Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận tuyên ngôn của Đảng Cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.14 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN

MÔN: TÁC PHẨM KINH ĐIỂM CỦA C.MÁC VÀ
PH.ĂNGGHEN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”. LIÊN HỆ VỚI CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

Người thực hiện: Mỵ Duy Quang. Tổ 1.
Lớp: Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước K37b.

 Đồng Nai, tháng 01/2019 
0


LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................


.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
1


MỤC LỤC
LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ............................................................... 1
MỤC LỤC .......................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 3
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ....................................................... 5
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu của đề tài .................................... 6
5.1 Cơ sở lý luận của đề tài ................................................................................ 6
5.2 Phương pháp nghiên cứu của đề tài .............................................................. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ........................................................... 6

7. Kết cấu nội dung của đề tài ............................................................................ 6
NỘI DUNG ........................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM ............. 7
1.1 Vài nét về tác giả .......................................................................................... 7
1.2 Khái quát về tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ...........................10
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” ...16
2.1 Tính tất yếu về sự ra đời và quá trình hình thành Đảng Cộng sản ...............16
2.2 Tính tiên phong của Đảng cộng sản và mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản với
giai cấp công nhân ..............................................................................................16
2.3 Mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản ......................................................19
CHƯƠNG 3. LIÊN HỆ VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM HIỆN NAY .....................................................................................21
3.1 Sở lược về sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam ......................................21
3.2 Vai trò, vị trí, mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam ...............23
3.3 Sự vận dụng của Đảng trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
hiện nay ..............................................................................................................24
KẾT LUẬN ........................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................30
2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Được viết vào cuối năm 1847 đầu 1848, trải qua hơn 170 năm, “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (gọi tắt là Tuyên ngôn) do C.Mác và Ph.Ăng-ghen
khởi thảo vẫn luôn là cơ sở lý luận khoa học, ngọn cờ tư tưởng, ngôi sao dẫn
đường và kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, vẫn rực sáng với tư tưởng vĩ đại của nó - tư tưởng giải phóng các giai
cấp và tầng lớp cần lao, và nói rộng ra là giải phóng toàn bộ xã hội, giải phóng

loài người khỏi mọi sự áp bức, bất công. Tuyên ngôn, ngay từ lúc ra đời và kể từ
đó trở đi, luôn luôn là bản hiệu triệu hào hùng và ngọn cờ chiến đấu đầy khí
phách cho tư tưởng vĩ đại ấy. Ngoài những vấn đề có tính nguyên lý đã được thể
hiện rõ nét trong Tuyên ngôn, ở đây chúng ta còn thấy rõ những quan niệm của
các ông về khả năng áp dụng của nó đối với sự phát triển của xã hội nói chung
và sự vận dụng vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Tuyên ngôn là tác phẩm kinh điển cô đọng của chủ nghĩa xã hội khoa học,
giữ địa vị đặc biệt quan trọng trong kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin.
Sự ra đời của Tuyên ngôn đánh dấu bước ngoặt căn bản thời kỳ lịch sử phát sinh
và phát triển của Chủ nghĩa Mác; đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về
Đảng và xây dựng Đảng cộng sản, có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng
Đảng của Đảng ta.
Tuyên ngôn là thế giới quan khoa học dựa trên sự kế thừa và phát triển
những tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại. Tác phẩm ra đời, đánh dấu sự hình
thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác, bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết
học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Vì vậy, ngay từ lúc ra
đời, Tuyên ngôn đã là Cương lĩnh trực tiếp chỉ đạo các Đảng Cộng sản và phong
trào công nhân thế giới trong cuộc đấu tranh thoát khỏi ách nô lệ tư bản chủ
nghĩa, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh và tốt đẹp. Tuyên ngôn đã
thức tỉnh, tập hợp giai cấp công nhân và những người lao động làm thuê khác
thành một lực lượng to lớn chống sự áp bức, bóc lột, giành được những quyền
lợi và quyền lực ngày càng quan trọng. Nếu như giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa
cộng sản còn là một “bóng ma” ám ảnh châu Âu, như các thế lực của châu Âu
cũ từng rêu rao, thì với sự ra đời của Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ rằng, cái “bóng ma” ấy đã thực sự trở thành một thế lực cụ thể, và cái thế lực
ấy cứ ngày một lớn dần lên, trở thành những phong trào cách mạng hừng hực
khí thế, những cuộc cách mạng bùng nổ dữ dội và cả những quyền lực nhà nước
được thiết lập trên hành tinh chúng ta. Từ đứa con đầu lòng là Công xã Pa-ri
năm 1871, đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất, là sự ra đời của Liên Xô nhà
3



nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, rồi đến sau chiến tranh thế giới thứ hai, với
thắng lợi của hàng loạt cuộc cách mạng kiểu mới ở cả châu Âu, châu Á và Mỹ
La tinh, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới.
Cần phải khẳng định rằng, những tư tưởng của Tuyên ngôn về Đảng cộng
sản vẫn đang sống và ngày càng sống động hơn theo nhịp tiến lên của nhân loại
tiến bộ, của cả xã hội loài người đang vững bước đi vào thế kỷ XXI. Sức mạnh
tư duy vạch thời đại của Mác - Ăngghen trong tác phẩm này vẫn được thực tiễn
lịch sử toàn thế giới khảo nghiệm và minh chứng rực rỡ trong thời đại ngày nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động Việt Nam, Đảng đại biều trung thành cho lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự ra đời của Đảng ta, mặc dù
có những yếu tố đặc thù riêng nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố cho sự ra đời của
một chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân đó là sự kết hợp giữa chủ
nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa C.Mác-Lênin luôn giữ vị trí nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa C.Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.”
Đối với Việt Nam chúng ta hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa diễn
ra mạnh mẽ, công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm hàng đầu nhưng nó đòi hỏi chúng ta phải có lý luận cách mạng dẫn
đường nhằm đảm bảo cho sự phát triển ấy không đi chệch hướng con đường tiến
lên Chủ nghĩa xã hội; đồng thời để đấu tranh với những tư tưởng sai lệch về giá
trị quan trọng của lý luận về Đảng cộng sản của Tuyên ngôn, giúp Đảng ta vững
vàng lập trường tư tưởng của chính Đảng lãnh đạo thì việc tìm hiểu, nghiên cứu
quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của đảng cộng sản” và liên hệ với công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt
Nam hiện nay là rất cấp thiết.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian gân đây đã có rất nhiều các tác giả nghiên cứu quan điểm
của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của
đảng cộng sản” và ý nghĩa của tuyên ngôn đối với công tác xây dựng Đảng cộng
sản Việt Nam hiện nay, sau đây tôi xin kể tới một số tác giả như sau:
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - giá trị và sức sống trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam” là chủ đề tại Hội thảo khoa học do Học viện Chính trị tổ
chức ngày 31/01/2018 (được đăng trên báo mới ngày 30/01/2018).

4


- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản qua sự kế thừa và phát triển của Hồ
Chí Minh” là bài viết của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Tuyết - Học
viện Báo chí và Tuyên truyền (được đăng tải Tạp chí lý luận chính trị số 1 năm
2018 và tạp chí Tài chính ngày 03/02/2018).
- “Sức sống bền vững của Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản” trong bài phát
biểu khai mạc Hội thảo khoa học quốc tế về Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của
đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Trưởng Ban
Tuyên giáo T.Ư (được đăng trên báo nhân dân ngày 26/02/2018).
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Giá trị lý luận và thực tiễn trong thời
đại ngày nay” do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp Ban
Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương; Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế (được đăng trên báo sài gòn
giải phóng và tạp chí của Ban tuyên giáo trung ương ngày 27/02/2018).
- “Giá trị lớn lao và sức sống của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” của Phó Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trần Nguyễn Tuyên - Hội đồng Lý luận
Trung ương, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh điển Mác - Lê-nin nghiên cứu
(được đăng trên tờ tạp chí Mặt trận ngày 29/3/2018).
- Giới thiệu tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và “Đọc Tuyên

ngôn Đảng Cộng sản” dưới dạng sách bỏ túi của PGS, TS Vũ Tình, Giảng viên
cao cấp, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(được đăng trên báo mới và báo điện tử của Chính phủ ngày 03/5/2018).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây
dựng Đảng.
- Phạm vi nghiên cứu: tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của
C.Mác, Ph.Ăngghen: toàn tập, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
t4, tr.591-646.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích: đề tài nhằm mục đích đi sâu vào nghiên cứu để làm rõ các
quan điển, tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng trong tác phẩm
“Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, từ đó liên hệ với sự vận dụng sáng tạo những
tư tưởng đó vào công tác xây dựng Đảng của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ: để đạt được mục tiêu nêu trên, thì nhiệm vụ đặt ra là:
 Làm rõ hoàn cảnh ra đời, tác giả, tác phẩm
 Tập trung phân tích, làm rõ các quan điểm, tư tưởng của C.Mác và
Ăngghen về Đảng cộng sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”.
5


 Vận dụng những tư tưởng, quan điểm đó vào việc xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1 Cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của C.Mác,
Ph.Ăngghen: toàn tập, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t4, tr.591646 để tìm ra những tư tưởng về Đảng và xây dựng Đảng trong tác phẩm.
- Nghiên cứu các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và một số
tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng để tìm ra sự vận dụng
của Đảng từ tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.

- Tìm hiểu qua các sách báo và các bài viết của các nhà nghiên cứu liên
quan đến tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” để tham khảo, hoàn thiện
tiểu luận.
5.2 Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Một số phương pháp chủ đạo được sử dụng trong tiểu luận:
 Phương pháp luận: dựa vào những nguyên tắc phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
 Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích và tổng hợp; logic
và lịch sử; nghiên cứu, chọn lọc tổng hợp các tư liệu, hệ thống hóa các tri thức.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng quan điểm, tư tưởng, từ đó
hệ thống hóa lại các quan điểm, tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây
dựng Đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”.
- Tổng kết các giá trị tư tưởng đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo, linh
hoạt và phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
- Đề tài có thể sử dụng cho các học viên chuyên ngành xây dựng Đảng và
Chính quyền nhà nước tham khảo trong quá trình nghiên cứu và học tập.
7. Kết cấu nội dung của đề tài
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận gồm 3 chương và 8 tiết:
Chương 1: Khái quát chung về tác giả và tác phẩm
Chương 2: Quan điểm của C.Mác, Ăngghen về xây dựng Đảng trong tác
phẩm “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”.
Chương 3: Liên hệ với công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện
nay.
6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1 Vài nét về tác giả
1.1.1 C. Mác (1818 - 1883)
C. Mác (Karl Marx) sinh ngày 5
tháng 5 năm 1818 trong gia đình luật sư
Heinrich Marx ở thành phố Trier trên bờ
sông Mozel, một nhánh của sông
Rheinsinh.
Năm mười hai tuổi (1830), C. Mác
vào học trường trung học ở Trier, học
giỏi, đặc biệt nổi bật ở những lĩnh vực
đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác
cũng tỏ ra có năng lực về toán học. Mùa
thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trung học,
sau đó, tháng Mười năm 1835, Mác vào
trường Đại học Tổng hợp Bonn để học
luật. Hai tháng sau, theo lời khuyên của
bố, Mác theo học ở trường Đại học Tổng
hợp Berlin. Năm 1836, trong dịp nghỉ hè,
chàng thanh niên Mác đính hôn với người bạn gái từ thuở ấu thơ hơn Mác bốn
tuổi, Gianny Vôn Vecphalen (Janny vôn Vestphalen), con gái viên Tam đẳng đại
thần Luguy Vôn Vecphalen (Ludwig vôn Vestphalen) thuộc dòng dõi quý tộc. Ở
trường Đại học Tổng hợp Berlin, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ
Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, Mác bắt đầu nghiên
cứu kỹ tác phẩm của Hêgen (Hégel), sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu
triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 Mác tập trung nghiên
cứu những vấn đề của lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 tháng Tư năm 1841, khi
mới 23 tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác
nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit (Démocrite) và triết học tự nhiên của
Êpiquơ (Épicure) tại trường Đại học Tổng hợp Jena. Tháng Năm năm 1843, Mác

