Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Giải pháp khuyến khích và thu hút đội ngũ trí thức người bắc giang trong phát triển kinh tế xã hội địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGÔ VĂN TÂM

GIẢI PHÁP KHUYẾN KHÍCH VÀ THU HÚT ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC NGƯỜI BẮC GIANG TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỊA PHƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các kết quả nghiên
cứu được trình bày trong luận văn trung thực, khách quan và chưa được dùng bảo
vệ để lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã
được cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ
nguồn gốc.

Hà Nội, ngày

tháng


năm 2015

Tác giả luận văn

Ngô Văn Tâm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page ii


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Ban Giám đốc Học viện
Nông nghiệp Việt Nam, Khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn; Bộ môn Kế hoạch
và đầu tư đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Tuấn Sơn đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận
văn.
Xin trân trọng cảm ơn UBND tỉnh Bắc Gang; Liên hiệp các hội Khoa học
và Kỹ thuật tỉnh Bắc Giang; Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Giang; Hội các nhà
khoa học Bắc Giang tại Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tư liệu
khách quan giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các bạn, đồng nghiệp và người thân
đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện
đề tài nghiên cứu.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!


Tác giả luận văn

Ngô Văn Tâm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 3


MỤC LỤC
Lời cam đoan.......................................................................................................ii
Lời cảm ơn .........................................................................................................iii
Mục lục .............................................................................................................. iv
Danh mục các chữ viết tắt................................................................................... vi
Danh mục bảng ................................................................................................. vii
Danh mục hình và biểu đồ ................................................................................viii
PHẦN I MỞ ĐẦU.............................................................................................ii
1.1

Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................. 3

1.2.1 Mục tiêu chung ......................................................................................... 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể ......................................................................................... 3
1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3


1.3.1 Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 3
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 3
PHẦN II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................................
5
2.1

Cơ sở lý luận của đề tài............................................................................. 5

2.1.1 Một số khái niệm ...................................................................................... 5
2.1.2 Những đặc điểm lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức ............................ 8
2.1.3 Vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa ......................................................................................... 11
2.1.4 Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.......................................... 25
2.1.5 Nội dung khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức trong phát triển kinh
tế - xã hội các địa phương ....................................................................... 26
2.1.6 Những nhân tố ảnh hưởng đến khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức
trong phát triển kinh tế - xã hội các địa phương ...................................... 28
2.2
30

Cơ sở thực tiễn của đề tài ........................................................................

2.2.1 Kinh nghiệm khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức trong phát triển
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 4



kinh tế - xã hội ở một số nước trên thế giới ............................................. 30

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5


2.2.2 Kinh nghiệm khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức về đóng góp phát
triển kinh tế - xã hội một số địa phương trong nước ................................ 36
2.3

Bài học rút ra từ lý luận và thực tiễn ....................................................... 40

PHẦN III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................... 42
3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .................................................................. 42

3.1.1 Điều kiện tự nhiên tỉnh Bắc Giang .......................................................... 42
3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang ............................................... 44
3.2

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 50

3.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu ....................................................... 50
3.2.2 Phương pháp thu thập số liệu .................................................................. 50
3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu....................................................................... 51
3.2.4 Phương pháp phân tích số liệu ................................................................ 51
3.2.5 Hệ thống chỉ tiêu..................................................................................... 52
PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................. 53

4.1

Thực trạng khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức trong phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh thời gian qua. .................................................... 53

4.1.1 Chủ trương của tỉnh về khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức trong
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh ........................................................... 53
4.1.2 Kết quả thực hiện việc khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức trong
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh ........................................................... 60
4.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức
trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh .................................................... 72

4.2.1 Các yếu tổ ảnh hưởng đến khuyến, thu hút đội ngũ trí thức trong phát
triển kinh tế - xã hội địa phương ............................................................ 72
4.2.2 Những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chủ trương khuyến khích,
thu hút đội ngũ trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh thời
gian qua. ................................................................................................. 77
4.3

Định hướng và giải pháp tăng cường công tác khuyến khích, thu hút
đội ngũ trí thức trong phát triển kinh tế của tỉnh thời gian tới.................. 83

4.3.1 Định hướng............................................................................................. 83
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5



4.3.2 Một số giải pháp nhằm khuyến khích, tăng cường thu hút đội ngũ trí
thức trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh .......................................... 85
PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................ 98
5.1

Kết luận .................................................................................................. 98

5.2.1 Đối với Nhà nước ................................................................................. 101
5.2.2 Đối với địa phương ............................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 102

