, kháng chiến chống thực
dân Pháp đã thắng lợi và đế quốc Mỹ cùng tay sai nhất định sẽ thất bại, Tổ
quốc Việt Nam nhất định sẽ hoà bình, độc lập, thống nhất và giàu mạnh. Mối
quan hệ chặt chẽ giữa đại đoàn kết và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng

được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành
công”. Hồ Chí Minh kết luận: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”.
Ở miền Bắc, sau ngày giải phóng, tháng 9-1955, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ)
Việt Nam được thành lập. Mặt trận đã đoàn kết đại bộ phận 17 triệu nhân
dân miền Bắc, dựa chắc trên nền tảng của khối liên minh công - nông và đội
ngũ trí thức, để thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc; đồng


thời, chi viện đắc lực cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Ở miền
Nam, những năm sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, với niềm tin vào Đảng, vào Chủ
tịch Hồ Chí Minh, vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp đấu tranh thống
nhất đất nước, các tầng lớp nhân dân miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đã đoàn kết một lòng, liên tục nổi dậy đấu tranh, mà đỉnh cao là phong trào
Đồng khởi cuối năm 1959 và trong năm 1960, đập tan từng mảng chính
quyền Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, đưa cách mạng miền Nam
từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Thắng lợi của phong trào Đồng
khởi được tạo nên bởi lòng dân, ý Đảng, phản ánh sự thống nhất về ý chí,
hành động và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân vì sự nghiệp đấu tranh
thống nhất đất nước. Cũng chính từ đây, phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân miền Nam đặt ra yêu cầu khách quan phải có một tổ chức đoàn kết
thật rộng rãi các lực lượng chống chế độ thực dân mới của Mỹ và bè lũ tay
sai. Theo đó, ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng (MTDTGP)
miền Nam Việt Nam được thành lập. Mặt trận chủ trương đoàn kết tất cả các
tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các
tôn giáo và nhân sỹ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, nhằm
đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện độc lập, dân
chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Dựa chắc vào
khối liên minh công - nông, Mặt trận chủ trương tranh thủ bất cứ người nào
có thể tranh thủ được, đoàn kết bất cứ người nào có thể đoàn kết được, nhằm

triệt để phân hóa và cô lập kẻ thù, tập hợp rộng rãi tất cả các tầng lớp nhân
dân miền Nam chĩa mũi nhọn vào đế quốc Mỹ xâm lược và bọn tay sai phản
động. Thông qua cương lĩnh đúng đắn, chương trình hành động thiết thực,
bằng những mục tiêu phù hợp, với những bước đệm: tự do, dân chủ, cải
thiện dân sinh, hòa bình trung lập..


Tiếp theo đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, MTTQ Việt Nam, MTDTGP miền
Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình
Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ nhau để tiếp tục phân hóa và cô lập
cao độ kẻ thù, tập hợp các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh buộc địch
phải thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Pa-ri; đồng thời, tranh thủ thời cơ,
với quyết tâm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến ngày toàn
thắng. Mùa xuân 1975, chớp lấy thời cơ mới xuất hiện, Đảng ta hạ quyết tâm
động viên sức mạnh cao nhất của cả nước để giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước. Hướng ra tiền tuyến, miền Bắc đã dốc toàn bộ
sức mạnh hiện có và tiềm tàng của mình cho miền Nam tổng tiến công và
nổi dậy. Trên chiến trường miền Nam, các hoạt động tiến công quân sự của
các binh đoàn chủ lực, của các lực lượng vũ trang địa phương và nổi dậy tại
chỗ của nhân dân các địa phương đã phối hợp, hỗ trợ nhau, nhanh chóng đập
tan sự kháng cự của địch, buộc chính quyền ngụy Sài Gòn phải tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện vào ngày 30-4. Sài Gòn được giải phóng trong trạng thái
hầu như nguyên vẹn, tràn ngập cờ, hoa của các tầng lớp nhân dân chào đón
Quân giải phóng; không có một cuộc “tắm máu”, hay trả thù nào như kẻ thù
tuyên truyền, xuyên tạc là minh chứng hùng hồn về sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc ngay trong chiến dịch cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy mùa Xuân 1975 - Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta dày công xây dựng và
phát huy mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có nguồn
gốc trước hết từ đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn của Đảng.