đến Kroinak, một thành phố nhỏ vùng Rhein, nơi Gianny Vôn Vecphalen, vị hôn
thê của Mác đang sống cùng với mẹ. Ngày 19 Tháng Sáu năm 1843, Mác chính
thức làm lễ thành hôn với Gianny bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình
Gianny.
7


Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph. Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một 1842,
khi Ph. Ăng-ghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische
Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. ăng-ghen đến thăm C.
Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và
quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính
phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất C. Mác. Ngày 3 tháng Hai
1845, C. Mác rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph. Ăng-ghen cũng đến đây và hai
ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1848 ở Pháp
nổ ra, Chính phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, Tháng tư 1848, C. Mác
cùng với Ph. Ăng-ghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng biên tập tờ Nhật
báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ
báo và trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ lưu lại ba
tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi Luân Đôn và sống đến cuối đời
(1883). C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba 1883 ở Luân Đôn.
1.1.2 Ph. Ăngghen (Friedrich Engels, 1820 – 1895)
Phriđơrich Ăngghen (Friedrich
Engels) sinh ngày 28 tháng 11 năm
1820, ở thành phố Barmen, tỉnh Rhein,
Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ
xưởng dệt. Từ nhỏ Ph. Ăng- ghen đã
bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy
bảo nghiêm khắc của cha và những sự
đe doạ trừng phạt không thể làm cho

ông đi đến chỗ phải phục tùng mù
quáng. Cho đến năm 14 tuổi, Ph. Ăngghen học ở trường tại thành phố
Barmen. Ph. Ăng- ghen sớm bộc lộ
năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng Mười
1834, Ph. Ăng- ghen chuyển sang học ở
trường trung học Elberfelder, một
trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Năm
1837, theo yêu cầu của bố, Ph. Ăng- ghen buộc phải rời bỏ trường trung học khi
chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phòng của bố ông. Trong
thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ
ca. Tháng 6 năm 1838, Ph. Ăng- ghen đến làm việc tại văn phòng thương mại ở
thành phố cảng Barmen. Cuối năm 1839 Ph. Ăng- ghen bắt tay vào nghiên cứu
các tác phẩm của Hê- ghen. Tháng 9 năm 1841, Ph. Ăng- ghen đến Berlin và gia
nhập binh đoàn pháo binh ở đây ông được huấn luyện quân sự mà trong những
8


năm sau, ông rất cần đến nó, nhưng ông vẫn lui tới trường Đại học tổng hợp
Berlin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Mùa
xuân 1842, Ph. Ăng- ghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo
tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Ph. Ăng- ghen đã lên
tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự
phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Ph. Ăng- ghen mãn hạn phục vụ
trong quân đội. Từ Berlin ông trở về Barmen, một tháng sau, Ph. Ăng- ghen
sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Ph. Ăng- ghen đã thăm trụ
sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và ông đã gặp C. Mác, Tổng biên tập tờ
báo. Ông đã ở lại Anh hai năm. Bài báo Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh
(1842) cùng với những bài báo khác của Ph. Ăng- ghen viết ra năm đó đã phân
tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu
ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ph. Ăng- ghen tham

gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 2 năm 1844). Các bài
báo này đề cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các
quan hệ kinh tế của xã hội tư sản.
Tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học của Ph.
Ăng-ghen đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh
hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Tháng 2 năm 1845, cuốn sách Gia
đình và Thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng-ghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ
chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định
của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi
tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845-1846), phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của
Hê- ghen và phái Hê- ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất
quán của Ludvich Phoiơbach nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp đó năm 1848, Đại hội II Liên
đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác và Ph. Ăng- ghen cùng viết
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Trong thời gian sống ở Pa-ri, Ph. Ăng-ghen quan tâm nhiều đến hoạt động
của Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành
Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân
Đức (Tháng 3 năm 1848) do Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn lập ra.
Tháng 3 năm 1848, cùng với C. Mác , Ph. Ăng-ghen thảo ra Những yêu
sách của Đảng cộng sản Đức được Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn thông
qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản
Đức. Tháng 4 năm 1848 ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách
mạng Đức. Ngày 20 tháng 5 năm 1848 Ph. Ăng-ghen đến cùng với C. Mác
chuẩn bị xuất bản tờ Neue Rheinische Zeitung. Ph. Ăng-ghen tham gia viết các
9


bài xã luận, bài điểm tình hình chính trị. Tháng 10 năm 1848 ông đi Bỉ để tránh
lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng ông không được phép cư trú chính trị.

