Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH chứng khoán ACB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.38 KB, 96 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi số liệu
và kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực
tế của đơn vị thực tập.
Tác giả luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thanh Thảo

Nguyễn Thanh Thảo

1

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Nguyên văn
Thị trường chứng khoán
Công ty chứng khoán
Công ty TNHH Chứng khoán ACBS
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh


Công ty cổ phần chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh
Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn
Công ty cổ phần chứng khoán Bản Việt

Nguyễn Thanh Thảo

2

Viết tắt
TTCK
CTCK
ACBS
HNX
HOSE
HSC
SSI
VCSC

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

DANH MỤC CÁC BẢNG

Nguyễn Thanh Thảo

3


Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Nguyễn Thanh Thảo

4

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới
nhưng mới chỉ được thành lập tại Việt Nam hơn một thập kỷ. Trước năm 2000,
thuật ngữ TTCK còn khá xa lạ. Từ cuối tháng 7 năm 2000, TTCK Việt Nam đi
vào hoạt động nhưng chưa có dấu hiệu của sự sôi nổi, đối tượng tham gia chủ
yếu là các công ty chứng khoán (CTCK) và một số ít nhà đầu tư cá nhân. Đến
cuối năm 2006, TTCK Việt Nam mới thực sự bùng nổ. Có được kết quả này là
do định hướng phát triển và hội nhật kinh tế đúng đắn của Đảng và Chính phủ,

do môi trường đầu tư tại Việt Nam ngày càng thuận lợi hơn.
Trước cơ hội TTCK Việt Nam phát triển chưa từng thấy, các đối
tượng tham gia thị trường đã tận dụng nhiều nguồn lực để đầu tư kiếm lời.
TTCK Việt Nam đã được ví như “cỗ máy hái ra tiền” hiệu quả thứ hai trên thế
giới, chỉ sau TTCK Zimbabwe, đó là lý do khiến giới đầu tư không thể đứng
ngoài cuộc. Cũng xuất phát từ lợi ích không nhỏ đó, cuộc cạnh tranh giữa các
chủ thể thị trường được đẩy lên cao hơn bao giờ hết. Năm 2007 – 2008 đánh dấu
sự bùng nổ về số lượng các công ty chứng khoán, với con số trên 100 công ty
được cấp giấy phép thành lập cho đến thời điểm này. Trên phương diện nhà đầu
tư, các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài liên tục mở tài khoản giao
dịch tại các CTCK, số lượng tài khoản và lượng tiền đổ vào thị trường tăng vọt
theo từng ngày, các CTCK phục vụ hết công suất nhưng đôi lúc cũng không đáp
ứng được hết nhu cầu của khách hàng. Một số CTCK lớn đã phải hạn chế lượng
khách hàng đến giao dịch. Trên phương diện trung gian thị trường, các CTCK
cũng cạnh tranh nhau gay gắt để giành lấy thị phần. Đổi mới công nghệ, miễn và
giảm phí môi giới, dịch vụ khách hàng tốt, tặng tiền khi khách hàng mở tài
Nguyễn Thanh Thảo

55

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

khoản giao dịch… là những chính sách thu hút khách hàng khá hiệu quả của
một số CTCK mới gia nhập thị trường.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội năm 2011 – 2012 gặp những bất ổn do

ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Thị trường chứng khoán mất
điểm liên tục, nhà đầu tư mất niềm tin, dòng tiền rút khỏi thị trường, các công ty
chứng khoán liên tục làm ăn thua lỗ. Điều này buộc các công ty chứng khoán
phải đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng của công ty về mọi
mặt. Đến đầu năm 2013, thị trường đang dần được phục hồi, việc các công ty
chứng khoán tăng cường để giành lấy thị phần của mình là điều dễ hiểu.
Trong hoàn cảnh đó, cạnh tranh đang dần trở thành một khái niệm không
xa lạ đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung cũng như các công ty
chứng khoán nói riêng. Riêng với các công ty chứng khoán, hoạt động đầu tư
nâng cao năng lực cạnh tranh là điều tất yếu, nó không những giúp nâng cao vị
thế của công ty trên thị trường mà còn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của thị
trường chứng khoán Việt Nam. ACBS cũng vậy, mục tiêu của công ty trong giai
đoạn 2011 -2015 là trở thành một trong 3 ngân hàng đầu tư có quy mô và thi
phần lớn nhất, hoạt động an toàn, ổn định và hiệu quả tại Việt Nam. Công ty
cũng cần thúc đẩy quá trình cạnh tranh ở mọi mặt. Với mong muốn đóng góp
một số ý kiến nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty em đã chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Chứng khoán
ACB”.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào một số vấn đề cơ bản như:
Thứ nhất, hệ thống những vấn đề có tính lý luận về hoạt động của CTCK,
cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
Nguyễn Thanh Thảo

