Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

LUẬN VĂN HÀM NGÔN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 173 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
___________________

Nguyễn Thị Tú Anh

HÀM NGÔN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
___________________

Nguyễn Thị Tú Anh

HÀM NGÔN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số

: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS TRỊNH SÂM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cám ơn đến phòng Sau Đại học, quý thầy cô trong tổ
Ngôn ngữ, khoa Ngữ Văn, những người thầy đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong
thời gian qua và cung cấp cho tôi nhiều kiến thức quý báu giúp tôi có nền tảng
kiến thức để thực hiện luận văn này.
Tôi muốn gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy hướng dẫn PGS.TS. Trịnh Sâm
vì sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của thầy trong suốt quá trình tôi tiến
hành nghiên cứu.
Tôi cũng xin cảm ơn Ban Giám hiệu Trường PTTH Phan Huy Ích đã tạo
điều kiện cho tôi trong suốt khóa học.
Lời cám ơn cuối cùng, tôi xin gửi đến gia đình, bạn bè,… nguồn động
viên, chỗ dựa tinh thần đã giúp tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin gửi đến tất cả lời cám ơn chân thành.
TP. Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 9 năm 2012.
Người viết luận văn

Nguyễn Thị Tú Anh
Lớp Cao học Ngôn ngữ học khoá 21


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn ...................................................................12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................13
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................13
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................14
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................15
1.1. Hàm ngôn và các thuật ngữ hữu quan ............................................................15
1.1.1. Hàm ngôn và hiển ngôn............................................................................15
1.1.2. Hàm ngôn và tiền giả định .......................................................................23
1.1.3. Hàm ngôn và suy ý ...................................................................................28
1.2. Phân loại hàm ngôn và các cơ chế tạo hàm ngôn ...........................................28
1.2.1. Phân loại hàm ngôn ..................................................................................28
1.2.2. Cơ chế tạo hàm ngôn ................................................................................33
1.3. Đặc trưng văn hóa – tâm lý – xã hội và việc tạo hàm ngôn ...........................37
1.3.1. Đặc trưng văn hóa gốc nông nghiệp .........................................................38
1.3.2. Đặc trưng sông nước ................................................................................39
1.4. Mục đích dùng hàm ngôn ...............................................................................41
1.4.1. Tăng sức hấp dẫn thuyết phục cho lời nói................................................42
1.4.2. Khiêm tốn, lịch sự ....................................................................................42
1.4.3. Không muốn trực tiếp làm mất thể diện người nghe ...............................43
1.4.4. Châm biếm ...............................................................................................43
1.4.5. Không chịu trách nhiệm trực tiếp về hành động ngôn từ .........................44


1.4.6. “Ít lời nhiều ý” ..........................................................................................45
1.5.Truyện ngắn và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ............................................46
1.5.1. Truyện ngắn ..............................................................................................46
1.5.2. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ..............................................................47

1.6. Tiểu kết ...........................................................................................................50
Chương 2. MỘT SỐ CƠ CHẾ TẠO HÀM NGÔN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP ..........................................................................................51
2.1. Cơ sở nhận diện hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ................51
2.2. Cơ chế tạo hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .........................52
2.2.1. Dùng thực từ .............................................................................................53
2.2.2. Dùng hư từ ................................................................................................54
2.2.3. Dùng tiền giả định ....................................................................................65
2.2.4. Vi phạm quy tắc chiếu vật và chỉ xuất .....................................................68
2.2.5. Vi phạm quy tắc lập luận ..........................................................................72
2.2.6. Vi phạm phương châm hội thoại ..............................................................74
2.2.7. Sử dụng hành động ngôn ngữ gián tiếp ....................................................78
2.2.8. Dùng câu chất vấn ....................................................................................79
2.2.9. Dùng từ ngữ không tương thích ...............................................................80
2.2.10. Dùng từ sai lệch ngữ nghĩa .....................................................................82
2.2.11. Dùng thành ngữ, tục ngữ ........................................................................84
2.2.12. Dùng từ đồng âm ....................................................................................86
2.2.13. So sánh ...................................................................................................87
2.2.14. Nói giảm, nói tránh .................................................................................89
2.3.Tiểu kết ............................................................................................................91
Chương 3. CHỨC NĂNG VÀ TÁC DỤNG CỦA

HÀM NGÔN TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP ..........................................................92
3.1. Chức năng hàm ngôn ......................................................................................92
3.1.1. Mỉa mai.....................................................................................................93
3.1.2. Khuyên .....................................................................................................94



3.1.3. Cấm đoán ..................................................................................................95
3.1.4. Phản đối ....................................................................................................95
3.1.5. Trách móc .................................................................................................96
3.1.6. Gợi ý .........................................................................................................97
3.1.7. Nịnh bợ .....................................................................................................98
3.1.8. Chửi ..........................................................................................................99
3.1.9. Hối hận ...................................................................................................101
3.1.10. Né tránh ................................................................................................102
3.2. Tác dụng của hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ..................105
3.2.1. Thể hiện tư tưởng của nhà văn ...............................................................105
3.2.2. Thể hiện những vấn nạn xã hội ..............................................................107
3.2.3. Lời cảnh tỉnh con người từ mặt trái xã hội .............................................108
3.3. Nhận xét về hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .....................109
3.3.1. Hàm ngôn trong lời kể ............................................................................110
3.3.2. Hàm ngôn trong lời thoại .......................................................................115
3.3.3. Hàm ngôn trong tiêu đề ..........................................................................117
3.4. Nhận xét khái quát phong cách Nguyễn Huy Thiệp qua việc sử dụng
hàm ngôn ......................................................................................................120
3.4.1. Ngôn ngữ ngắn gọn, cô đúc....................................................................120
3.4.2. Giọng điệu lạnh lùng ..............................................................................120
3.5. Tiểu kết .........................................................................................................122
KẾT LUẬN ............................................................................................................123
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................125
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1.