Ph. Ăng- ghen lại đến Paris sau đó sang Thụy Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn
công nhân Đức, ông được bầu vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này.
Tháng giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi
cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5 năm 1849) Ph. Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng
tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10 tháng 5 năm 1849, Ph. Ăng- ghen đến
Elberfeld và được sung vào Ban quân sự. Ăng-ghen đưa ra một kế hoạch để
triển khai cuộc đấu tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức.
Trong thời kỳ này, ông tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có trận
Rastatt. Sau này Ph. Ăng- ghen đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng.
Tháng 11 năm 1849, Ph. Ăng- ghen đến Luân Đôn và được bổ sung vào
Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản mà C. Mác đã cải
tổ sau khi đến đây. Ph. Ăng-ghen sống ở Luân Đôn một năm, trong thời gian đó
ông đã viết các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến
tranh nông dân ở Đức. Tháng 11 năm 1850, Ph. Ăng-ghen buộc phải chuyển đến
Manchester và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này tạo điều
kiện cho Ăng-ghen có thể giúp đỡ về vật chất cho C. Mác hoạt động cách mạng.
Ph. Ăng-ghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, môn quân
sự, chính sách quốc tế. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen tham gia lãnh đạo Quốc
tế cộng sản I. Tháng 9 năm 1870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa vào
Tổng hội đồng của Quốc tế cộng sản I. Ph. Ăng- ghen kiên trì đấu tranh chống
lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1871, Ph.
Ăng- ghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ công xã Pari. Trong thời
gian này, Ph. Ăng-ghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là
cuốn Chống Đuy-rinh (1818) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho
chủ nghĩa C. Mác. Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăng-ghen là người lãnh
đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2
và 3 của bộ Tư bản mà C. Mác chưa kịp hoàn thành. Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác
phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời như: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư
hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức (1866), Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).

1.2 Khái quát về tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời
Giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt tới
trình độ phát triển: đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước
10


châu Âu. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản hiện
đại ra đời và sớm bước lên vũ đài đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Trong
những năm 30 và 40 của thế kỷ XIX, ở một số nước tư bản phát triển, giai cấp
vô sản đã vùng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đòi thực hiện những yêu
sách của mình cả về kinh tế lẫn chính trị. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong
trào vô sản là những cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyông
(Pháp) năm 1837; cuộc nổi dậy của công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844;
phong trào hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm (1838 - 1848).
Các tư tưởng chủ nghĩa xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ không
tưởng trở thành khoa học; đồng thời bắt đầu thời kỳ chủ nghĩa xã hội khoa học
đấu tranh với các trào lưu tư tưởng lỗi thời, phản động đang thâm nhập và cản
trở phong trào công nhân.
Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi một
cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh chính
trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm
1847, Đại hội lần thứ hai Liên đoàn những người cộng sản đã thảo luận và thông
qua những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do Mác và Ăng ghen trình bày.
Trên cơ sở sự nhất trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được Đại hội ủy nhiệm thảo ra
bản tuyên ngôn chính thức.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được hoàn thành trong thời gian rất ngắn
và công bố vào ngày 24 tháng 02 năm 1848. Tuyên ngôn lần đầu tiên được xuất
bản tại Luân Đôn, ít lâu sau, được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng khác nhau ở
nhiều nước trên thế giới. Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng là

thông báo về sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa
học của chủ nghĩa Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người thực hiện được
cuộc cách mạng tư tưởng với đỉnh cao của trí tuệ khám phá và hệ thống hóa
những quy luật vận động của giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Toàn
bộ thành tựu trí tuệ của loài người đã được tổng kết, khái quát.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản được C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công
khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và
phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường
về bóng ma cộng sản.”1
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của một học thuyết
cách mạng, một thế giới quan khoa học, giữ địa vị đặc biệt quan trọng trong kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người
1

C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội , 1995, t4, tr.595

11


thực hiện được cuộc cách mạng tư tưởng với đỉnh cao của trí tuệ khám phá và hệ
thống hóa những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Toàn bộ thành tựu trí tuệ của loài người được tổng kết, khái quát trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản.
1.2.2 Kết cấu nội dung cơ bản của tác phẩm
Ngoài 7 lời tựa được viết bằng nhiều thứ tiếng khác nhau như: tiếng Nga,
Ba Lan, Đức, Anh, Ý, nội dung Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và
Ph. Ănghen trình bày thành 4 chương:
- Chương I. Tư sản và vô sản
 Trong chương này C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải, làm rõ được sứ

mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản.
- Chương II. Những người vô sản và những người Cộng sản
 Trong chương này C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày rõ tính tiên phong
của Đảng Cộng sản, thể hiện được mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với giai cấp
công nhân, qua đó xác định nhiệm vụ của Đảng cộng sản và những biện pháp để
thực hiện nhiệm vụ ấy, đồng thời chống lại sự vu khống của giai cấp tư sản đối
với Đảng cộng sản.
- Chương III.Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
 Trong chương này C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân biệt rõ chủ nghĩa xã
hội khoa học với các trào lưu chủ nghĩa xã hội khác.
- Chương IV. Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập
 Chương này khẳng định lập trường kiên định của Đảng Cộng sản về
những vấn đề chiến lược và sách lược mềm dẻo của Đảng.
 C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày, làm rõ những tư tưởng cách mạng
không ngừng; tinh thần cách mạng triệt để, liên minh giai cấp, sự đoàn kết, đấu
tranh của những người cộng sản đối với các đảng phái dân chủ trong cuộc đấu
tranh chống các thế lực phản động đương thời.
1.2.3 Ý nghĩa của tác phẩm
Sự ra đời Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản là bước ngoặt quyết định đối
với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; đánh dấu sự
hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác. Ðó là kết quả của sự kết hợp
giữa thành quả nghiên cứu khoa học với việc tổng kết thực tiễn phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX của hai nhà tư tưởng vĩ
đại C.Mác và Ph.Ăngghen.
12