66

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

tranh của CTCK, chiến lược hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh chủ yếu của CTCK.
Thứ hai, khái quá quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH
Chứng khoán ACB. Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của
ACBS.
Thứ ba, khái quái định hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam giai đoạn 2011 – 2020, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của Công ty TNHH Chứng khoán ACB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Công ty TNHH Chứng khoán ACB, thực trạng
năng lực cạnh tranh và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ACBS.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động kinh doanh và kết quả đạt được của Công
ty TNHH Chứng khoán ACB từ năm 2010 – 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ đạo xuyên suốt được sử dụng trong bài luận văn này là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Bên cạnh đó, còn sử dụng một số phương pháp khác để nghiên cứu như: Phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp,…
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục chữ viết tắt, Danh mục bảng
biểu, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Công ty chứng khoán và năng lực canh tranh của công ty chứng
khoán
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Chứng khoán
ACB
Nguyễn Thanh Thảo


77

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Chứng
khoán ACB
Do còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm và thực tế và cách diễn đạt ý, nên
luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo,
góp ý của các thầy cô giáo để luận văn của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh, Ban lãnh đạo công
ty, các anh chị trong phòng Môi giới chứng khoán của Công ty TNHH Chứng
khoán ACB đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này.

Nguyễn Thanh Thảo

88

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

CHƯƠNG 1

CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán
1.1.1 Khái niệm và mô hình tổ chức của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
chứng khoán thông qua việc thực hiện một hoặc vài dịch vụ chứng khoán với
mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Ở Việt Nam, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ
phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn thao quy định của Luật Doanh nghiệp và
được UBCKNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động. Tùy theo vốn điều lệ và
đăng ký kinh doanh mà một công ty có thể thực hiện một, một số hoặc toàn bộ
nghiệp vụ kinh doanh như: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán,…
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng khoán:
Mô hình công ty đa năng: theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt
động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh
tiền tệ. Mô hình này chia thành 2 loại:
- Loại đa năng một phần: các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải lập
công ty độc lập hoạt động tách rời.
- Loại đa năng hoàn toàn: các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán, kinh
doanh bảo hiểm bên cạch kinh doanh tiền tệ.
Ưu điểm của mô hình nay là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh
doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng

Nguyễn Thanh Thảo

99

Lớp:CQ48/17.02



Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Mặt khác, ngân hàng sẽ tận
dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh doanh chứng khoán.
Tuy vậy, mô hình nay cũng bộc lộ một số hạn chế như: không phát triển
được thị trường cổ phiếu vì các ngân hàng có xu hướng bảo thủ và thích hoạt
động cho vay hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Đồng thời, các ngân
hàng cũng dễ gây lũng đoạn thị trường và các biến động trên thị trường chứng
khoán nếu có, sẽ ảnh hưởng mạnh tới hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân
hàng không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh này.
Sơ đồ 1.1: Mô hình CTCK đa năng hoàn toàn
NGÂN HÀNG

TIỀN TỆ

CHỨNG KHOÁN

BẢO HIỂM

Mô hình công ty chuyên doanh: Theo mô hình này, hoạt động chuyên doanh
chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán
đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Mô hình này khắc phục được hạn chế của mô hình đa năng là giảm rủi ro
cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán kinh doanh
chuyên môn hóa, thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.

Nguyễn Thanh Thảo


10

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Sơ đồ 1.2: Mô hình CTCK chuyên doanh
HĐQT

BAN KIỂM SOÁT
BAN LÃNH ĐẠO

PHÒNG MÔI GIỚI

PHÒNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH

PHÒNG QUẢN LÝ NHÂN SỰ

PHÒNG TỰ DOANH

PHÒNG TƯ VẤN

Ngày nay với sự phát triển của thị trường chứng khoán, để tận dụng thế
mạnh của lĩnh vực tiền tệ và lĩnh vực chứng khoán, các quốc gia có xu hướng
nới lỏng ngăn cách giữa hoạt động tiền tệ và chứng khoán, bằng cách nào cho
phép hình thành mô hình công ty đa năng một phần, các NHTM thành lập công

ty con để chuyên kinh doanh chứng khoán.