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH - HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá



Cao đẳng

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa


ĐH

Đại học

GS

Giáo sư

KH&KT

Khoa học và Kỹ thuật

KH&CN

Khoa học và Công nghệ

KT-XH

Kinh tế - xã hội

PGS

Phó Giáo sư

TS

Tiến sĩ

ThS


Thạc sĩ

UBND

Ủy ban nhân dân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page vii


DANH MỤC BẢNG

STT

Tên bảng

Trang

3.1 Biến động dân số Bắc Giang giai đọan 2012 - 2014.................................... 44
3.2 Giá trị sản xuất tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2012 - 2014 ................................ 46
3.3 Năng suất lao động các ngành kinh tế giai đoạn 2006-2013........................ 48
4.1 Trình độ của cán bộ là lãnh đạo, quản lý cơ quan các cấp ........................... 61
4.2 Số học sinh thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng qua các năm ............. 67
4.3 Số trí thức bậc cao là người Bắc Giang đang công tác tại Hà Nội năm
2014 ...................................................................................................... 69
4.4 Đánh giá mức độ hài lòng với chính sách hiện nay của tỉnh đối với đội
ngũ trí thức ........................................................................................... 79
4.5 Số lượng trí thức là cán bộ, công chức, viên chức Bắc Giang năm 2014 ..... 81
4.6 Ý kiến của cán bộ được phỏng vấn về phát huy năng lực bản thân cho

công việc............................................................................................... 82

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 8


DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ

STT

Tên hình, biểu đồ

Trang

Hình 3.1 Vị trí địa lý tỉnh Bắc Giang ................................................................. 42
Hình 3.2 Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế. ........................................... 45
Biểu đồ 3.1 Cơ cấu kinh tế thời gian vừa qua..................................................... 47
Biểu đồ 3.2 Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2006-2013................................ 48
Biểu đồ 3.3 GDP bình quân/người giai đoạn 2006-2013 .................................... 49

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 9


PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi các nước đang phát triển đã hoàn thành hai

cuộc cách mạng công nghiệp hóa và đang thực hiện cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại thì nước ta mới bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất
nước. Việt Nam đang đứng trước thời cơ và vận hội lớn đồng thời phải đương
đầu với nhiều khó khăn và thử thách rất quyết liệt. Để giải quyết mâu thuẫn lớn
nhất của nước ta hiện nay là phải dốc sức vào việc phát triển lực lượng sản xuất
bằng cách đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa với tình trạng kinh
tế còn nghèo. Để sớm đạt được mục tiêu đưa đất nước ta trở thành một nước
công nghiệp vào năm 2020. Muốn vậy đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát
triển ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân
tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Chúng ta đều biết, tri thức là nền tảng tiến bộ của xã hội, đội ngũ trí thức
là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức, xây dựng đội ngũ trí thức là
yêu cầu tất yếu của xã hội. Từ trước đến nay Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
coi trọng trí thức, quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức vì đây là lực lượng lao
động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Với tầm nhìn chiến lược,
Đảng ta vừa quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức hiện có, vừa chăm lo đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ trí thức cho giai đoạn tiếp theo. Hiện nay đội ngũ trí thức ở
Việt Nam không những có bước phát triển nhanh về số lượng mà chất lượng
cũng được nâng lên, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đối với Bắc Giang, đội ngũ trí thức phần lớn xuất
thân từ nông thôn, được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có tinh thần yêu
quê hương, đất nước, gắn bó với Đảng; từng bước phát triển mạnh về số lượng và
nâng cao chất lượng; có ý chí vươn lên tiếp cận khoa học và kỹ thuật, trình độ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 1



chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong giai
đoạn mới.
Tuy nhiên, số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang
hiện nay chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sự phát triển, nhất là trí thức chất lượng
cao trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Số trí thức có trình độ kỹ thuật cao, tiêu
biểu chưa nhiều… đội ngũ trí thức chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực còn
thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu; Trí thức trẻ và nữ phát triển chưa xứng tầm với
lực lượng lao động tỉnh nhà. Mặt khác có tình trạng một số trí thức có trình độ
sau khi được đào tạo không về quê hương công tác, một số chuyển về thủ đô
hoặc ra nước ngoài làm việc. Hiện tượng chảy máu “chất xám” đang diễn ra ở
Việt Nam nói chung và ở tỉnh Bắc Giang nói riêng ngày càng phổ biến (Chương
trình 46-CTr/TU, 2008).
Thời gian qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, đội ngũ trí thức
tỉnh Bắc Giang có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, cải thiện và
nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân. Trước những yêu cầu mới của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, đội ngũ trí thức ngày càng đóng vai trò hết
sức quan trọng. Bắc Giang - một tỉnh miền núi, kinh tế chưa phát triển, chủ yếu
dựa vào nông nghiệp. Để phát triển nhanh, ổn định thì không còn con đường nào
khác phải tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ trí thức
có tâm, có tầm.
Vấn đề đặt ra là:
• Cần có những chính sách để khuyến khích, đãi ngộ và thu hút đội ngũ
trí thức, trí thức chất lượng cao trở về làm việc góp phần xây dựng quê hương
Bắc Giang?