Sau khi được công bố, Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản với tư cách là
Cương lĩnh của Liên đoàn những người cộng sản quốc tế, đã nhanh chóng đi vào
quần chúng và trở thành một văn kiện mang tính lý luận, định hướng cho phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế, một trong những tác phẩm kinh điển quan
trọng nhất của chủ nghĩa Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung.
Trong Tuyên ngôn, với thế giới quan duy vật và sử dụng phương pháp
biện chứng để nghiên cứu lịch sử nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải
hết sức cô đọng, khoa học và thuyết phục về quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội loài người; về quá trình phát sinh, phát triển và sự tất yếu diệt vong
của chủ nghĩa tư bản; về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản; về mục
đích của Ðảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Ðảng Cộng sản với giai cấp vô sản
cũng như chiến lược, sách lược của Ðảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo
cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới một xã hội không còn giai cấp, không
còn nhà nước - một liên hiệp của người lao động mà ở đó “sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”2.
Khi đọc Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản chúng ta tìm thấy ở đó những
nguyên lý cơ bản nhất của cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học,
kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Ðiều đặc biệt là, những
nguyên lý ấy, như V.I.Lê-nin đã đánh giá “Những quan điểm lý luận của những
người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do
một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Những nguyên lý ấy
chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh
giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt chúng ta”2.
Phản ánh đúng quy luật phát triển của hiện thực, định hướng cho Ðảng
của giai cấp vô sản lãnh đạo đấu tranh theo quy luật đó để giải phóng con người,
Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, lý luận, soi
đường, dẫn lối cho phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên phạm vi toàn thế giới đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Dưới ánh sáng của Tuyên ngôn, từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 80 của
thế kỷ XX, các cuộc cách mạng vô sản dù phải trải qua nhiều cam go, nhưng đã
giành được nhiều thắng lợi to lớn. Ðó là Công xã Pa-ri năm 1871 - cuộc cách
mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, đã dẫn tới sự ra đời chính quyền của giai cấp

công nhân và đã để lại những bài học kinh nghiệm vô giá cho phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Ðó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ
đại năm 1917 - cuộc cách mạng đã mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại 2
2

C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.628
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.615

13


thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ðó là thành tựu xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô; là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc
ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ-la-tinh và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra
đời; là sự phát triển không ngừng của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hòa bình trên thế giới.
Những thắng lợi to lớn của các cuộc cách mạng vô sản, của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng tỏ rằng, thế giới đã có những biến
chuyển hết sức to lớn theo hướng mà Tuyên ngôn đã dự báo. Tư tưởng Tuyên
ngôn của Ðảng Cộng sản đã trở thành hiện thực sinh động trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng loài người. Tư tưởng của
Tuyên ngôn, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã vạch ra con đường cách
mạng vô sản, đưa hàng tỷ quần chúng lao động, hàng trăm quốc gia, dân tộc
thoát khỏi thân phận bị áp bức, bóc lột, nô dịch vươn tới địa vị làm chủ, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản đã khẳng định
được giá trị to lớn đối với sự phát triển của thế giới, sự tiến bộ của nhân loại.
Những thành tựu to lớn trong công cuộc cải cách, đổi mới ở Trung Quốc,
Việt Nam trong vài thập kỷ gần đây và sự vững vàng của Cu-ba trước sự bao
vây cấm vận của Mỹ cùng với sự xuất hiện các trào lưu xã hội chủ nghĩa mới ở
các châu lục và ở ngay trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa đã minh chứng giá

trị lý luận, thực tiễn và sức sống bền vững của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, đang đổi thay với nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường.
Trên thế giới, mặc dù chủ nghĩa xã hội vẫn còn trong giai đoạn thoái trào; chủ
nghĩa tư bản còn nhiều tiềm năng, nhưng lý tưởng cao đẹp, xã hội tương lai mà
Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản xác định vẫn luôn là khát vọng của nhân loại;
quy luật phát triển của xã hội mà Tuyên ngôn đã chỉ ra vẫn là hướng đi của lịch
sử, theo đó cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, của công nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên phạm vi toàn thế giới còn nhiều khó
khăn, gian khổ nhưng khi vô sản tất cả các nước đoàn kết lại thì “Sự sụp đổ của
giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”1.
Đối với cách mạng Việt Nam, Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản có ý nghĩa
hết sức đặc biệt. Từ bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa” của Lê-nin năm 1920 - bản Luận cương phát triển sáng tạo tư
tưởng của Tuyên ngôn trong điều kiện lịch sử mới, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam và đã sáng
lập ra Ðảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930.
1