Nguyễn Thanh Thảo

11

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.2 Các nguyên tắc hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
1.1.2.1 Nguyên tắc tài chính
Do tính đặc thù trong hoạt động nên hầu hết các nước đều đặt ra các
nguyên tắc, quy định rất chặt chẽ về tài chính đối với công ty chứng khoán.
Thông thường, các công ty chứng khoán đảm bảo tuân thủ các tiêu chí sau:
- Mức vốn hoạt động: vốn của công ty chứng khoán nhiều hay ít phụ thuộc vào
loại tài sản cần tài trọ, loại tài sản này lại được quyết định bởi loại hình nghiệp
vụ thực hiện.
Ở Việt Nam, theo điều 18, Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật chứng khoán năm 2006, vốn pháp định cho các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán công ty chứng khoán, công ty chứng khoán
có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt
Nam. Cụ thể:
Môi giới chứng khoán
25 tỷ đồng Việt Nam
Tự doanh chứng khoán
100 tỷ đồng Việt Nam

Bảo lãnh phát hành chứng khoán
165 tỷ đồng Việt Nam
Tư vấn đầu tư chứng khoán
10 tỷ đồng Việt Nam
Trường hợp công ty chứng khoán muốn thực hiện cấp giấy phép cho nhiều
nghiệp vụ kinh doanh, vốn pháp định là tổng số vốn pháp định tương ứng cho
từng nghiệp vụ xin cấp phép.
Cơ cấu vốn: Cũng như các tổ chức kinh doanh khác thực hiện việc huy
động vốn của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua việc nhận vốn góp
từ các cổ đông (trường hợp công ty cổ phần) hoặc huy động vốn từ bên ngoài,
tùy theo mô hình và tính chất của nó. Công ty chứng khoán là công ty trách
nhiệm hữu hạn phải dựa vào vốn của các thành viên, vào khoản vay của ngân

Nguyễn Thanh Thảo

12

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

hàng hoặc thỏa thuận cho thuê khác. Việc huy động vốn và cơ cấu vốn của công
ty chứng khoán có một số đặc điểm sau:
+ Tổ chức kinh doanh chứng khoan phụ thuộc vào các khoản vay ngắn hạn.
+ Chứng khoán có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thường chiếm phần lớn trong
tổng giá trị tài sản (khoảng 40 -


60%) và tổng giá trị cổ phiếu (khoảng 90%).

+ Tỷ lệ tổng nợ trên tổng tài sản ròng phải duy trì ở mức độ nhất định.
- Quản lý vốn và hạn mức kinh doanh: bên cạnh việc đáp ứng các tiêu chí về
mức vốn hoạt động, cơ cấu vốn, công ty chứng khoán phải tuân thủ các nguyên
tắc về việc sử dụng vốn và các hạn mức trong kinh doanh. Các nguyên tắc này
khác nhau tùy theo đặc điểm của từng nghiệp vụ mà các tổ chức kinh doanh
chứng khoán thực hiện. Nhìn chung các nguyên tắc về sử dụng vốn do pháp luật
đặt ra đối với công ty chứng khoán bao gồm: cơ cấu vốn (tỷ lệ nợ so với vốn chủ
sở hữu), mức vốn khả dụng phải duy trì, trích lập quỹ bù đắp rủi ro, quỹ dự trữ
bổ sung vốn điều lệ,…
Đối với việc quản lí hạn mức kinh doanh, tùy theo từng nước mà có các
quy định khác nhau, thông thường các nước quy định một số hạn mức sau để hạn
chế rủi ro đối với công ty chứng khoán cũng như đảm bảo hạn chế xung đột lợi
ích có thể xảy ra:
+ Hạn chế mức mua sắm tài sản cố định theo một tỷ lệ phần trăm trên vốn
điều lệ.
+ Hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán: Thường hạn mức đầu tư vào
các loại chứng khoán được niêm yết được cao hơn hạn mức đầu tư vào các loại
chứng khoán không niêm yết.
+ Hạn mức đầu tư vào một số những tài sản rủi ro cao như các loại trái phiếu
có định mức tín nhiệm thấp hay cổ phiếu của những công ty đang phát triển.
Nguyễn Thanh Thảo