Giải pháp nào để khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức, trí thức chất

lượng cao cống hiến cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương?


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 2


Để trả lời cho những câu hỏi nêu trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài:“Giải
pháp khuyến khích và thu hút đội ngũ trí thức người Bắc Giang trong phát
triển kinh tế - xã hội địa phương”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức
con em quê hương Bắc Giang trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương thời
gian qua, đề xuất giải pháp tăng cường khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức
trong xây dựng phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về khuyến khích, thu
hút đội ngũ trí thức trong xây dựng và phát triển kinh tế ở các địa phương;
- Đánh giá thực trạng công tác khuyến khích, thu hút đội ngũ cán bộ trí
thức người Bắc Giang trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh giai đoạn 2010-2014;
- Đề xuất định hướng và giải pháp khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức
người Bắc Giang đóng góp xây dựng phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong
thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về khuyến khích và thu hút đội
ngũ trí thức đóng góp phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bắc Giang.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
• Phạm vi về nội dung
- Chính sách khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức về đóng góp phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 3


- Giải pháp tăng cường khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức đóng góp
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
• Phạm vi về không gian
• Đề tài thực hiện tại tỉnh Bắc Giang
• Phạm vi về thời gian
Số liệu thu thập và phân tích 2010 - 2014; Định hướng, giải pháp đẩy
mạnh khuyến khích, thu hút đội ngũ trí thức đến năm 2020.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 4


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Một số khái niệm
* Khái niệm trí thức
Khái niệm trí thức được dùng nhiều nước trên thế giới và có nguồn gốc từ
tiếng La tinh: Intelligentina (Intelligentina có nghĩa là thông minh, có trí tuệ, hiểu
biết, có suy nghĩ). Khái niệm này, trở nên thông dụng từ những năm nửa sau thế
kỉ XIX, để chỉ những người có học thức, học vấn cao, chuyên lao động trí óc.
Tuy vậy, xung quanh cách hiểu này có nhiều và cách định nghĩa khác nhau. Sở dĩ

có hiện tượng này trước hết là vì tùy góc độ tiếp cận đối tượng trí thức của mỗi
người, mỗi nhóm người có sự khác nhau.
Các nhà sáng lập và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học như C.Mác, Ph.
Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh là những người đặc biệt quan tâm đến trí thức
và vấn đề trí thức, không chỉ vì các ông là những người trí thức lớn mà còn là vì
họ nhận thức được một cách sâu sắc vai trò quan trọng của trí thức đối với sự
phát triển của xã hội.
Ở vào thời đại của mình, C.Mác và Ph. Ăngghen đã quan tâm nghiên cứu
tầng lớp trí thức trong quá trình phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực, tuy vậy, do
những điều kiện nhất định các ông chưa đưa ra định nghĩa về trí thức.
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, trong điều kiện mới khi
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước Nga đã dành được chính quyền và
bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải có sự đóng góp thật nhiều
của nguồn lực trí tuệ, VI. Lênin – nhà lý luận thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thế giới đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5


và tầng lớp trí thức. Ông đã định nghĩa về trí thức như sau: “trí thức bao hàm
không những chỉ những người trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi
người có học thức, các đại biểu của các nghề tự do nói chung, các đại biểu của
những người lao động trí óc” (VI. Lênin, 1977).
Trên cơ sở những quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen, VI. Lênin tiếp
thu tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại, đồng thời qua thực tiễn xây dựng
và sử dụng trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc, cải tạo, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa về trí thức như sau: Trí thức là
hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là sự hiểu biết tranh đấu