Đó là đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng
XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
nhằm thực hiện một mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân


chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, mở
đường đưa cả nước đi lên CNXH. Với việc giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH, Đảng ta đã phản ánh được nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của
Không thể bỏ qua một nhân tố quan trọng khác, cho phép xây dựng và phát
huy được khối đại đoàn kết toàn dân tộc một cách rộng rãi và vững chắc
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đó là phương thức tập hợp
quần chúng vô cùng sáng tạo của Đảng. Với chủ trương “Đoàn kết bất cứ
người nào có thể đoàn kết được”, Đảng đã vận dụng nhiều hình thức, biện
pháp phù hợp với yêu cầu, mục tiêu của từng chiến lược cách mạng ở mỗi
miền để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, mà không dập khuôn, máy
móc. Mặc dù việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân ở mỗi miền vẫn trên cơ
sở lấy liên minh công - nông làm nền tảng cho mặt trận dân tộc thống nhất,
song mặt trận dân tộc thống nhất ở mỗi miền lại có mục tiêu, cương lĩnh,
hình thức tổ chức, cơ cấu thành phần không giống nhau. Ở miền Nam, việc
đặt ra mục tiêu của MTDTGP miền Nam Việt Nam là: “thực hiện một miền
Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống
nhất nước nhà” là một chủ trương hết sức mềm dẻo, linh hoạt, có nhiều bước
đệm so với cương lĩnh của MTTQ Việt Nam ở miền Bắc, nên đã tập hợp
được mọi lực lượng, mọi người dân yêu nước ở miền Nam tham gia vào
cuộc đấu tranh chống Mỹ - ngụy, thực hiện mục tiêu chung là giành độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước. Do vậy, có thể khẳng định rằng: xây dựng,
phát triển mặt trận dân tộc thống nhất trên cả 2 miền, với hình thức mặt trận
khác nhau, nhưng vẫn do một Đảng lãnh đạo, là nét độc đáo của Đảng ta về
tổ chức tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


3.Vì sao Hồ Chí Minh coi ĐĐKDT là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng?
Vì ĐĐLDT là vấn đề có ý nghĩa sống còn, lâu dài, quyết định thành
bại của cách mạng, là một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối, chiến lược
cách mạng của Đảng, phù hợp với đòi hỏi muốn tự giải phóng minh của
nhân dân. Khối ĐĐKDT phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi
ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản, chính đáng của nhân dân.
Chỉ có tin vào dân, dựa vào dân thì mới xây dựng được khối đại đoan kết
một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, cùng hướng đến mục tiêu chung.
Tư tưởng đại đoàn kết và chính sách mặt trận dân tộc thống nhất đó đã được
Đảng ta vận dụng đúng đắn, sáng tạo, được toàn dân ta hưởng ứng hết lòng,
tạo nên sức mạnh phi thường đưa đất nước ta vượt qua mọi gian lao, thử
thách, gianh thắng lợi to lớn qua các thời kì cách mạng.

4.Vì sao Hồ Chí Minh coi ĐĐKDT là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của
DT?
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa là sức
mạnh mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó ĐĐKDT phải được xác định là
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong mọi đường lối
chinh sách chủ trương của Đảng.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng đại đoàn kết toàn dân không chỉ là mục tiêu của
Đảng mà là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đảng cộng sản có
trách nhiệm tập hợp hướng dẫn quần chúng thực hiện khối đại đoàn kết toàn
dân tộc tạo thanh sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự
do và hạnh phúc cho nhân dân.