13

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

+ Hạn mức bảo lãnh phát hành: vì hoạt động bảo lãnh phát hành có mức
độ rủi ro tương đối cao nên quy định hạn mức này nhằm giới hạn tổng mức bảo
lãnh trong cùng thời điểm của công ty chứng khoán.
+ Hạn mức hoặc hạn chế đầu tư vào các quỹ đầu tư do công ty chứng
khoán quản lý.
Ngoài ra, còn có thể đặt thêm những hạn mức khác cho công ty chứng
khoán như hạn mức đầu tư vào công ty trong cùng một tập đoàn, trong cùng
ngành nghề,…
Trong quản lý vốn của công ty chứng khoán ngoài việc xác định tỷ lệ nợ,
các công ty chứng khoán còn phải duy trì một mức vốn khả dụng để đảm bảo
khả năng thanh toán cho người đầu tư.
1.1.2.2 Nguyên tắc đạo đức
Các công ty chứng khoán phải tuân thủ những nguyên tắc đạo đức sau:
- Phải hoạt động trên nguyên tắc trung thực, tận tụy, bảo vệ và vì quyền lợi, lợi
ích hợp pháp của khách hàng trước lợi ích của chính mình.
- Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng và chỉ được tiết lộ thông tin của khách
hàng trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
- Giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không sử dụng bất kỳ hành động lừa đảo
phi pháp nào, có trách nhiệm thông báo cho khách hàng biết đầy đủ các thông tin
khi có những trường hợp có thể xảy ra xung đột lợi ích.
- Không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh,
ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phục vụ cho giao dịch của khách hàng.
- Phải quản lý tách biệt tài sản của khách hàng với tài sản của mình và tài sản của
khách hàng với nhau.

Nguyễn Thanh Thảo


14

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

- Khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn, công ty chứng khoán phải cung cấp đầy đủ
thông tin cho khách hàng và giải thích rõ về các rủi ro mà khách hàng có thể phải
gánh chịu, đồng thời không được khẳng định về lợi nhuận của các khoản đầu tư
mà họ tư vấn.
- Không được phép nhận bất kỳ khoản thù lao nào ngoài thù lao thông thường
cho dịch vụ của mình.
Ngoài các quy định trên pháp luật các nước cũng có điều khoản chốn thao
túng thị trường như hạn chế sự hợp tác giữa các công ty chứng khoán, cấm giao
dịch mua bán giả tạo và khớp lệnh với mục đích tạo ra một trạng thái giao dịch tích
cực bên ngoài. Các công ty chứng khoán cũng không được đưa ra các lời đồn đại,
xúi giục hoặc làm các hành vi lừa đảo khác trong giao dịch chứng khoán.
Bên cạnh các quy định về thao túng giá thị trường, giao dịch nội gián cũng
là những vấn đề được quản lý chặt chẽ. Theo đó các CTCK không được phép sử
dụng các thông tin nội bộ mà mình có được để mua bán chứng khoán cho chính
mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
1.1.3 Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán
Trong quá trình phát triển của thị trường chứng khoán, các công ty chứng
khoán có vai trò hết sức quan trong, thể hiện qua:
Thứ nhất, vai trò huy động vốn
Công ty chứng khoán là một trong những trung gian chính có chức năng huy
động vốn. Hay nói cách khách công ty chứng khoán có vai trò làm cầu nối và là

kênh dẫn cho vốn dịch chuyển từ nơi dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi) tới nơi thiếu vốn
(cần huy động vốn). Các công ty chứng khoán thường đảm nhận vai trò này thông
qua hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.