sinh tồn. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và
tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó không có trí
thức nào khác. Một người học xong đại học có thể gọi là trí thức. Song y không
biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều
việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí
thức một nửa. Trí thức của y chỉ là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn
toàn. Y muốn trở thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải biết đem trí thức đó
áp dụng vào thực tế (C.Mác và Angghen, 1980).
Ngày nay, do lực lượng trí thức tăng nhanh và chiếm tỷ lệ khá cao trong
cơ cấu dân cư nên cách tiếp cận nghiên cứu về trí thức cũng có những xu hướng
khác nhau. Thứ nhất là xu hướng mở rộng trí thức, cho rằng trí thức là những
người lao động trí óc nói chung. Thứ hai là xu hướng muốn thu hẹp khái niệm trí
thức, coi trí thức như những nhà tư tưởng, là một nhóm nhỏ các nhà bác học,
những nhà sáng chế phát minh. Cả hai xu hướng quan niệm này đều có những
mặt chưa hợp lý, do những cách quan niệm khác nhau về nội hàm của khái niệm
nên ngoài diện của khái niệm được mở rộng quá hoặc thu hẹp quá (C.Mác và
Angghen, 1980).
Ở xu hướng thứ nhất chúng ta thấy, không thể đơn giản cho rằng làm nghề
lao động trí óc thì sẽ được coi là trí thức. Bởi lẽ, như những quan niệm của

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 6


VI.Lênin, trí thức không bao gồm tất cả những người lao động trí óc mà chỉ bao
gồm những người có học thức và là đại diện của những người lao động trí óc;
hơn nữa, theo Hồ Chủ tịch, nếu một người chỉ có học thức nhưng không vận
dụng được vào thực tiễn thì chỉ là “trí thức một nửa” mà thôi. Đồng thời, trên
thực tế, những người lao động trí óc nhưng giản đơn không thể coi là trí thức

được (VI. Lênin, 1977).
Ở xu hướng thứ hai, do chỉ giới hạn đối tượng ở một số trí thức bậc cao,
những người lỗi lạc, ưu tú nên cũng không thể qua đó mà đánh giá hết được vị
trí, vai trò và những cống hiến to lớn của những người có học vấn, có tri thức ở
những cấp độ khác đối với sự phát triển của xã hội, trong lúc những người này
chiếm số đông và tuy không phải là những nhà tư tưởng, những bác học, những
nhà phát minh nhưng lao động của họ cũng hết sức phức tạp và luôn có sự kế
thừa, phát huy và sáng tạo.
Xu hướng thứ ba là nghiên cứu và đưa ra được định nghĩa bao quát được
đầy đủ, phản ánh được những đặc điểm cơ bản của trí thức, không quá thu hẹp
cũng như không mở rộng khái niệm một cách thái quá. Đây là xu hướng cơ bản
và phổ biến nhất hiện nay. Xu hướng này được thể hiện qua các khái niệm sau:
Trong Từ Điển Bách khoa Liên Xô, do A. M Prokorov (1985), khái niện trí
thức được nhìn từ phương diện chức năng xã hội, trí thức được coi là những người
làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn hóa.
Trong Từ điển tiếng Nga do Gozegov (1985), trí thức được hiểu là người
lao động trí óc có học vấn, có kiến thức nghề nghiệp trong các lĩnh vực khác
nhau của khoa học kĩ thuật, văn hóa.
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy
Ban chấp hành Trung ương (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nêu rõ “Trí thức là những
người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 7


có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị cho xã hội”.

Nói tóm lại, trí thức là một “tầng lớp xã hội đặc biệt”. Tầng lớp đó không
chỉ bao hàm các nhà trước tác, những người có học vấn và nói chung là những
người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, có trình độ học vấn đủ để am hiểu và
hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực lao động của mình.
2.1.2 Những đặc điểm lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức
Lao động là những đặc trưng cơ bản nhất của đời sống xã hội. Nhờ có lao
động mà con người dần hoàn thiện, xã hội tồn tại và phát triển không ngừng. Lao
động là quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên. Con người tác động vào tự
nhiên để biến đổi, cải tạo tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Do vậy, lao
động nói chung là sáng tạo (Phạm Thị Thu Hồng, 1999).
Trong các dạng thức lao động, thì lao động trí óc phức tạp của trí thức
mang tính sáng tạo rõ nét nhất. Đó là kiểu lao động sáng tạo khoa học. Lao động
sáng tạo khoa học của trí thức có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, tạo ra những tri thức khoa học mới, tiến bộ và hữu ích. Những tri
thức này góp phần làm giàu thêm kho tàng tri thức dân tộc và nhân loại. Đồng
thời, người trí thức truyền bá và ứng dụng những tri thức ấy trong thực tiễn để
nâng cao mọi mặt của đời sống xã hội (Phạm Thị Thu Hồng, 1999).
Bản thân lao động sáng tạo là phát hiện ra những đặc tính, những mối liên
hệ bản chất mới của các sự vật, hiện tượng mà con người chưa biết đến. Vì vậy,
trong sản phẩm lao động sáng tạo của trí thức phải bao hàm tri thức mới. Cái mới
trong sáng tạo khoa học là biểu hiện tính cách mạng của lao động sáng tạo. Cho
nên, khoa học và cách mạng, lý luận và thực tiễn trở thành nguyên tắc của nhận
thức luận chân chính, là phương châm của người trí thức tiến bộ (Phạm Thị Thu
Hồng, 1999).
Cái mới của lao động sáng tạo khoa học phải mang tính hữu ích cho xã
hội. Tính hữu ích là mục đích đạt tới của lao động sáng tạo mà người trí thức