C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.613

14


Trải qua gần 90 năm, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nhiều vấn
đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời, nhiều
nguyên lý của Tuyên ngôn vẫn nguyên gía trị.
Tác phẩm là kim chỉ nam, là nguồn động viên về mặt lý luận cho giai cấp
công nhân và phong trào công nhân quốc tế. Tuyên ngôn đã đặt nền tảng tư
tưởng cho những vẫn đề về Đảng và xây dựng Đảng. Trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hành động của mình. Mục đích cao cả của Ðảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn
phù hợp với tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn: đó là giải phóng toàn
thể xã hội khỏi ách áp bức bóc lột, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Ðảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân.
Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhất là những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hơn 30
năm qua đã khẳng định con đường cách mạng mà Ðảng Cộng sản Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam lựa chọn: độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn; đồng thời cũng khẳng định và thể
hiện Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, trung thành, không ngừng vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước và xu thế thời đại.
Ngày nay, Việt Nam đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với
nhiều thời cơ, thuận lợi và cũng không ít khó khăn, thách thức. Song dưới ánh
sáng của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với
tinh thần kiên định - sáng tạo, với truyền thống, phẩm chất và năng lực của
mình, Ðảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam tin tưởng rằng, cách
mạng Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, giành thắng lợi to lớn hơn; công
cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước Việt Nam nhất định sẽ thắng lợi.
Tuyên ngôn ra đời đánh dấu sự thắng lợi của việc kết hợp chủ nghĩa xã hội
khoa học với phong trào công nhân và phong trào cách mạng của giai cấp vô
sản. Với vị trí quan trọng và nội dung phong phú như vậy, Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản có sức thuyết phục, cổ vũ hàng triệu, triệu người người bị áp bức, bóc
lột trên trái đất này đứng lên tự giải phóng; xứng đáng là áng “thiên cổ hùng
văn” đối với giai cấp vô sản.

15



CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
2.1 Tính tất yếu về sự ra đời và quá trình hình thành Đảng Cộng sản
Giai cấp vô sản là sản phẩm của sản phẩm của nền đại công nghiệp. Cùng
với sự phát triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều dần dần bị phân
hóa , suy tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên cùng với sự phát
triển của công nghiệp. Giai cấp vô sản được tuyển lựa trong tất cả các giai tầng
trong dân cư. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Những nhà công nghiệp, tiểu
thương nghiệp và người thực lợi nhỏ, thợ thủ công và nông dân, thợ thủ công và
nông dân là những tầng lớp dưới của tầng lớp trung đẳng xưa kia, đều rơi xuống
hàng ngũ giai cấp vô sản, một phần vì số vốn ít ỏi của họ không đủ cho phép họ
quản lý những xí nghiệp đại công nghiệp, nên họ bị sự cạnh tranh của bọn tư bản
lớn hơn đánh bại, một phần vì sự khéo léo nhà nghề của họ bị những phương
pháp sản xuất mới làm giảm giá trị đi. Thành thử giai cấp vô sản được tuyển mộ
trong tất cả các giai cấp của dân cư”1.
Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản sẽ tất yếu
ra đời Đảng Cộng sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản sẽ đảm bảo cho giai cấp
vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Những cuộc đấu tranh đã tạo điều
kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết thành tổ chức và hình thành nên chính đảng.
Tuyên ngôn đã chỉ ra rằng: “công nhân bắt đầu từ việc thành lập những liên
minh chống lại bọn tư sản để bảo vệ tiền công của mình. Thậm chí họ đi tới chỗ
lập thành những đoàn thể thường trực để sản sàng đối phó khi những cuộc xung
đột bắt đầu xảy ra. Đây đó, đấu tranh nổ thành bạo động công khai” 2. “Sự tổ
chức như vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng,
luôn luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó luôn luôn
được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, mạnh mẽ hơn”3.
Giai cấp vô sản có sứ mệnh dẫn đầu các giai cấp và tầng lớp lao động bị
áp bức bóc lột, tiến hành công cuộc cải tạo xã hội tư bản và xây dựng xã hội xã

hội chủ nghĩa. Giai cấp vô sản hiện đại có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư
bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Như vậy, sự sụp đổ của Chủ
nghĩa tư bản và thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản là tất yếu.
2.2 Tính tiên phong của Đảng cộng sản và mối liên hệ giữa Đảng
Cộng sản với giai cấp công nhân
1

C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.606-607
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.608
3
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.609
2

16


Tuyên ngôn trình bày mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai câp vô sản,
Đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân. Mác và Ăngghen chỉ ra Đảng
cộng sản là một bộ phận không thể tách rời giai cấp vô sản, vì vậy, mục đích và
lợi ích của Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản là thống nhất cả về mặt lý luận và
thực tiễn: “Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với
các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi
ích của toàn thể giai cấp vô sản”1.
Đảng là đội tiền phong, là bộ phận giác ngộ nhất của giai câp vô sản. Tính
tiên phong của Đảng thể hiện trên hai mặt: Tiên phong về lý luận và tiên phong
trong hoạt động thực tiễn. Mác-Ăngghen nêu rõ: “Về mặt thực tiễn, những
người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả
các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn
bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình
là kết quả chung của phong trão vô sản”2.

Đảng Cộng sản là lực lượng đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản
cũng như của nhân dân lao động, nó cũng đại diện cho lợi ích chung của toàn bộ
phong trào cộng sản, của toàn giai cấp công nhân trên thế giới không phân biệt
ngành nghề, địa phương và dân tộc .Vì thế, Đảng cộng sản không những mang
tính chất của giai cấp vô sản mà còn mang bản chất quốc tế. “Tóm lại, ở tất cả
mọi nơi, những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại
trật tự xã hội và chính trị hiện hành” 3. “Sau hết, những người cộng sản ở mọi nơi
đều phấn đấu cho sự đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các
nước”4.
Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân. Đảng là người đại biểu
trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Đảng luôn công khai mục tiêu đấu tranh của mình là: lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân. Vì vậy, Đảng cộng sản
mang bản chất của giai cấp công nhân.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản khẳng định sự thống nhất về mục đích và
lợi ích của Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân không có nghĩa Đảng cộng sản
và giai cấp công nhân là một. Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, là một bộ phận của giai cấp công nhân. Tính độc lập của Đảng là đặc
trưng, dấu hiệu và là điều kiện cơ bản khẳng định giai cấp công nhân là một lực
lượng chính trị độc lập, tồn tại với tư cách một giai cấp. Tuy nhiên, Đảng Cộng
sản không phải là một tổ chức biệt lập mà là bộ phận tiên phong của giai cấp
1