Nguyễn Thanh Thảo

15

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Thứ hai, vai trò hình thành giá cả chứng khoán
Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành chứng
khoán cho các tổ chức phát hành, công ty chứng khoán thực hiện vai trò hình
thành giá cả chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ chức phát
hành mức giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành.
Thông thường, mức giá phát hành do các công ty chứng khoán xác định dựa trên
cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu và thỏa thuận với các nhà đầu tư tiềm năng lớn trong đợt
phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành.
Trên thị trường thứ cấp, dù là thị trường đấu lệnh hay đấu giá công ty
chứng khoán luôn có vai trò giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính
xác giá trị các khoản đầu tư của mình.
Công ty chứng khoán còn có chức năng quan trọng là can thiệp trên thị
trường, góp phần điều tiết giá cả chứng khoán.Theo quy định của các nước, công
ty chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để
mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra

khi giấ chứng khoán cao.
Thứ ba, vai trò thực thi tính hoán tệ của chứng khoán
Các công ty chứng khoán đảm nhận chức năng chuyển đổi này, giúp cho
nhà đầu tư ít chịu thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. Trong hầu hết các nghiệp vụ
ở Sở giao dịch chứng khoán và thị trường phi tập trung, một nhà đầu tư có thể
hàng ngày chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại mà không phải
chịu thiệt hại đáng kể đối với giá trị khoản đầu tư.
Thứ tư, vai trò tư vấn đầu tư
Các công ty chứng khoán không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách hàng
mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu

Nguyễn Thanh Thảo

16

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

thị trường rồi cung cấp thông tin cho các công ty và cá nhân đầu tư. Dịch vụ tư
vấn có thể gồm:
- Thu thập thông tin phục vụ mục đích của khách hàng
- Cung cấp thông tin về khả năng đầu tư khác nhau cũng như triển vọng ngắn
hạn và dài hạn của các khoản đầu tư đó trong tương lai.
- Cung cấp thông tin về chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ có liên quan
đến các khoản đầu tư mà khách hàng đang cân nhắc.
1.1.4 Các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán

1.1.4.1 Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian mua bán chứng khoán cho
khách hàng để hưởng hoa hồng, làm dịch vụ nhận lệnh mua, lệnh bán chứng
khoán cho khách hàng, chuyển các lệnh mua bán đó vào sở GDCK và hưởng hoa
hồng môi giới. Công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng – được ủy quyền
thay mặt cho khách hàng mua bán một hoặc một số loại chứng khoán.
Hoạt động môi giới chứng khoán tuân theo một số nguyên tắc: ký kết hợp
đồng dịch vụ với khách hàng, mở tài khoản cho khách hàng, nhận các lệnh mua
hoặc bán của khách hàng, thanh toán và quyết toán các doanh vụ, cung cấp các
giấy chứng nhận chứng khoán.
Với tư cách là người môi giới, ngoài việc tiến hành giao dịch theo chỉ thị của
khách hàng, công ty chứng khoán thường cung ứng các dịch vụ tiện ích khác:
- Quản lý tài khoản tiền gửi và tài khoản chứng khoán cho khách hàng.
- Quản lý các lệnh giao dịch cho khách hàng.
- Vận hành các đầu mối thông tin và tư vấn cho khách hàng về đầu tư chứng khoán.

Nguyễn Thanh Thảo

17

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.4.2 Tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc cung cấp cho nhà đầu tư các kết quả,
phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyện nghị liên quan đến chứng khoán.

Để có thể tư vấn cho khách hàng điều quan trọng là những nhân viên tư vấn đầu
tư của CTCK phải am hiểu đầu tư, phải thấy được cơ hội kiếm tiền khi ngưởi
khác chưa thấy, phải tìm ra được nhiều giải pháp tài chính khác nhau để giúp giải
quyết vấn đề tài chính của khách hàng. Nói chung là nhà tư vấn phải am hiểu về
kế toán, đấu tư, thị trường và pháp luật.
Đối với nhà tư vấn khi hành nghề phải tuân theo các nguyên tắc nhất định:
- Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán vì nó thường xuyên thay đổi.
- Nguyên tắc tư vấn khách quan: Không được mời gọi khách hàng mua hay bán
một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải khách quan, có cơ sở phân
tích khoa học và tổng hợp. Khách hàng cần được thông báo rõ về những lợi thế
và bất lợi của các loại hình đầu tư vốn và những lời tư vấn có thể không hoàn
toàn chính xác.
- Nguyên tắc tư vấn theo khả năng của khách hàng:
+ Tôn trọng nguyện vọng và mục đích đầu tư của cá nhân khách hàng.
+ Quan tâm tới thực tế tài sản và thu nhập của cá nhân khách hàng.
+ Lưu ý tới đối tượng chịu thuế của khách hàng.
- Nguyên tắc thông tin hỗ trợ:
Công việc tư vấn đầu tư không chỉ dừng lại khi khách hàng quết định đầu tư,
mà cần tạo cho khách hàng cảm giác luôn được hỗ trợ trong công việc đầu tư của
mình. Chính vì vậy, tổ chức tư vấn luôn phải bao quát trong thời gian dài những
diễn biến thực tế liên quan đến vấn đề mình tư vấn và quyết định đầu tư của khách
hàng, thông báo kịp thời tới khách hàng những thông tin cần thiết như:
Nguyễn Thanh Thảo