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 8



mong muốn. Cái mới phải phục vụ nhu cầu phát triển ngày càng cao của đời sống
xã hội. Cái mới phải hướng tới “chân, thiện, mỹ” của nhân loại thì người trí thức
mới là người lao động chân chính (Phạm Thị Thu Hồng, 1999).
Kết quả lao động sáng tạo khoa học phải được phổ biến để ứng dụng trong
thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống thì sản phẩm ấy mới có giá trị
đích thực. Thực tiễn vừa là cơ sở cho người trí thức nhận thức đối tượng, để có
cái mới trong sáng tạo. Ngược lại, kết quả lao động sáng tạo quay trở lại phục vụ
thực tiễn làm cho đời sống xã hội ngày càng thêm phong phú. Vì vậy, cái mới
phải được phổ biến và ứng dụng vào thực tiễn nhằm phục vụ nhu cầu của con
người thì mới đạt tới giá trị xã hội (Phạm Thị Thu Hồng, 1999).
Hai là, lao động sáng tạo đòi hỏi người trí thức phải có kiến thức khoa
học cơ bản, và kiến thức chuyên ngành sâu, đồng thời phải có phương pháp tư
duy khoa học thích hợp. Đây là những nhân tố có tính chất quyết định cho quá
trình lao động để giới trí thức tạo ra những tri thức mới có nội dung với mức độ
cao về khoa học. Kiến thức khoa học biểu hiện ở trình độ học vấn, còn phương
pháp khoa học là phương tiện để người trí thức đạt tới mục tiêu sáng tạo khoa
học, mà chủ yếu là nói đến kiểu tư duy khoa học, tư duy logic. Có những phương
pháp có tính phổ biến cho các ngành khoa học, có những phương pháp được áp
dụng riêng cho từng ngành khoa học hoặc trong từng lĩnh vực khoa học khác
nhau. Phương pháp là công cụ để sáng tạo khoa học, ngược lại, trong quá trình
sáng tạo, người trí thức cũng có thể phát minh ra các phương pháp khoa học mới.
Lúc này, phương pháp trở thành nội dung sáng tạo, thúc đẩy sáng tạo cao hơn
(Phạm Thị Thu Hồng, 1999).
Liên quan đến phương pháp khoa học là khả năng dự báo tương lai của trí
thức. Người trí thức dự báo tương lai dựa trên cơ sở khoa học về qui luật vận
động của lịch sử để nhìn nhận quá trình phát triển sắp tới của xã hội. Sự phát
triển của xã hội vận động theo qui luật và phải trải qua những qui luật của lịch sử
nhất định, theo chiều hướng đi lên dựa vào nhau, kế thừa nhau. Trong tiến trình