Mô hình cấu trúc nghĩa của câu theo Hoàng Xuân Tâm Nguyễn Văn Bằng - Bùi Tất Tươm - Cao Xuân Hạo (1998) ......................... 18


Bảng 1.2.

Lược đồ về sự lưỡng phân của Oswald Ducrot ............................................. 19

Bảng 1.3.

Sơ đồ quan hệ giữa các “Nghĩa đầy đủ của một phát ngôn”
theo Nguyễn Đức Dân .................................................................................... 19

Bảng 1.4.

Sơ đồ tổng quát các kiểu nghĩa hàm ẩn của Đỗ Hữu Châu ............................ 20

Bảng 1.5.

Sơ đồ phân loại tổng quát nghĩa của câu theo Nguyễn Thiện Giáp ............... 22

Bảng 1.6.

Sơ đồ khái quát nghĩa của lời của Hoàng Phê ................................................ 24

Bảng 1.7.

Sơ đồ tổng quát về nghĩa hiển ngôn và hàm ẩn theo Cao Xuân Hạo ............. 26

Bảng 2.1.

Thống kê các cơ chế tạo hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ... 53


Bảng 3.1.

Chức năng hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp......................... 92

Biểu đồ 2.1. Cơ chế tạo hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ......................... 90
Biểu đồ 3.1. Chức năng hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ....................... 105


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc sống vô cùng phong phú, đa dạng và hết sức phức tạp, không phải lúc
nào chúng ta cũng có thể “nói thẳng”, “nói trắng”, “nói toạc móng heo”… những
suy nghĩ của mình. Vì vậy, nói thế nào để diễn đạt được nội dung muốn nói mà
không làm người nghe phật lòng, nói thế nào để không đụng chạm đến người khác,
tức là nói thế nào để đạt hiệu quả cao nhất, quả nhiên, không phải là một vấn đề đơn
giản. Do đó, để tránh cách nói thẳng vào sự thật, chúng ta thường thực hiện hành vi
giao tiếp hàm ẩn của mình thông qua lối nói gián tiếp. Cách nói này được gọi là
hàm ngôn. Do không được nói ra trực tiếp nên để nhận ra và hiểu đúng hàm ý của
người nói/người viết, người nghe/người đọc cần phải suy luận. Vì vậy, biết sử dụng
hàm ngôn đúng nơi, đúng lúc sẽ có tác dụng làm tăng tính hấp dẫn, thuyết phục cho
lời nói và cho văn bản. Bên cạnh đó, bằng cách nào lí giải được hàm ngôn của
người nói/người viết sẽ giúp chúng ta hiểu được sâu sắc vấn đề và giúp giao tiếp
thành công.
Hàm ngôn được thể hiện rất nhiều trong lời ăn tiếng nói hàng ngày và đặc
biệt trong văn chương nghệ thuật. Các nhà văn thường thể hiện những điều muốn
nói trong tác phẩm của mình với kiểu “ít lời nhiều ý”. Muốn hiểu, muốn nắm bắt
được những hàm ngôn phức tạp, sâu sắc trong tác phẩm văn học nghệ thuật hiển
nhiên phải có sự hiểu biết về ngôn ngữ và rèn luyện tư duy nghệ thuật. Xa hơn,

muốn hiểu được ngôn ngữ phải đặt nó vào trong tác phẩm văn học, trong lời ăn
tiếng nói hàng ngày. Hai vấn đề này đi đôi với nhau, gắn chặt nhau.Một nhà văn
thành công là ở chỗ biết cách sử dụng ngôn ngữ “nói ít” nhưng chứa đựng nhiều ý
nghĩa tức là cách thể hiện ý hàm ngôn, ngầm ẩn, nói mà như không nói.
Trong quá trình tìm hiểu về hàm ngôn và tác phẩm, chúng tôi nhận thấy nhà
văn Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn đã thể hiện được những điều
ngầm ẩn như thế trong tác phẩm của mình. Truyện ngắn của ông sử dụng rất nhiều
yếu tố hàm ngôn, chính với lối viết “bóng gió”, “tá cổ luận kim” (mượn xưa để nói
nay) mà văn chương của ông có sức hàm chứa rất lớn. Có thể nói, trong nền văn học