18

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

+ Những thay đổi pháp lý liên quan tới nhà đầu tư như tăng thuế thu nhập
hoặc được truy hoàn thuế.
+ Những thay đổi điều kiện giao dịch gây bất lợi cho hoạt động đầu tư đã
được thực hiện.
+ Khối lượng tiền đầu tư của khách hàng gia tăng do khối lượng lớn chứng
khoán đến hạn hay bị thanh toán hoàn trả (như trái phiếu quay số thu hồi).
+ Những khả năng đầu tư mới có lợi khi khách hàng chuyển hướng đầu tư.
- Nguyên tắc tư vấn đầy đủ và chi tiết: về khả năng đảm bảo an toàn, mức
doanh lợi, khả năng bảo toàn vốn, các loại chi phí, các khoản thuế phải chịu.
Thành công của hoạt động tư vấn thể hiện trong việc khách hàng hài lòng
về quyết định đầu tư của họ.
1.1.4.3 Tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng
khoán cho mình để được hưởng lợi nhuận từ chênh lệch giá. Hoạt động tự doanh
của CTCK được thực hiện qua cơ chế giao dịch trên sở GDCK hoặc thị trường
phi tập trung OTC. Giao dịch tự doanh được thực hiện theo phương thức giao
dịch trực tiếp hoặc gián tiếp.
Giao dịch trực tiếp là các giao dịch “trao tay” giữa khách hàng và CTCK
theo giá thỏa thuận trực tiếp (giao dịch tại quầy). Các đối tác giao dịch do các tổ
chức tự “đấu mối”, họ có thể là cá nhân hay tổ chức (chủ yếu là các CTCK).
Thời gian giao dịch thường được thực hiện trong và ngoài giờ giao dịch của sở
giao dịch (trung tâm GDCK), kể cả ban đêm và ngày nghỉ. Chứng khoán giao
dịch rất đa dạng (chủ yếu là chứng khoán không niêm yết, chứng khoán mới phát
hành). Các đối tác giao dịch thường trực tiếp thực hiện các thủ tục thanh toán và
chuyển giao, chuyển nhượng chứng khoán. Vì vậy trong giao dịch này không có
Nguyễn Thanh Thảo


19

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

bất kì một loại phí nào, riêng phí thanh toán và chuyển nhượng do bên thụ hưởng
chịu, phí chuyển khoản do bên chuyển nhượng chịu. Các hoạt động giao dịch
này không chịu sự giám sát của sở giao dịch nhưng chịu sự giám sát của thanh
tra nhà nước về chứng khoán.
Giao dịch gián tiếp là các giao dịch mà công ty chứng khoán không thể
thực hiện được bằng giao dịch trực tiếp để đảm bảo an toàn khi giá chứng khoán
có biến động lớn và đôi khi có thể vì mục đích can thiệp vào giá thị trường. Hình
thức giao dịch này cũng được thực hiện tương tự giao dịch của các nhà đầu tư
khác thông qua nghiệp vụ môi giới. Do giao dịch qua sở giao dịch nên công ty
phải chịu các chi phí môi giới, chi phí thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán.
Yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh:
Tách biệt quản lý: Khi công ty chứng khoan đồng thời thực hiện 2 nghiệp
vụ môi giới và tự doanh thì phải biết tách biệt quản lý để đảm bảo tính minh
bạch trong hoạt động, bao gồm tách bạch về yếu tố con người, quy trình nghiệp
vụ vốn và tài sản. Nhân viên làm nghiệp vụ tự doanh không quan hệ với bộ phận
môi giới, không trao đổi với các khu vực làm việc khác.
Ưu tiên khách hàng: Công ty chứng khoán luôn phải ưu tiên khách khàng
tức là thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh
chứng khoán trong trường hợp lệnh giá của khách hàng và lệnh của công ty có
cùng giá, khối lượng cũng như thời gian. Điều này đảm bảo tính công bằng trong
giao dịch chứng khoán khi mà các công ty chứng khoán có nhiều lợi thế hơn

khách hàng về tìm kiếm thông tin và phân tích thị trường.
Góp phần bình ổn giá: Để góp phần bình ổn thị trường, công ty chứng
khoán phải thực hiện giao dịch theo luật định trong giới hạn mà luật cho phép
tức là mua và bán ra chứng khoán trong giới hạn quy định của pháp luật nhằm
Nguyễn Thanh Thảo