phát triển của nó, người ta tìm thấy trong đó những vết tích của quá khứ, những

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 9


cơ sở của hiện đại và những mầm mống của tương lai. Dự báo tương lai là khả
năng kì diệu của con người và là ước mơ lâu đời của nhân loại. Người trí thức có
kiến thức, có phương pháp khoa học thì dự báo đúng. Dự báo đúng sẽ làm cơ sở
khoa học cho các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, dự báo sai, sẽ
gây tác hại rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội (Phạm Thị Thu Hồng, 1999).
Ba là, lao động sáng tạo của trí thức không chỉ đòi hỏi sự vận động tư duy
và sức mạnh lý trí mà phải có tình cảm. Tình cảm hay cảm xúc đạt đến trạng thái
cần thiết sẽ tạo nên cảm hứng sáng tạo. Cảm hứng sẽ thúc đẩy nội tâm người trí
thức đến với công việc và đạt đến kết quả cao độ trong sáng tạo. Đối với văn
nghệ sĩ, cảm hứng sáng tạo đặc biệt quan trọng: “trong nghệ thuật, tình cảm
không chỉ là động lực thúc đẩy sáng tạo (như các hoạt động khác) mà còn là một
bộ phận hữu cơ của tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm là sự hòa thấm của cuộc đời
và máu thịt của nhà văn. Tuy vậy, từ cảm xúc đến cảm hứng sáng tạo là một
khoảng cách. Khắc phục khoảng cách đó, đòi hỏi người trí thức phải chủ động đi
đến đối tượng lao động của mình, bằng nhiều hình thức (đi thực tế, học hỏi, tìm
hiểu…) qua đó mà thổi bừng lên nhiệt huyết sáng tạo của mình (Phạm Thị Thu
Hồng, 1999).
Bốn là, sản phẩm của lao động sáng tạo bảo đảm cái mới trên cơ sở mang
tính kế thừa nhưng không lặp lại. Cái mới trong sáng tạo khoa học không phải là
những cái gì thật khác thường, “lạ lẫm”. Nó được phát kiến dựa trên những tri
thức mà nhân loại tạo ra. Những tri thức này làm nền cho quá trình sáng tạo, lúc
đó, tri thức cũ là cơ sở cho phương pháp luận gián tiếp hòa vào tri thức mới. Sự
kế thừa đó làm cho tri thức của nhân loại như một dòng chảy liên tục và nhận

thức của con người phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Cái mới
mang tính kế thừa nhưng không lặp lại cái cũ. Do vậy, những sản phẩm đa dạng
của lao động trí óc mang tính duy nhất: không ai giống ai, không công trình nào
giống công trình nào (dù cùng một chủ đề và của chính một tác giả) (Phạm Thị
Thu Hồng, 1999).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 10


Sau nữa, lao động sáng tạo của người trí thức mang tính độc lập cá nhân
cao. Khi có kế hoạch làm việc, khi đã nhận nhiệm vụ được giao…,thì hoạt động
chủ yếu của người trí thức là vận động tư duy của mình để tìm ra cách tối ưu
nhằm đạt kết quả cao nhất. Thời gian làm việc của trí thức không gò bó vào
những lúc nhất định, không gian làm việc cũng vậy, không hẳn là một nơi (có thể
ở cơ quan, ở nhà, ở nơi liên kết…) (Phạm Thị Thu Hồng, 1999).
2.1.3 Vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa
2.1.3.1 Thực trạng đội ngũ trí thức nước ta
Do hoàn cảnh lịch sử và truyền thống dân tộc, đội ngũ trí thức nước ta có
quá trình lịch sử hình thành và phát triển gắn liền với truyền thống dựng nước và
giữ nước, truyền thống hiếu học của cả dân tộc. Trong suốt 10 thế kỷ (1075 –
1919), qua các kỳ thi do chiều đình phong kiến tổ chức, đã chọn được 2.898 hiền
tài cho đất nước. Họ là những nông dân, sĩ phu…đại diện cho tinh hoa, trí tuệ và
văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Từ trong kháng chiến chống pháp, nhất là trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đặc biệt là sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước
thống nhất, đội ngũ trí thức nước ta hình thành và ngày càng phát triển về số
lượng và chất lượng. Đội ngũ này đã kế tiếp một cách xứng đáng truyền thống vẻ

vang của cha ông trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước và đang vững
bước đi lên, đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Đúng như nhận
định của nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Đỗ Mười: “Trí thức Việt
Nam giàu lòng yêu nước, gắn bó với nhân dân, chịu đựng gian khổ, hy sinh, đã
góp phần sứng đáng, cùng toàn dân giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh
lâu dài vì độc lập dân tộc, vì tự do hạnh phúc của nhân dân. Trải qua rèn luyện
đội ngũ trí thức đã trưởng thành nhanh chóng, phát triển cả về số lượng và chất
lượng, trở thành một lực lượng quan trọng trong công cuộc đổi mới, trong sự
nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay (Hồ Chí Minh, 1996).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 11