2

Việt Nam từ xưa đến nay, ít có nhà văn nào vừa mới xuất hiện đã được dư luận
trong và ngoài nước quan tâm như Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn của ông
thường đề cập đến nhiều mặt trái của xã hội hiện đại, đặc biệt là những vấn đề về
đạo đức. Tác phẩm của ông đã gây ra những phản ứng trái ngược trong giới phê
bình văn học cũng như độc giả. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì văn chương của
Nguyễn Huy Thiệp có nhiều cách hiểu, nhiều cách cảm nhận. Và đặc biệt hơn,
truyện của ông rất khó lí giải, nếu chỉ đọc qua chắc chắn sẽ không thể nhận ra ông
định nói gì, thế nhưng càng đọc kỹ càng phát hiện thấy nhiều điều mới mẻ, hấp dẫn
và hàm ý sâu xa. Có được sự thành công như vậy là vì Nguyễn Huy Thiệp rất có tài
trong việc sử dụng ngôn từ. Có thể ghi nhận với tác phẩm của ông, bề mặt ngôn ngữ
thì có vẻ dễ hiểu, rõ ràng nhưng lại ẩn chứa rất nhiều vấn đề ở bề sâu. Nghiên cứu
về hàm ngôn trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp sẽ giúp chúng ta có cách
tiếp cận chính xác hơn về tác phẩm của ông nói riêng và tác phẩm văn chương nói
chung.
Hơn nữa, tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp ra đời trong bối cảnh đất nước
vừa trải qua một thời kỳ dài sống trong khói lửa chiến tranh, đất nước vừa thống
nhất, xã hội vừa bước vào giai đoạn đổi mới. Việc nói thẳng vào những vấn đề hiện

thực, đặc biệt là về thế thái nhân tình quả thực không đơn giản một chút nào. Trong
khi, mọi người đang e dè không dám nhìn thẳng, nói thẳng vào hiện thực, thì với
cách nói hàm ngôn này đã giúp Nguyễn Huy Thiệp chuyển tải được rất nhiều vấn đề
gai góc trong cuộc sống.
Mặc dù không xuất hiện trên bề mặt câu chữ nhưng nghĩa hàm ngôn nhiều
khi đóng vai trò rất quan trọng, nếu chưa hiểu được nghĩa hàm ngôn của một câu
nói thì coi như chưa hiểu được câu nói đó. Vì vậy, việc tìm hiểu về hàm ngôn trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp sẽ giúp chúng ta hiểu được những tầng nghĩa khác
nhau trong tác phẩm của ông một cách sâu sắc.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn tìm hiểu về hàm ngôn trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu. Chúng tôi nhận thấy đây là
vấn đề lý thú nhưng cũng là vấn đề rất phức tạp và trải dài trên nhiều bình diện,


3

nhiều chuyên ngành khác nhau. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi
không có tham vọng lý giải tất cả các chức năng hàm ngôn và cơ chế tạo hàm ngôn
mà chỉ đi vào tìm hiểu những chức năng và cơ chế tạo hàm ngôn phổ biến nhất
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
2. Lịch sử vấn đề
2.1.Hàm ngôn
Khái niệm hàm ngôn ban đầu được nêu ra trong triết học, sau đó là trong
ngôn ngữ học. Và nó là lĩnh vực của những thông tin ngầm ẩn, có nhiều hướng
nghiên cứu về lĩnh vực này như: ngữ nghĩa học, logic học, ngữ dụng học.
Có thể nói Oswald Ducrot và Paul Grice là những người đầu tiên khám phá
ra vấn đề hàm ngôn trong ngôn ngữ.
Hàm ngôn theo hướng dụng học của Paul Grice (1967) về cơ bản dựa trên
hai căn cứ là ý nghĩa của người nói và nguyên tắc cộng tác. Công lao lớn nhất của
Paul Grice là đã đưa ra “Nguyên tắc cộng tác hội thoại” và phân loại ý nghĩa hàm

ẩn. “Nguyên tắc cộng tác hội thoại” có nghĩa là khi tham gia hội thoại chúng ta có
những quy định chung mà ai cũng phải tuân thủ. Còn ý nghĩa thông báo của người
nói được hiểu là ý định hay nội dung giao tiếp mà người nói muốn chuyển tải qua
phát ngôn. Và đặc biệt, tác giả đã chi tiết hóa nguyên tắc cộng tác thành bốn nguyên
tắc bậc dưới gọi là phương châm như: lượng, chất, quan hệ, cách thức và đã phân
chia ý nghĩa hàm ẩn thành hai loại là: hàm ẩn quy ước (hàm ẩn từ vựng) và hàm ẩn
hội thoại. Và cũng theo Paul Grice, ý nghĩa hàm ẩn thuộc đối tượng nghiên cứu của
ngôn ngữ học chỉ là những ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên (non – natural meaning)
tức là ý nghĩa hàm ẩn phải nằm trong ý định của người nói và những ý định đó phải
được người nghe nhận biết. Còn những ý nghĩa không nằm trong ý định của người
nói được Paul Grice cho là ý nghĩa tự nhiên (natural meaning) và không được tác
giả cho là ý nghĩa hàm ẩn. Nhưng trong thực tế giao tiếp, chúng ta rất khó để nhận
biết được đâu là hàm ẩn do cố ý hay không cố ý của người nói. Vì vậy, cách phân
biệt ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên và ý nghĩa hàm ẩn tự nhiên như trên của Paul
Grice rất khó để nhận diện ý nghĩa hàm ngôn. Nhưng với “Nguyên tắc cộng tác hội