C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.614
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.614-615
3
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.645-646
4
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, 646
2


17


công nhân, gắn bó mật thiết với giai câp công nhân, mang hệ tư tưởng của giai
cấp vô sản. Đảng Cộng sản là tổ chức có mục đích, nhiệm vụ rõ ràng. Mác và
Ăngghen cho rằng việc tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản và giành lấy chính quyền, đó là mục đích trước mắt
của những người Cộng sản và của tất cả các Đảng với nhau. Mục đích cuối cùng
của họ là xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà trong đó “sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Tuyên ngôn khẳng định Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô
sản, là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp vô sản. Tính tiên
phong, độc lập ấy được thể hiện toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ
chức.
Về mặt chính trị, Đảng phải kiên định với mục tiêu, lý tưởng, đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, xác định đường lối chiến lược, sách lược
đúng đắn, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, trong từng điều kiện
lịch sử cụ thể, để lãnh đạo cách mạng vô sản đi tới thắng lợi.
Về tư tưởng, Đảng được vũ trang bằng hệ tư tưởng Cộng sản chủ nghĩa.
Đảng có lý luận soi đường cho hoạt động của mình. Lý luận đó không phải là
giáo điều mà là những nguyên lý được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn.
Tuyên ngôn nêu rõ: “Những người Cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình
thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu” 1. Trên lĩnh vực tư
tưởng, Đảng có nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học, nâng cao trình
độ giác ngộ của giai cấp công nhân, phấn đấu chống sự ảnh hưởng của các trào
lưu tư tưởng phi vô sản, bảo vệ hệ tư tưởng vô sản về tổ chức, Đảng là một
chính thể có tổ chức, là một khối thống nhất ý chí và hành động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, kỷ luật tự giác nghiêm minh. Tuyên ngôn thể hiện rõ nguyên
tắc tổ chức Đảng là Đảng Cộng sản được xây dựng từ đội ngũ đảng viên, là

những người vô sản cách mạng nhất cả trong hành động và trong nhận thức.
Tuân thủ nguyên tắc này mới đảm bảo cho Đảng trở thành đội tiên phong của
giai cấp công nhân.
Lý luận về tính tiên phong của Đảng Cộng sản là cơ sở khoa học quan
trọng để những người Cộng sản vận dụng vào công tác xây dựng Đảng trên cả
hai phương diện: tiên phong về lý luận và tiên phong về thực tiễn. Về lý luận,
Đảng và các đảng viên của Đảng phải được trang bị lý luận về chủ nghĩa xã hội
khoa học, nắm vững thế giới quan duy vật biện chứng, nhận thức đúng vai trò và
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Về thực tiễn, Đảng phải biết vận dụng
một cách linh hoạt và sáng tạo lý luận khoa học để phân tích, đánh giá đúng tình
hình, đề ra chủ trương, biện pháp phù hợp, lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi.
1

C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.616

18


Đồng thời Đảng phải là người tổ chức, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh
của nhân dân, sức mạnh của dân tộc và thời đại để thực hiện chủ trương đường
lối của Đảng.
2.3 Mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản
Đảng có cương lĩnh chính trị, có chiến lược, sách lược cách mạng. Tuyên
ngôn tuyên bố rằng đã đến lúc những người Cộng sản phải công khai trình bày
trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình và phải có một
Tuyên ngôn của Đảng của mình. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là cương lĩnh
chính trị của Đảng vô sản, trong đó trình bày quan điểm, mục đích, nhiệm vụ,
chiến lược, và sách lược của Đảng.
Tuyên ngôn đã chỉ rõ mục đích của những người Cộng sản bao gồm mục
đích trước mắt và mục đích cuối cùng. “Mục đích trước mắt của những người

cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức
những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai
cấp vô sản giành lấy chính quyền” 1. Mục đích cuối cùng của những người Cộng
sản là “xóa bỏ chế độ tư hữu”2.
Nhưng mục tiêu đấu tranh của Đảng không chỉ là làm thay đổi chế độ tư
hữu, mà mục tiêu cuối cùng của Đảng là thủ tiêu chế độ đó, không phải là xoá
nhòa các mâu thuẫn giai cấp, mà là thủ tiêu các giai cấp, không phải hoàn thiện
xã hội hiện tồn, mà là xây dựng một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa:
“Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phái là xoá bỏ chế độ sở hữu nói
chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản”3.
Tuyên ngôn đã nêu lên những nguyên lý chiến lược và sách lược cách
mạng tùy từng điều kiện lịch sử cụ thể: “Bước thứ nhất trong cuộc cách mạng
công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ” 4.
Bước thứ hai, “giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng
bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả
những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản
đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những
lực lượng sản xuất”5.
Những người cộng sản đặt ra nhiệm vụ cho Đảng Cộng sản là phải dùng
bạo lực cách mạng thì mới thì mới có thể lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành.
Những người vô sản nếu được thì họ được cả thế giới, nếu mất thì họ chỉ mất
xiềng xích trói buộc. Tuyên ngôn đã nêu rõ: “mục đích của họ chỉ có thể đạt
1

C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.615
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.616
3
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.615
4
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.626