20

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

góp phần bình ổn giá thị trường. Đây không phải là nguyên tắc bắt buộc trong hệ
thống pháp luật của các nước, nhưng là nguyên tắc nghề nghiệp do Hiệp hội
chứng khoán đưa ra.
Hoạt động tạo thị trường: Các công ty chứng khoán thực hiện tự doanh
đối với chứng khoán mới phát hành và chưa có thị trường giao dịch, nhằm tạo ra
thị trường cấp hai cho chúng.
Ngoài ra, các CTCK còn thực hiện một số quy định khác như các giới hạn
về đầu tư, lĩnh vực đầu tư,… Tất cả các quy định này nhằm tạo độ an toàn cho
các CTCK, và do đó góp phần bình ổn thị trường chứng khoán.
1.1.4.4 Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức
phát hành thực hiện các thủ tục tục trước khi chào bán chứng khoán,tổ chức việc
phân phối chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ
chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa phân phôi hết
và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.Việc bảo

lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
- Bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn (Firm commitment) là phương
thức bảo lãnh phát hành mà tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát
hành sẽ mua hết số lượng chứng khoán với một mức giá thỏa thuận và phân phối
lại cho công chúng tại mức giá chào bán ra công chúng (POP).
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất (Best efforts): là phương thức bảo lãnh mà theo
đó tổ chức bảo lãnh chỉ đóng vai trò đại lý phát hành cho tổ chức phát hành.Tổ
chức bảo lãnh chỉ cam kết sẽ cố gắng để bán được nhiều nhất chứng khoán ra thị
trường theo mức giá xác định. Số chứng khoán không bán hết sẽ được trả lại cho

Nguyễn Thanh Thảo

21

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh nhận được hoa hồng bảo lãnh trên số chứng
khoán bán được hoặc số vốn huy động được.
- Bảo lãnh tất cả hoặc không (All or None offering- AON): là phương thức tổ
chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành phải bán trọn đợt phát
hành,nếu không bán được họ sẽ hủy bỏ đợt phát hành đó.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa (Mini – max commitment): theo
phương thức này có hai lượng chứng khoán cần được xác lập là: lượng sàn (floor
amount) và lượng trần (cell amount). Tổ chức phát hành đưa ra lượng trần là
lượng chứng khoán mà họ muốn bán.Tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo

lãnh phát hành phải xác lập lượng sàn là lượng chứng khoán họ cam kết chắc
chắn đồng thời phải cố gắng tối đa để bán đến lượng trần.
- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng (Stand – by commitment): Đây là phương
thức bảo lãnh được áp dụng khi tổ chức phát hành là công ty đại chúng phát hành
them cổ phiếu thông qua hình thức phát hành đặc quyền mua trước (rights
offering) cho cổ đông hiện hữu. Có thể có một số cổ đông hiện hữu không mua
thêm cổ phần nữa do thiếu vốn, do muốn phân tán rủi ro,… Do vậy tổ chức phát
hành cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành dự phòng sẵn sàng đứng ra mua
những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để bán
ra công chúng.
Khi thực hiện một đợt phát hành chứng khoán thông qua bảo lãnh, tổ chức
phát hành sẽ lựa chọn một hoặc một tổ hợp bảo lãnh với một hoặc nhiều tổ chức
bảo lãnh chính phù hợp và ký hợp đồng bảo lãnh.tổ chức bảo lãnh chính thay
mặt cho các thành viên khác trong tổ hợp để thực hiện hợp đồng bảo lãnh (thẩm
quyền của tổ chức bảo lãnh chính được quy định trong hợp đồng giữa các tổ
chức bảo lãnh phát hành).
Nguyễn Thanh Thảo