4

thoại” mà tác giả đưa ra có tác dụng rất lớn cho việc nghiên cứu về hàm ngôn trong
ngôn ngữ theo hướng dụng học. Đó là những cơ sở đầu tiên tạo tiền đề quan trọng
cho các nhà ngôn ngữ đi sâu nghiên cứu vấn đề này sau đó, đúng như nhận xét của
Đỗ Hữu Châu: “Dựa vào nguyên tắc cộng tác hội thoại của mình mà Grice đã vạch
ra những nét đầu tiên cho lý thuyết về ý nghĩa hàm ẩn. Những nét đầu tiên nhưng vô
cùng quan trọng. Đến nay, bất kỳ tác giả nào nói đến ý nghĩa hàm ẩn đều không thể
không nói đến Grice”. [11b, tr.381]
Oswald Ducrot (1972) - một nhà ngôn ngữ học hiện đại, người có nhiều công
trình liên quan đến vấn đề hiển ngôn, hàm ngôn đã cho rằng nghĩa phát ngôn có
hiển ngôn (explicite) và hàm ngôn (implicite).Theo ông, hàm ngôn có tiền giả định
(presupposition) và ẩn ý (sous – entendu).

Nhìn chung, cả Oswald Ducrot và Paul Grice đều nhấn mạnh quan hệ mật
thiết giữa hiển ngôn với hàm ngôn.
Tiếp thu những quan niệm đi trước về hàm ngôn, John Lyons (1994) cho ra
đời công trình “Ngữ nghĩa học dẫn luận”. Cũng đồng ý với quan niệm của Paul
Grice khi bàn về hàm ngôn, tác giả chia hàm ngôn thành hai loại: hàm ngôn quy ước
và hàm ngôn hội thoại. Nhưng ở phần hàm ngôn quy ước, ông đã mở rộng thêm
một số trường hợp so với quan niệm của Paul Grice. Thứ nhất, John Lyons cho rằng
sự phân biệt giữa cái nói ra và cái được hàm ý theo quy ước không phải bao giờ
cũng rõ ràng. Quan trọng hơn, nó cho thấy cách thức mà các phương tiện từ vựng và
ngữ pháp của một ngôn ngữ cụ thể có thể được điều chỉnh và khai thác để mệnh đề
hóa những gì về bản chất không thuộc mệnh đề [55, tr.285]. Thứ hai, ngoài ví dụ
therefore về hàm ngôn quy ước như của Paul Grice, ông còn bổ sung thêm một số
trường hợp như liên từ however, moreover, nevertheless, yet… và một số tiểu từ
tình thái như even, well, hoặc just… Bên cạnh đó, tác giả còn cho rằng có nhiều hơn
những phương tiện từ vựng và ngữ pháp so với những gì mà Paul Grice cho là hàm
ngôn quy ước có thể được người nói dùng để ngầm biểu hiện một cách quy ước một
điều gì đấy vượt ra ngoài và đằng sau điều họ nói ra trên thực tế [55, tr.287]. Thứ
ba, theo John Lyons những khác biệt về xã hội và nghĩa hiển lộ trong số những biểu


5

thức đồng nghĩa về nghĩa miêu tả cũng có thể được xếp vào phạm vi của hàm ngôn
quy ước [55, tr.287]. Về hàm ngôn hội thoại, ông cho rằng bốn tiểu nguyên lí của
Paul Grice có thể được điều chỉnh và giảm bớt về số lượng tùy theo ngữ cảnh, văn
hóa – xã hội của từng dân tộc.
Như vậy, có thể thấy rằng với những đánh giá và bổ sung của John Lyons về
hàm ngôn quy ước và hàm ngôn hội thoại ở các trường hợp trên đã mở rộng thêm
phạm vi nghiên cứu về hàm ngôn trong ngôn ngữ.
Năm (1996), George Yule cho ra đời công trình “Dụng học - Một số dẫn

luận Nghiên cứu Ngôn ngữ.” Trong công trình này, tác giả cũng dựa trên nền tảng
nguyên tắc cộng tác của Paul Grice và cho rằng: “hàm ý là hiện tượng cái được
thông báo nhiều hơn cái được nói ra” và “để hiểu được hàm ý thì phải thừa nhận
có một nguyên tắc cộng tác cơ bản nào đó đang được hoạt động.” [32, tr.76] Cũng
như Paul Grice và John Lyons, tác giả chia hàm ý thành hai loại là hàm ý hội thoại
và hàm ý quy ước. Trong hàm ý hội thoại có hàm ý hội thoại dùng chung và hàm ý
hội thoại dùng riêng. Điểm mới của George Yule là đã chỉ ra được đặc tính của hàm
ý hội thoại là “có thể giải đoán được, cản ngăn được, hủy được và tăng cường
được”[32, tr.92]. Còn hàm ý quy ước lại không đặt cơ sở trên nguyên tắc cộng tác
hoặc các phương châm như hàm ý hội thoại. Theo George Yule, hàm ý quy ước
không thể xuất hiện trong hội thoại và chúng cũng không lệ thuộc vào các ngữ cảnh
riêng biệt khi cần giải thích chúng. Tác giả quan niệm khái niệm ‘hàm ý’ là một
trong những khái niệm trung tâm của dụng học. Một hàm ý chắc chắn là một ví dụ
nghiêm chỉnh cho hiện tượng cái được thông báo là nhiều hơn cái được nói ra [32,
tr.94].
Ở Việt Nam, vấn đề hàm ngôn bắt đầu được nghiên cứu khoảng những năm
80 của thế kỷ XX. Nhiều nhà Việt ngữ tiêu biểu như Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu, Hồ
Lê, Cao Xuân Hạo,… đã giới thiệu các lý thuyết của Oswald Ducrot, Paul Grice và
đã có những đóng góp trên địa hạt này. Các tác giả đã vạch ra mối quan hệ, cơ chế
hình thành hàm ngôn trên cứ liệu tiếng Việt.