Đến hết năm 2013, số lượng đội ngũ trí thức đã tăng lên đáng kể. Cả nước
có khoảng 930.000 trí thức (có trình độ đại học hoạc cao đẳng trở lên). Đây là lực
lượng khá đông đảo và là nguồn trí tuệ quan trọng cho bước phát triển mới của
đất nước. Số lượng này hằng năm còn tăng, nhưng so với yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thì vẫn còn ít và nhiều bất cập (Phạm Tất Đồng, 2014).
Trí thức nói chung, trí thức trình độ cao nói riêng, có sự phân bố không
đều giữa các ngành khoa học. Trí thức các ngành khoa học kĩ thuật số lượng khá
đông; trong khi đó, trí thức các ngành khoa học công nghệ cao, khoa học quản lý,
khoa học xã hội và nhân văn vẫn thiếu và còn nhiều hạn chế. Ta chưa có những
nhà khoa học giỏi về quản lý, tài chính, ngân hàng…Đặc biệt còn thiếu nhiều cán
bộ am hiểu kĩ thuật công nghệ cao, cán bộ nhiên cứu lý luận; chưa có những nhà
khoa học tầm cỡ có khả năng chủ trì các công trình khoa học lớn để lý giải một
cách thuyết phục những vấn đề cơ bản của thời đại và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Nhiều ngành khoa học, trí thức còn quá ít.
Xét về cơ cấu độ tuổi, đang diễn ra tình trạng “lão hóa” đội ngũ và sự hụt

hẫng giữa các thế hệ. Độ tuổi trung bình của các cán bộ khoa học trong các viện
nghiên cứu là 45 – 46; lứa tuổi trên 45 chiếm tới 65 – 70%. Cán bộ khoa học
trình độ cao tỉ lệ này còn cao hơn. Theo tài liệu của Hội đồng phong học hàm
Nhà nước, giáo sư và phó giáo sư được phong năm 1991 – 1992, tính tuổi đến
năm 1995, có tỷ lệ là: Giáo sư: từ 40 – 50 tuổi: 3,87%; từ 51 – 61 tuổi: 52,96%;
từ 61 – 70 tuổi:40,56%; trên 70 tuổi: 2,58%; phó giáo sư: từ 40 - 50 tuổi:
17,31%; từ 51 đến 60 tuổi: 65,63%; từ 61 – 70 tuổi: 16,65%; trên 70 tuổi chiếm
0,19999% (Cục Thống kê, 2013).
Nhìn chung, đa số cán bộ nghiên cứu đều đã lớn tuổi. Lực lượng trẻ để bổ
xung còn thiếu và rất chậm, trong thời gian ngắn khó có thể khắc phục được. Mặt
khác, ở các viện nghiên cứu, các trường đại học không hấp dẫn đối với các cán
bộ khoa học có năng lực, nhất là lớp trẻ. Tình trạng này, trong vòng năm, mười
năm tới sự thiếu hụt sẽ rất lớn. Cần phải có những biện pháp tích cực để khắc
phục sớm.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 12


Sự phân bố trí thức giữa các vùng, các khu vực chưa hợp lý. Trí thức tập
trung nhiều ở các thành phố, tỉnh lỵ. Trong khi đó, ở các vùng cao, vùng sâu,
vùng xa, vùng kinh tế lớn…trí thức còn rất thiếu. Trí thức dân tộc thiểu số chiếm
tỷ lệ quá nhỏ, chỉ khoảng 2,5% trong tổng số người có trình độ ĐH, CĐ. Nước ta
có 54 dân tộc anh em thì đã có 53 dân tộc ít người, chiếm tỉ lệ 13% dân cư và ¾
diện tích cả nước. Đây là khu vực có tiềm năng kinh tế lớn, có tầm quan trọng
đặc biệt bảo vệ an ninh quốc phòng của cả nước. Với số lượng trí thức ít ỏi như
hiện nay thì phát triển kinh tế ở vùng dân tộc để theo kịp các khu vực khác quả là
rất khó khăn (Cục Thống kê, 2013).
Nữ trí thức cũng có ít so với tổng số các trí thức đã được đào tạo. Trong

tổng số những người có trình độ ĐH, CĐ nữ chiếm 38%, trong tổng số những
người có trình độ trên ĐH, nữ chiếm 15%. Trí thức là nữ hoạt động đông nhất
ở các ngành giáo dục, y tế, văn nghệ. Đã có nhiều nhà khoa học nữ đóng gớp
lớn trong khoa học, nhiều người đã làm tốt công tác lãnh đạo, trủ trì các công
trình khoa học cấp nhà nước. Tuy nhiên, trong hoạt động khoa học, nữ trí thức
nước ta còn gặp nhiều khó khăn từ gia đình và xã hội. Nữ trí thức có trình độ
cao vẫn còn ít và chưa có những chuyên gia giỏi có khả năng đảm đương
những dự án, những công trình nghiên cứu khoa học lớn trong nước cũng như
quốc tế (Cục Thống kê, 2013).
Phần lớn trí thức nước ta có tâm huyết với Đảng, với nhân dân, mong
muốn đem tài năng của mình phục vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Ngày nay, trí thức và lao động trí tuệ của họ biến đổi theo chiều hướng tích cự.
Họ năng động, sáng tạo, thực tế và hiệu quả hơn. Tuy vậy, trong xu thế phát triển
của thời đại, với chính sách mở rộng giao lưu quốc tế của Đảng, một số trí thức
biểu hiện sự hụt hẫng của về kiến thức và năng lực thực hành do được đào tạo từ
chuyên ngành hẹp, thiếu trình độ kiến thức chung, còn yếu về ngoài ngữ, tin học.
Nhiều trí thức thiếu kiến thức sâu về khoa học và công nghệ hiện đại vì chưa có
điều kiện tiếp cận với những thành tựu khoa học mới (Nguyễn Thế Hiển, 2009).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 13