5.Khi ĐĐKDT trở thành mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của DT, ĐCS có
nhiệm vụ gì? Giải thích nội dung của nhiệm vụ đó.
Để phát huy mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng,
an ninh và tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh
trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung thực hiện 5 nhiệm vụ cụ thể.
Một là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu
nước, tự hào dân tộc, truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhân nghĩa, khoan
dung và ý thức về sức mạnh đại đoàn kết trong quá trình phát triển đất nước.
Đây là tiền đề bên trong để mỗi người dân hình thành nhu cầu tham gia vào
việc xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tích cực
tuyên
truyền, tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và
các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn hiện nay, để
tạo sự đồng thuận cao của nhân dân đối với con đường phát triển của đất
nước và sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tích cực đóng góp vào việc tham
gia xây dựng và cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước để phát huy đầy đủ các lợi thế quốc gia, nhất là lợi thế về con
người Việt Nam, tận dụng mọi thời cơ của giai đoạn hội nhập mới và ứng
phó chủ động, hiệu quả với các thách thức, đồng thời bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, trong đó có các dân
tộc, tôn giáo, đồng bào Việt Nam ở nước ngoài.


Bốn là, tổ chức có hiệu quả các cuộc vận động, phong trào của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên làm cho đại đoàn kết trở thành
động lực, nguồn lực tinh thần và vật chất to lớn của đất nước để phát triển

nhanh hơn, bền vững hơn trong thời kỳ hội nhập mới hiện nay.
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình”.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nguyện làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân, thực hiện sáng tạo, hiệu quả chức năng giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
6.Giải thích quan niệm của Hồ Chí Minh : ĐĐKDT là đại đoàn kết toàn
dân.
Thứ 1 là truyền thống yêu nước, tinh thần nhân ái của cộng đồng dân
tộc Việt Nam: Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước,
tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, đoàn kết dân tộc của dân
tộc Việt Nam đã được hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống
bền vững.
Thứ 2 là quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin: chủ nghĩa Mac –
Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người
sáng tạo lịch sử, giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng
phải trở thành dân tộc. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân
dân lao động với đổi ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách
mạng vô sản không thể thực hiện được. Đó là những quan điểm lí luận hết


sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác
yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong tư tưởng tập hợp lực lượng
của các nhà yêu nước Việt Nam và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ
đó hình thanh tư tưởng của người về đại đoàn kết dân tộc.
Thứ 3 là trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như sau này,
Hồ Chí Minh đã luôn chú ý nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của

phong trào yêu nước Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên
thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những
kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong trào dân tộc dân
chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga là cơ sở
thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc.
7.Hồ Chí Minh quan niệm như thế nào về điều kiện thực hiện ĐĐKDT?
- Phải có truyền thống yêu nước , đoàn kết , nhân nghĩa của dân tộc .
- Phải có tấm lòng khoan dung , độ lượng .
- Phải hiểu dân , tin dân , dựa vào dân , tránh quan điểm giai cấp tôn giáo , tín
ngưỡng , xóa bỏ mọi thành kiến , phải thật thà , đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi .

8.Hồ Chí Minh quan niệm như thế nào về hình thức tổ chức của khối
ĐĐKDT?
- Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan
niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược
cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó


phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ
chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất.
- Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững
chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một đường
lối chính trị đúng đắn. Nếu không được như vậy, thì quần chúng nhân dân dù có
đông tới hàng triệu, hàng trăm triệu con người cũng chỉ là một số đông không có
sức mạnh.
- Thất bại của các tổ chức yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước khi
Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ điều này, về một phương diện nào đó, có thể

khẳng định rằng, quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá
trình tìm kiếm mô hình và cách thức tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức
mạnh cho quần chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng
xã hội. Chính vì vậy, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã
rất chú ý đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng
giai cấp, từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp với
từng giai đoạn của cách mạng. Đó có thể là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội
hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội
phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn...
Trong đó, bao trùm nhất là mặt trận dân tộc thống nhất.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi
tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà con bao gồm cả những
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng
vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt Nam, đều được coi là thành
viên của mặt trận.


- Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh và
điều lệ của mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét khác nhau, tên gọi của
mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác nhau:
- Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản
đế(ì 939), Mặt trận Việt Minh ( 1941 ), Mặt trận Liên Việt (1946), Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
(1955.1976). Song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn
của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước,
phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và
hạnh phúc của nhân dân.