6

Có thể nói, ở Việt Nam, Hoàng Phê là người đi tiên phong nghiên cứu về vấn
đề hàm ngôn theo hướng ngữ nghĩa với các bài “Ngữ nghĩa của lời” (1981), “Tiền
giả định và hàm ý tiềm tàng trong ngữ nghĩa của từ” (1982), và “Ý nghĩa hàm ngôn
trong lời nói” (1988). Theo tác giả, chính sự thống nhất giữa nghĩa và ý làm thành
toàn bộ ý nghĩa của lời hoặc phát ngôn. Bên cạnh đó, ông còn chỉ ra nghĩa gồm có
nghĩa chính thức và hàm nghĩa, còn ý thì có ý chính thức và hàm ý nhưng giữa các

yếu tố này không nhất thiết có sự tương ứng. Không đồng nhất với khái niệm
implicature (hàm ngôn – cách dịch của Hoàng Phê), implicate (suy ý – cách dịch
của Hoàng Phê) của Paul Grice, tác giả cho rằng có thể dựa vào sự khác nhau của
suy ý để phân ra hàm ngôn có hai lớp khác nhau là hàm ý và ngụ ý. Hàm ý là phần
nội dung hàm ngôn có thể suy ý trực tiếp và không khó khăn, vì không hoặc ít phụ
thuộc vào ngữ huống, độ tin cậy của suy ý vì thế tương đối cao; còn ngụ ý là nội
dung hàm ngôn thường phụ thuộc nhiều vào ngữ huống và phải suy ý gián tiếp, độ
tin cậy của suy ý không cao [75, tr.51]. Tóm lại, theo Hoàng Phê cấu trúc ngữ nghĩa
của lời là một cấu trúc gồm nhiều tầng như: tiền giả định, hiển ngôn, hàm ngôn;
trong hàm ngôn có hàm ý và ngụ ý (ẩn ý). Ngụ ý nằm ở lớp sâu nhất trong cấu trúc
ngữ nghĩa của lời và phụ thuộc ngữ huống, còn hàm ý cùng với hiển ngôn và tiền
giả định thì không phụ thuộc vào ngữ huống. Như vậy, theo tác giả, có nghĩa là hàm
ý không phải là hàm ngôn mà hàm ý nằm trong hàm ngôn, còn hàm ngôn thì bao
hàm cả hàm ý và ngụ ý. Ngụ ý mới chính là cái có ẩn ý; ngược lại, hàm ngôn và
hàm hàm ý thì có hoặc không tuỳ theo ngữ huống.
Cũng tìm hiểu hàm ngôn theo hướng ngữ nghĩa học như Hoàng Phê, Hồ Lê
(1996) đã đề cập đến vấn đề ý nghĩa hiển hiện và ý nghĩa hàm ẩn trong phát ngôn ở
công trình “Quy luật ngôn ngữ - quyển 2: Tính quy luật của cơ chế ngôn giao”. Tác
giả đã phân ý nghĩa hàm ẩn thành bốn loại là ý nghĩa hàm ẩn ngữ huống, ý nghĩa
hàm ẩn ngôn từ, ý nghĩa hàm ẩn tự do và ý nghĩa hàm ẩn dự cảm. Ngoài ra, ý nghĩa
hàm ẩn được ông phân tích ra thành hàm nghĩa và hàm ý. Bên cạnh đó, tác giả đã
nêu lên những phương thức tổng quát về các phương thức hiển ngôn và phương
thức hàm ngôn.[60, tr.58]


7

Theo hướng của Paul Grice, nhưng nhìn nhận một cách tổng quát và đi sâu
cụ thể về hàm ngôn quy ước và hàm ngôn hội thoại trong tiếng Việt, phải kể đến Đỗ
Hữu Châu (1993) với “Đại cương ngôn ngữ học”. Trong công trình này, ở chương