Trí thức nước ta đang có nhiều hướng phát triển nhanh. Hiện nay đã có
trên 120 trường ĐH, CĐ và 300 viện nghiên cứu khoa học. Đó là nơi đào tạo
nguồn trí thức chủ yếu cho đất nước. Hàng năm chúng ta còn gửi đi đào tạo ở
nước ngoài hàng ngàn lưu học sinh và hàng trăm học sinh du học nước ngoài tự
túc. Riêng các trường ĐH trong nước mỗi năm đã cho ra trường hàng chục nghìn
sinh viên. Số này chủ yếu bổ xung vào đội ngũ trí thức nước nhà, tuy nhiên vẫn

còn có sự bất cập trong quy hoạch đào tạo, dẫn đến nhiều ngành khoa học hằng
năm không có đủ lực lượng trí thức bổ xung thường xuyên; cơ cấu đào tạo cũng
đang có sự biến động, đa dạng, phức tạp. Ngoài các trường ĐH công lập, đã hình
thành nhiều trường dân lập. Các trường này đang đi vào hướng đào tạo nghề đáp
ứng nhu cầu thị trường (Phạm Tất Đồng, 2014).
Nhìn chung, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước, đội
ngũ trí thức nước ta còn nhiều bất cập, cả về số lượng, cơ cấu ngành nghề và trình
độ. Cho nên, đội ngũ trí thức nước ta chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình
trong sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, trong những năm qua Đảng đã có thêm nhiều
chính sách nhằm phát huy vai trò to lớn của trí thức nước ta. Coi trọng và tin tưởng
vào trí thức “đó là quan điểm nhất quán trước sau như một của Đảng ta”.
2.1.3.2 Vai trò của trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội
Trong mọi thời kỳ lịch sử phát triển của thế giới cũng như của nước ta, đội
ngũ trí thức luôn là lực lượng quyết định trong sáng tạo, truyền bá tri thức, có vai
trò vô cùng to lớn trong việc sáng tạo ra những giá trị tinh thần cũng như vật chất
của nhân loại (Ban Chấp hành Trung Ương, 2008).
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã đánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự tiến bộ của xã hội,
đặc biệt đánh giá rất cao vai trò của trí thức trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về trí thức, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, V.I.Lênin hiểu rõ tầm quan trọng của tri

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 14


thức, trí tuệ và hết sức coi trọng vai trò của trí thức, ông cho rằng trí thức chính là
“niềm tự hào vĩ đại của nhân loại” và khẳng định: “Không có sự chỉ đạo của các

chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không
thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến
có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn
năng suất của chủ nghĩa tư bản đã đạt được” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995).
Đối với nước ta, từ xa xưa cha ông ta đã từng trân trọng và đánh giá cao
vai trò của trí thức. Tư tưởng về hiền tài và chiêu hiền đãi sĩ được hình thành rất
sớm. Việc dùng người hiền tài được coi là một công việc hệ trọng, thiêng liêng,
vì quyền lợi tối cao của đất nước. Tiến sĩ Thân Nhân Trung Danh nhân văn hóa
thế kỷ XV đã viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế
nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế
các bậc đế vương, thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài,
kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.
Trong thời kỳ hiện đại, khi nói về vai trò của trí thức đối với cách mạng
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: "Trí thức là vốn liếng quý
báu của dân tộc, ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là
trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung
một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy
sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội, nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt
động giúp đỡ ở ngoài" (Hồ Chí Minh, 1995). Người nhấn mạnh: "Những người
trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không
có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều" (Hồ Chí
Minh, 1995).
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong suốt tiến trình cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã sớm nhận thức
được vị trí, vai trò của trí thức và phát huy được một cách tích cực vai trò của họ
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong
thời kỳ đấu tranh giành độc lập và kháng chiến kiến quốc, không ai khác, chính

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page 15


×