22

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Về mặt nguyên tắc, việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành do tổ chức
phát hành quyết định. Song trên thực tế, các tổ chức bảo lãnh mới chính là người
cố gắng chứng minh khả năng và thuyết phục tổ chức phát hành họ là tổ chức

phù hợp với yêu cầu của tổ chức phát hành.
1.1.4.5 Các nghiệp vụ khác
Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: là công việc đầu tiên để các chứng khoán
có thể giao dịch thị trường tập trung – việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng
khoán – được thực hiện thông qua các thành viên lưu ký của thị trường GDCK.
Lưu ký chứng khoán là một hoạt động rất cần thiết trên TTCK. Bởi vì trên
TTCK tập trung, việc thanh toán các giao dịch diễn ra tại Sở GDCK. Vì vậy, lưu
ký chứng khoán một mặt giúp cho quá trình thanh toán tại Sở giao dịch diễn ra
thuân lợi, nhanh chóng, dễ dàng. Mặt khác,nó hạn chế rủi ro cho người nắm giữ
chứng khoán như rủi ro bị hỏng, thất lạc, rách chứng chỉ chứng khoán…
Hoạt động tín dụng: là hoạt động mà CTCK giúp khách hàng của mình gia
tăng khoản vốn đầu tư thông qua các hình thức :
- Cho vay cầm cố chứng khoán: là một hình thức tín dụng mà trong đó người đi
vay dùng số chứng khoán sở hữu hợp pháp của mình làm tài sản cầm cố để vay
kiếm tiền nhằm mục địch kinh doanh, tiêu dùng…
- Cho vay bảo chứng: là một hình thức tín dụng mà khách hàng vay tiền để mua
chứng khoán, sau đó dung số chứng khoán mua được tự tiền vay đẻ làm tài sản
cầm cố cho khoản vay.
- Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: là việc CTCK ứng trước tiền bán
chứng khoán của khách hàng được thực hiện tại TTGDCK.

Nguyễn Thanh Thảo

23

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

1.2 Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của công ty
chứng khoán
1.2.1 Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của công
ty chứng khoán
1.2.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến, rộng rãi trên toàn cầu
trong nhiều lĩnh vực như: kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự… mỗi lĩnh
vực lại đưa tới một khái niệm về cạnh tranh theo các góc độ khác nhau cho nên
tới hiện nay vẫn chưa có sự nhất trí cao giữa các học giả để đưa ra một khái niệm
chính xác nhất về cạnh tranh. Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát
thì cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các
nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi
nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác.
Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa
những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất
với người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua
rẻ); giữa những người tiêu dùng với nhau để mua được hàng hóa rẻ hơn; giữa
những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ.
Có quan điểm cho rằng: Cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn
phần thắng về mình trong môi trường cạnh tranh. Bản chất của cạnh tranh là tìm
kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mực lợi nhuận trung bình mà doanh
nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quan hóa lợi nhuận trong
ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Nguyễn Thanh Thảo


24

Lớp:CQ48/17.02


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Cạnh tranh không phải là “chiến tranh” và cũng không phải là “hòa bình”.
Cạnh tranh không còn là những động thái của tình huống, không phải chỉ là
những hành động mang tính thời điểm mà là cả tiến trình tiếp diễn thông ngừng
khi đó các doanh nghiệp đều phải đua nhau để phục vụ khách hàng tốt nhất thì
điều đó có nghĩa là không có giá trị gia tăng nào có thể giữ nguyên và tồn tại
vĩnh viễn mà có sự biến đổi mới lạ.
Như vậy, “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự ganh đua về kinh
tế giữa những doanh nghiệp cùng ngành, cùng thị trường trong việc giành lấy
thị phần nhằm mục đích cuối cùng là gia tăng lợi nhuận. Cạnh tranh là một quá
trình diễn ra liên tục nhằm mang đến một chất lượng phục vụ tốt nhất cho khách
hàng và nâng cao thương hiệu của đơn vị.”
1.2.1.2 Khái niệm năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
Để cạnh tranh được và thành công trên thị trường, các chủ thể cần có năng
lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh là năng lực tồn tại trong kinh doanh và đạt được một
số kết quản mong muốn dưới dạnh lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các
sản phẩm để khai thác các cơ hội thị trườn hiện tại và làm nảy sinh thị trường
mới.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất và đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy, năng lực cạnh tranh

của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đấy
là các yếu tốt nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng tiêu chí
về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… một cách

Nguyễn Thanh Thảo

25

Lớp:CQ48/17.02


×