“Dụng học”, tác giả đã dựa trên “ý nghĩa không tự nhiên” của Paul Grice để đi sâu
nghiên cứu những vấn đề như: phân loại các ý nghĩa hàm ẩn, các phương thức thực
hiện ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn; bản chất các cơ chế suy ý đi từ ý nghĩa
tường minh đến ý nghĩa hàm ẩn. Dựa vào bản chất, Đỗ Hữu Châu là người đầu tiên
đã phân ra ý nghĩa hàm ẩn gồm có hàm ngôn và tiền giả định. Hàm ngôn thì có hàm
ngôn nghĩa học và hàm ngôn ngữ dụng học còn trong tiền giả định thì có tiền giả
định nghĩa học và tiền giả định ngữ dụng học. Dựa vào chức năng của ý nghĩa hàm
ẩn trong diễn ngôn, tác giả phân ý nghĩa hàm ẩn thành ý nghĩa hàm ẩn tự nhiên và ý
nghĩa hàm ẩn không tự nhiên như Paul Grice. Một điểm mới đặc biệt đáng quan tâm
trong quan niệm của Đỗ Hữu Châu so với quan điểm của Paul Grice về ý nghĩa hàm
ẩn là ở chỗ: theo quan điểm của Paul Grice không chấp nhận các ý nghĩa hàm ẩn vô
tình, ngẫu nhiên, không nằm trong ý định của người nói và loại bỏ những trường
hợp “hàm ẩn” do sự rút gọn chủ ngữ, vị ngữ trong phát ngôn mà có. Đối với Đỗ
Hữu Châu, tất cả những trường hợp này cũng là ý nghĩa hàm ẩn. Tác giả còn cho
rằng để tạo ra nghĩa hàm ẩn ngữ dụng cho phát ngôn phải dựa vào các quy tắc, cơ
chế ngữ dụng học như: chiếu vật và chỉ xuất, các hành vi ngôn ngữ, lí thuyết lập
luận, lí thuyết hội thoại; còn cơ sở để tạo ra các nghĩa hàm ẩn ngữ nghĩa phải dựa
vào các topos (lẽ thường). Vì vậy, để có thể giải thích được các nghĩa hàm ẩn thì
phải hiểu được những quy tắc và cơ chế trên. Trên cơ sở những phân tích về ý nghĩa
hàm ẩn, hàm ngôn và tiền giả định, tác giả đi sâu phân tích quan hệ giữa tiền giả
định và hàm ngôn rồi tiến hành phân loại hàm ngôn và tiền giả định. Về mối quan
hệ giữa tiền giả định với hàm ngôn, tác giả quan niệm cả hai đều nằm trong một
phạm trù là phạm trù hàm ẩn. Quan niệm này được nhiều người đồng tình
nhất.Trongluận văn, người viết sẽ theo quan niệm này và xem việc vi phạm những
quy tắc và cơ chế trên là những cách thức tạo hàm ngôn rất hiệu quả của chiến lược
giao tiếp.


8


Có thể nói rằng: vấn đề hàm ngôn trong tiếng Việt dưới góc độ dụng học thì
phải đến Đỗ Hữu Châu mới thực sự được nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ
thống. Những đóng góp của tác giả trong việc nghiên cứu về hàm ngôn đã giúp
người nghiên cứu có thể hình dung được bức tranh toàn cảnh về ý nghĩa hàm ẩn,
hàm ngôn, và tiền giả định một cách rõ ràng hơn.
Cao Xuân Hạo (1997) với công trình “Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ
pháp, ngữ nghĩa” đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng cho việc nghiên cứu về
hàm ngôn trong tiếng Việt. Trong công trình này, tác giả dành hẳn một phần quan
trọng để trình bày về nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ẩn trong phần ngữ nghĩa. Ông
chỉ ra rằng nghĩa hàm ẩn nhiều khi có vai trò quan trọng hơn nghĩa hiển ngôn vì nó
thông báo cho người nghe nhiều điều không có trong nghĩa nguyên văn. Cũng theo
tác giả, đặc biệt các văn bản có tính nghệ thuật (truyện, thơ) chính là nơi phát huy
nhiều tác dụng nhất của các thứ nghĩa hàm ẩn. Ông cho rằng trong một thông báo,
ngoài nghĩa hiển ngôn là cái nội dung mà nó trực tiếp nói rõ bằng từ ngữ, còn có
nghĩa hàm ẩn tức những điều thông báo cho người nghe nhưng không có trong
nghĩa nguyên văn của từ ngữ. Một điểm mới trong quan niệm của Cao Xuân Hạo
(giống Đỗ Hữu Châu) là chấp nhận các ý nghĩa hàm ẩn vô tình, ngẫu nhiên, không
nằm trong ý định của người nói đều là ẩn ý. Đây là quan điểm phù hợp bởi vì trong
giao tiếp không thể biết được hàm ngôn nào là chủ đích, hàm ngôn nào là không
chủ đích.
Ngoài ra, tác giả còn là người đầu tiên đi sâu phân tích sự thể hiện của tiền
giả định và hàm ý trong ngôn ngữ như: tiền giả định trong câu, tiền giả định trong
từ; hàm ý của từ, hàm ý của câu và của phát ngôn. Đặc biệt, ông còn miêu tả, phân
tích tỉ mỉ tiền giả định và hàm ý của một số vị từ tình thái trong tiếng Việt. Đây là
sự sáng tạo có tính đột phá và cũng chính là những đóng góp lớn cho việc nghiên
cứu về vấn đề hàm ngôn trong tiếng Việt nói riêng và hàm ngôn trong ngôn ngữ học
nói chung.
Cũng theo hướng nghiên cứu trên, Hoàng Xuân Tâm - Nguyễn Văn Bằng Bùi Tất Tươm - Cao Xuân Hạo (chủ biên) (1998) trong công trình “Ngữ pháp chức