9.Hồ Chí Minh quan niệm Mặt trận như thế nào? Nêu và phân tích

nguyên tắc XD và hoạt động của Mặt trận.
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chúc chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên
minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy
tụ mọi con dân nước Việt. Song, đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu


nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ
chức trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó
hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
Việt Nam trong lịch sử. Trên thực tế và theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ
là tình cảm của "người chung một nước phải thương nhau cùng" nữa., mà đã được
xây dựng trên một cơ sở lý luận vững chắc.
Hồ Chí Minh viết: "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông,
cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất"1. Người
chỉ rõ ràng, sở dĩ phải lấy liên minh công - nông làm nền tảng "Vì họ là người trực
tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng
bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ
hơn của mọi tầng lớp khác"'. Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt
của liên minh công nông, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối
liên minh công nông mà không thấy vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết
với các tầng lớp khác, nhất là tầng lớp trí thức. Làm cách mạng phải có trí thức và
tầng lớp trí thức rất quan trọng đối với cách mạng. Người nói; " trong sự nghiệp

cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai
trò quan trọng và vẻ vang: và công, nông, tri cần đoàn kết chặt chẽ thành một
khối"'.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công nông luôn được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai
cấp. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công
- nông - trí thức càng được tăng cường; ngược lại, liên minh công - nông - trí thức
càng được tăng cường, Mặt trận dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức
mạnh mà không một kể thù nào có thể phá nổi.


Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có thể
được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo
đảm cho mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì chỉ có
chính đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác - Lênin mới
đánh giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra
được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng
vào khối đại đoàn kết trong mặt trận, biến tiến trình cách mạng trở thành ngày hội
thật sự của quần chúng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ
giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận. Đảng không
có lực lượng không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự
lãnh đạo của Đảng. Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương
hướng hoạt động đúng đắn. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành
viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực Lượng lãnh đạo mặt trận.
Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất
yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn,
phát hiện ra các quy luật khách quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối
và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành công các
nhiệm và cách mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị nào trong
Mặt trận có thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giải phóng dân tộc và

giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích
của giai cấp và lợi ích của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Mặc dù vậỵ,
quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng không phải do Đảng tự phong cho mình, mà
phải được nhân dân thừa nhận.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi chưa giành được chính quyền. "Đảng không thể đòi hỏi
Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung


thành nhất hoạt động nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và trong công
tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng
lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được vị trí lãnh đạo"
Đề lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với
từng giai đoạn. từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguvện vọng
của đại đa số nhân dân. Người viết: "Chính sách Mặt trận là một chính sách rất
quan trọng. Công tác mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công
tác cách mạng"2. Trong quá trình lãnh đạo mặt trận, Đảng phải đi đúng đường lối
quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép các thành viên trong mặt
trận, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy
lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt
đối không được lấy quyên uy của mình để buộc các thành viên khác trong mặt
trận phải tuân theo. Nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận, Hồ
Chí Minh căn dặn: "Phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán
bộ và đảng viên không được tự cạo, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người:
trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi người...phải tích cực và phải chủ
động...làm việc phải kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác Mặt trận.
Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ
tiến bộ nhiều”[1]
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao
của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song

khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất
cao độ về mục tiêu và lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn
kết, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một


mục đích, một số phận. Nếu không suy nghĩ như nhau, nếu không có chung một
mục đích, chung một số phận thì cộ kêu gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn kết vần
không thể nào có được.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ
thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực
lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di
bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp,
đảng phái, dân tộc. tôn giáo vào trong Mặt trận, vấn đề còn lại là ở chỗ phải làm
thế nào để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt
trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết, trước hết. Bởi lẽ lợi ích tối cao
của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người mới thực
hiện.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc những quyền lợi cơ bản của các
tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là độc lập tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội... phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kỳ lịch sử.
-

Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương

dân chủ bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc,
bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc. tôn giáo khác nhau với nhiều
lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất phải theo

nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải
được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất


trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo mặt
trận, nhưng cũng là một thành viên của mặt trận. Do vậy, tất cả mọi chủ trương,
chính sách của mình. Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước Mặt trận, cùng với
các thành viên khác của Mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các
giải pháp tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực
hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và ích lợi giai
cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt.. Phải làm
cho tất cả các thành viên trong mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao
của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết trước hết. Những lợi ích riêng
chính đảng phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn
trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận không phù hợp sẽ dần dần được giải
quyết cùng với tiến trình chung của cách mạng, thông qua lại ích chung, với sự
nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ
giữa lại ích chung và lợi ích riêng. Trong quá trình hoạt động, mặt trận cần quan
tâm, xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích giữa các
thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp
phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được mục
tiêu: "Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh". Đồng thời, đó cũng là cơ sở
để mở rộng khối đại đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào mặt trận dân
tộc thống nhất.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ lâu dài, đoàn kết thật
sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ



Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh những điểm
tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có những điểm khác nhau cần
phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ,
nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết. Để
giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm: "cầu
đồng tồn dị" - lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người
nêu rõ: "Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết"
Người thường xuyên căn dặn mọi người cần phải khắc phục tình trạng đoàn kết
xuôi chiều, đồng thời phải có tấm lòng nhân ái, khoan dung, độ lượng, khắc phục
thiên kiến, hẹp hòi, thiển cận, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để
biêu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, nhằm củng cố và mở rộng khối đoàn
kết trong mặt trận dân tộc thống nhất. Người viết: "Đoàn kết thực sự nghĩa là mục
đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa
đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của
nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau
tiến bộ"
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển
mặt trận dân tộc thống nhất, một mặt Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng
cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng có thể tranh thủ được
vào mặt trận; mặt khác, luôn đề phòng và đấu tranh chống mọi biểu hiện của
khuynh hướng đoàn kết một chiều, về nguyên tắc, đoàn kết mà không có đấu
tranh đúng mức trong nội bộ mặt trận.
10.Giải thích quan niệm của Hồ Chí Minh về phương châm để tăng
cường đoàn kết trong Mặt trận


10.1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối

cao củadân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con
người:
Bởi vì trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp,
giai cấpkhác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng
tất cả các lợi ích khácnhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc.
Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp cóthực hiện được hay không còn phụ
thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kếthay không và việc
nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào. Nguyên
tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy
nhữngyếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt,
mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc
thay cho sự đào sâu tách biệt, thựchiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ
những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn
vẹnlãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ
đoàn kết, là sức mạnhdân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng
Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
Người tìm ra những phương pháp để thực hiệnnguyên tắc đó trong chiến
lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được
Ngườikế thừa và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bãn của chủ nghĩa
duy vật lịch sử: cáchmạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử.Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là


phải tin tưởng vững chắcvào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân
dân, phải đánh giá đúng vai trò của lựclượng nhân dân. Người viết: “Có lực
lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có
thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấnđề một

cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể
to lớnnghĩ mãi không ra”.
10.2.Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết
rộng rãi, laudài, bền vững:
Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng.
Muốn đoànkết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động,
tổ chức dân chúng, ngoàithì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kếtvà lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên
quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cáchlà Bộ tham mưu, là hạt
nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệvới bè
bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư
tưởng, đảm bảo được vai trò đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công
nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin:
Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào
giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để
đoàn kết các tầng lớp kháctrong nhân dân. Có như thế mới phát triển và
củng cố được lực lượng cách mạng và đưacách mạng đến thắng lợi cuối
cùng
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã
hội cóđịnh hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính


nguyên tắc của tư tưởngHồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với
tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượngcủa các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối
và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực vàtrên thế giới. Đi vào quần
chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấutranh tự giải
phóng mình theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin là mục tiêu nhất
quáncủa Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc lập trường vô sản, mà sức
mạnh chủ yếu của nó làliên minh công nông.

10.3.Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê
bình, phê bìnhvì sự thống nhất bền vững:
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồngcòn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con
đường đối thoại, bàn bạc để điđến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích
cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục.Để giải quyết vấn đề này, một
mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồndị”; mặt khác,
Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cườngđoàn
kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết xuôi chiều, nêu
cao tinhthần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục
những mặt chưa tốt, củngcố đoàn kết: “Đoàn kết that sự nghĩa là mục đích
phải nhất trí và lập trường cũng phảinhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa
đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt củanhau, phê bình những cái
sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vìdân”. Trong quá
trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thốngnhất
luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc
tranh thủtất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống
khuynh huớng đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong khối đại
đoàn kết dân tộc.


“Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội.
Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thìtrước hết phải tự cải tạo bản thân
chúng ta”.
10.4.Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu
nước chânchính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân:
Ngay từ khi con đường cứu nước vừa sáng tỏ, Hồ Chí Minh đã xác định con
đườngcách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có
thể giành đượcthắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong

trào cách mạng thế giới. Về sau,trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả
Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giớicàng được làm sáng tỏ hơn
và đầy đủ hơn: Đó là vấn đề cách mạng trong nước phải gắnvới phong trào
và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụ thể hơn là với nhân
dânPháp, Mỹ, nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
khác, với phongtrào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội
của nhân dân thế giới. Tưtưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình
thành 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoànkết dân tộc; Mặt trận đoàn kết ViệtMiên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết vớiViệt Nam trong cuộc
đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát
triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí minh về đại đoàn kết.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến việc thực hiện
đoàn kếtquốc tế, nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố quyết
định thắng lợi của cáchmạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là yếu tố
hết sức quan trọng giúp cho cách mạngdân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến
thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã
hội chủ nghĩa


11.Vì sao Hồ Chí Minh quan tâm đến vấn đề đoàn kết quốc tế?
Vì đoàn kết quốc tế mang lại tầm ảnh hưởng rất lớn đến sự đoàn kết
của các nước thuộc địa. tạo tiền đề cho việc giải phóng dân tộc :
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung rộng
lớn, sâu sắc, cao đẹp, trong đó trước hết là đoàn kết trong phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế và đoàn kết trong đại gia đình các nước xã hội chủ
nghĩa anh em.
Hồ Chí Minh luôn xác định, đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, đoàn kết gắn bó trong các nước xã hội chủ nghĩa anh
em là cơ sở nền tảng, là nhân tố quan trọng bậc nhất, nhân tố có ý nghĩa
quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Người đã
từng nhấn mạnh: “Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta, sẽ

thuộc về chủ nghĩa xã hội... Nếu như tất cả các nước anh em và các đảng anh
em đoàn kết chặt chẽ với nhau”1. Với tinh thần ấy, Người tiếp tục khẳng
định: ''Cuộc đấu tranh kiên quyết của các dân tộc bị áp bức nhất định sẽ đánh
bại bọn đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội cuối cùng sẽ toàn thắng trên
khắp thế giới. Trong sự nghiệp đấu tranh vĩ đại ấy, sự đoàn kết giữa lực
lượng các nước xã hội chủ nghĩa và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng
sản và công nhân tất cả các nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất”2.
Theo Hồ Chí Minh, yêu cầu cách mạng vô sản thế giới đòi hỏi giai cấp vô
sản, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải đoàn kết thống nhất, phải
gắn bó thân thiết như anh em một nhà. Sự đoàn kết ấy, chính là sức mạnh, là
chiến thắng. Để xây dựng, củng cố sự nghiệp đoàn kết cao cả ấy, Hồ Chí
Minh cho rằng, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải tăng cường
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên quyết đấu tranh chống những khuynh


hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa
sôvanh, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại hiện đại...
12.Giải thích quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của ĐKQT
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
+ Tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ
của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu
cách mạng thế giới tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ
thù.
+ Sức mạnh dân tộc là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước
hết là chủ nghĩa yêu nước truyền thống, ý thức tự lực, tự cường của dân tộc.
+ Sức mạnh quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng: Phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc; Phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân
lao động các nước chính quốc và TBCN nói chung; Phong trào XHCN;
Phong trào vì Hòa bình, ĐLDT, Dân chủ và tiến bộ xã hội; Phong trào cách

mạng của nhân dân Đông Dương...
Sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhận thức còn là sức mạnh của tiến bộ
khoa học công nghệ, làm thay đổi có tính cách mạng về các lĩnh vực như:
năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh học, giao thông vận tải…, loài người đã
tiến một bước dài trong việc chinh phục thiên nhiên. “50 năm qua thế giới đã
có những chuyển biến lớn... đặc biệt là sức mạnh nguyên tử, nhiều hơn thế
kỷ trước cộng lại”.
+ Theo Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế. Đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn


×