5
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.626
2

19


được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho
các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa!
Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những
xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới”1.
Để xây dựng tư tưởng chính trị của Đảng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tổng
kết qua nhiều thời kỳ lịch sử và chỉ ra rằng: “Những tư tưởng thống trị bao giờ
cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”2.
Trong khi hợp tác với các đảng đối lập vì mục tiêu trước mắt, những
người cộng sản không bao giờ được quên mục đích cuối cùng của mình là lật đổ
giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản: “Nhưng không một
phút nào Đảng Cộng sản lại quên giáo dục cho công nhân một ý thức hết sức
sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi
có thời cơ thì công nhân Đức biết sử dụng những điều kiện chính trị và xã hội do
sự thống trị của giai cấp tư sản tạo ra, như là vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để
ngay sau khi đánh đổ xong những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành
đấu tranh chống lại chính ngay giai cấp tư sản”3.
Nhiệm vụ của Đảng là phải đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng phản
động, cơ hội, bảo thủ. Tuyên ngôn đã phê phán, vạch rõ tính chất phản động của
trào lưu xã hội chủ nghĩa phong kiến và chủ nghĩa xã hội tiền tư sản; chủ nghĩa
xã hội Đức; chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản, chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản không tưởng phê phán, đảm bảo thắng lợi cho sự truyền
bá chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân.


1

C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.646
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.625
3
C.Mác, Ph.Ăngghen: sđd, t4, tr.645
2

20


CHƯƠNG 3
LIÊN HỆ VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1 Sở lược về sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam),
đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến,
hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Từ năm 1958 đến trước năm 1930, hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa
oanh liệt chống thực dân Pháp đã nổ ra theo nhiều hướng khác nhau, dưới ngọn
cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời, như khởi nghĩa của Trương
Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa thục, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học…lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong
trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đều thất bại. Nguyên nhân cơ bản
dẫn đến thất bại của các phong trào đấu tranh là do những người đứng đầu các
cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh

đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam.
Trong lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường
lối cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Bước
ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn
văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin vào tháng 7-1920. Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối
giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn
với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản
phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc
từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Từ đây Người dứt khoát đi
theo con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu
tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách
mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.

21


Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo
việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người
yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi
phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được

tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam
Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia
có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một
đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chién sĩ cách mạng lỗi lạc
của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu
đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại
Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử
như là một Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc
của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và
tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
22



Ngày 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự
chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời
của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta, phù hợp với xã thế phát triển
của thời đại.
3.2 Vai trò, vị trí, mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam
Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội:
“Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những
thắng lợi rất vẻ vang , mở ra kỷ nguyên mới trong sự nghiệp phát triển của dân
tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên, song nhân tố chủ yếu nhất là sự lãnh
đạo của Đảng.
Ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập
Đảng Cộng sản Việt Nam - đã thấy phải có đảng cách mạng và đảng có vững thì
cách mạng mới thành công.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (nǎm 1930) ghi rõ: “Điều cốt yếu cho sự
thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối
chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng
trải trong đấu tranh mà trưởng thành”.
Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc
tính đúng đắn của luận điểm nói trên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng của

Đảng, đã nêu lên một bài học cơ bản: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu:
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Gần 90 nǎm qua, lịch sử Việt Nam ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Vai trò đó không ngừng được mở rộng và nâng cao, vượt qua mọi sự chống phá
của kẻ thù và sự tranh chấp của những thế lực đối lập.

23


Đảng ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng là điều tất yếu, khách
quan, phù hợp với quy luật của thời đại và điều kiện hiện thực của Việt Nam. Sự
phù hợp với quy luật của thời đại được chứng minh bởi vai trò và sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Mác- Lênin. Còn
điều kiện hiện thực của Việt Nam được nhận thức qua phân tích tính chất, đặc
điểm xã hội Việt Nam; tình hình và thái độ các giai cấp, tầng lớp xã hội; từ đó
thấy những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội và đòi hỏi khách quan của lịch sử đối
với giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng - đội tiên phong của giai cấp.
Khi Đảng ta ra đời, dân tộc ta vẫn đứng trước một nhiệm vụ lịch sử to lớn:
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập của đất nước.
Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là thành quả đầu tiên của cuộc đấu tranh
đó, đã lật đổ ách thống trị đế quốc, phátxít cấu kết với giai cấp địa chủ phong
kiến, thiết lập chế độ cộng hoà dân chủ. Tiếp đó là thắng lợi của hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Bắc sau
đó giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân tộc và dân
chủ. Công cuộc giải phóng dân tộc được hoàn thành triệt để từ sau thắng lợi mùa
Xuân nǎm 1975 được bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.
Vai trò của Đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa là: lãnh đạo cách mạng ngay khi ra đời, sau khi giành
được chính quyền, từng bước thực hiện chuyển biến giai đoạn cách mạng tiến

lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo tiến
trình cách mạng của dân tộc. Đây là thực tế lịch sử đã diễn ra ở miền Bắc từ
tháng 7 nǎm 1954 và trên cả nước từ sau thắng lợi mùa Xuân nǎm 1975- giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3.3 Sự vận dụng của Đảng trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay
Tư tưởng cách mạng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là ánh sáng
soi đường cho cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp
những nguyên lý nền tảng của Tuyên ngôn, nhất là về mối quan hệ giữa giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về vị trí,
vai trò của Đảng, của giai cấp công nhân,… vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã
lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua rất nhiều kho khăn, thử thách, huy động
được mọi nguồn lực, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, giành
thắng lợi vẻ vang trong cách mạng dân tộc dân chủ và đang từng bước tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa.

24


×