9

năng tiếng Việt, quyển 1, Câu trong tiếng Việt” đã đề cập đến vấn đề hiển ngôn và
hàm ngôn. Các tác giả này cho rằng ngoài hiển ngôn, trong câu còn có hàm ngôn.
Hàm ngôn“là những ý nghĩa không được biểu đạt trực tiếp qua nguyên văn mà
phải suy ra từ quan hệ giữa các nghĩa trong cấu trúc và từ ngôn cảnh nguyên văn.
Nếu ý suy ra vẫn còn diễn đạt được bằng ít nhiều chữ nghĩa trong nguyên văn thì đó
là hàm nghĩa… cái ý ẩn kín đằng sau nguyên văn, không hề được diễn ra bằng lời
ấy gọi là ẩn ý” [82, tr.109 -110]. Bên cạnh đó, các tác giả còn phân biệt hiển ngôn
gồm có tiền giả định và hiển nghĩa, còn hàm ngôn thì bao gồm hàm nghĩa và ẩn ý.
Như vậy, ở công trình này có sự khác biệt trong quan niệm so với công trình trước
của Cao Xuân Hạo: Ở công trình trước (1997), Cao Xuân Hạo cho rằng ý nghĩa
hàm ẩn gồm tiền giả định và hàm ý (giống như quan niệm của Đỗ Hữu Châu),
nhưng ở công trình sau (1998), các tác giả lại quan niệm: hiển ngôn gồm tiền giả
định và hiển nghĩa.
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu trước đó của các nhà ngôn ngữ trên thế
giới và trong nước, Nguyễn Thiện Giáp (2000) trong “Dụng học Việt ngữ” cũng bàn
về vấn đề hàm ngôn và cho rằng muốn giao tiếp thành công thì phải hiểu đầy đủ cả
nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ngôn của phát ngôn. Nếu chưa hiểu nghĩa hàm ngôn
của một câu nói tức là chưa thật sự hiểu câu nói đó. Dựa trên quan điểm của George
Yule, tác giả đề cập đến những lời rào đón trong giao tiếp. Theo nhà nghiên cứu
này, chiến lược giao tiếp, phương thức tạo tiền đề và phương châm hội thoại là
những phương thức tạo hàm ngôn rất hữu hiệu.
Trên cơ sở vận dụng bộ máy khái niệm của Hồ Lê, Huỳnh Công Hiển (2000)
đã phân các yếu tố tạo ý nghĩa hàm ẩn thành hai nhóm là nhóm thuộc cơ chế nội tại
của phát ngôn và nhóm nằm ngoài cơ chế nội tại của phát ngôn qua luận văn thạc
sĩ “Các yếu tố tạo ý nghĩa hàm ẩn trong phát ngôn”. Bên cạnh đó, tác giả còn cho
rằng ý nghĩa thì có nghĩa hiển ngôn và hàm ngôn. Hiển ngôn là ý nghĩa hiển hiện,
trong ý nghĩa hiển hiện thì có hiển nghĩa (sự kiện thể hiện rõ) và hiển ý (tình thái
thể hiện rõ). Còn hàm ngôn là ý nghĩa hàm ẩn. Ý nghĩa hàm ẩn thì có hàm nghĩa (sự

kiện thể hiện ngầm) và hàm ý (tình thái thể hiện ngầm). Tóm lại, theo tác giả hệ


10

thống ý nghĩa bao gồm bốn yếu tố cơ bản là hiển nghĩa, hàm nghĩa, hiển ý và hàm
ý.
Trên đây, luận văn đã điểm qua một số công trình nghiên cứu về hàm ngôn
tiêu biểu. Từ đó có thể đưa ra khái quát như sau: ý nghĩa hàm ngôn từ trước đến nay
đã được nhiều nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước nghiên cứu kỹ lưỡng, giải quyết
khá thích đáng các vấn đề cơ bản. Tuy vẫn còn khác nhau trong cách gọi tên các
thuật ngữ (hàm ý, hàm ngôn,…) nhưng hầu hết các tác giả đều thống nhất là trong ý
nghĩa hàm ẩn có hai yếu tố: tiền giả định và hàm ngôn (hàm ý) và cũng thống nhất
về các cơ chế tạo nên các ý nghĩa hàm ngôn.
Vấn đề hàm ngôn trong tác phẩm từ trước đến nay cũng có những bài viết
liên quan. Đầu tiên có thể nói đến đó là Luận văn Thạc sĩ “Một số phương thức tạo
hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt” (2006) của Đoàn Thị Tâm. Luận văn dựa
trên lý thuyết hàm ngôn, tác giả đã phân tích và chỉ ra 33 phương thức tạo hàm ngôn
trong truyện cười tiếng Việt.
Tiếp theo là Luận án Tiến sĩ “Hàm ý hội thoại trong truyện cười dân gian
Việt Nam” (2011) của Nguyễn Hoàng Yến. Trong công trình này, tác giả đã vận
dụng lý thuyết dụng học để tìm hiểu các nguyên tắc cộng tác và phép lịch sự với
hàm ý trong truyện cười và đồng thời chỉ ra các lập luận và chỉ thị trong truyện
cười.
Bên cạnh việc điểm qua lịch sử nghiên cứu về hàm ngôn và hàm ngôn trong
tiếng Việt, thiết tưởng cũng rất cần thiết dành một tổng thuật về nghiên cứu truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
2.2.Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ khi ra đời đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu của rất nhiều tác giả. Chẳng hạn như:

“Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” do Phạm Xuân Nguyên (2001) (sưu tầm và biên
soạn), NXB Văn hóa Thông tin. Nhìn chung, những bài viết trong công trình này
được chia làm hai hướng: khen và chê. Những lời chê tiêu biểu là của Đỗ Văn
Khang, Tạ Ngọc Liễn, Nguyễn Thúy Ái, Trung Phương… còn những lời khen tiêu


11

biểu là của Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến, Vương Trí Nhàn,… Đặc biệt,
trong đó có năm bài viết của các tác giả nước ngoài đánh giá cao truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp. Các bài viết này thường đề cập đến những cách “đọc” văn
Nguyễn Huy Thiệp, còn về nội dung chưa đi sâu vào một khía cạnh nào trong
những sáng tác đó.
Hoàng Kim Oanh (2008) đã tìm hiểu về “Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp” qua Luận văn Thạc sĩ Văn học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh. Trong luận văn, tác giả đã chỉ ra những đặc trưng truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp như yếu tố thơ, người kể chuyện, nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật tạo tình
huống và yếu tố kỳ ảo.
Nguyễn Thị Thu Hà (2009) lại tìm hiểu về “Phương thức liên kết văn bản
trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp” qua Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học
Trường Đại học Khoa học và Nhân vănThành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã chỉ ra
các phương thức liên kết cơ bản trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp như phép
lặp, phép thế, phép nối và chỉ xuất.
Phạm Thị Thùy Trang (2009) với Luận văn Thạc sĩ Văn học “Người kể
chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,”của Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đã đi sâu phân tích và chỉ rõ vai trò quan trọng của người kể
chuyện (theo ngôi kể thứ nhất, ngôi kể thứ ba) trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp giúp tạo nên những đặc sắc riêng cho phong cách của ông.
Lê Thị Nguyệt Trong (2011) đã chỉ ra những tác dụng của lời văn nghệ thuật
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ dạng thức cấu trúc diễn ngôn và nhìn

từ sự tương tác và đa dạng thẩm mĩ qua Luận văn Thạc sĩ Văn học “Đặc điểm lời
văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”,Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
Điểm qua một số công trình và bài viết trên, chúng tôi thấy rằng: cho đến
nay, nhìn chung số lượng các công trình nghiên cứu hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp về
vấn đề hàm ngôn và truyện Nguyễn Huy Thiệp khá phong phú, mỗi công trình tiếp
cận dưới một góc độ riêng nhưng chưa có công trình nào viết về “Hàm ngôn trong


12

truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp”. Vấn đề hàm ngôn không phải là đơn giản và
hơn nữa để hiểu được nó trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp cũng không phải là
chuyện dễ dàng. Vì vậy, đối với bản thân người viết đây là một vấn đề rất mới và
rất khó. Trên cơ sở kế thừa thành tựu các công trình đi trước, nhất là lý thuyết về
hàm ngôn trong ngôn ngữ, luận văn này sẽ xem xét vấn đề hàm ngôn trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp một cách toàn diện và có hệ thống hơn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở kiến giải về hàm ngôn trong ngôn ngữ, củng cố những kiến thức
về hàm ngôn. Luận văn có mục tiêu và nhiệm vụ như sau:
3.1. Mục tiêu
- Nhận diện các hiện tượng hàm ngôn trong các tác phẩm truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp và phân tích giá trị biểu đạt của chúng.
- Miêu tả và phân loại các cơ chế tạo hàm ngôn và chức năng hàm ngôn
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp qua đó xác lập sự đóng góp của tác giả về
phong cách thể loại.
3.2. Nhiệm vụ
- Xác lập bộ máy khái niệm có liên quan đến cơ chế hàm ngôn.
- Miêu tả, phân tích để chỉ ra một số đặc điểm trong cách sử dụng hàm ngôn
tiêu biểu góp phần tạo ra sức hấp dẫn riêng cho văn chương Nguyễn Huy Thiệp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn sử dụng 42 truyện ngắn trong “Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp” do Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu đính năm 2006, NXB Văn hóa Sài
Gòn làm đối tượng nghiên cứu. Nhưng trong đó, chúng tôi chủ yếu dùng 170 ngữ
liệu chứa ý nghĩa hàm ngôn đã thống kê được (trong tổng 1500 ngữ liệu) làm đối
tượng nghiên cứu chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Như vậy, bất kỳ phương thức hay cơ chế nào có khả năng tạo ra hàm ngôn ở
mọi cấp độ ngôn ngữ được giới hạn trong 170 ngữ liệu đã thu thập từ 42 truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều là phạm vi nghiên cứu của luận văn.


13

5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài một số thủ pháp nghiên cứu quen thuộc, luận văn dùng các phương
pháp chính sau:
5.1. Phương pháp thống kê và phân loại
Đầu tiên, chúng tôi thu thập, thống kê các yếu tố có chứa hàm ngôn trong tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, sau đó tiến hành phân loại các cơ chế, chức năng
hàm ngôn theo các cơ chế tạo hàm ngôn trong tiếng Việt. Kết quả thống kê sẽ là cơ
sở thực tiễn để phân tích và trở thành cứ liệu khoa học có tính xác thực, thuyết phục
và minh chứng cho các lập luận của đề tài.
5.2. Phương pháp phân tích - miêu tả - tổng hợp
- Dùng Phương pháp phân tích, miêu tả nội dung hàm ngôn ở một số truyện
ngắn tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp để tìm ra những cơ chế tạo hàm ngôn.
- Phương pháp tổng hợp, giúp luận văn xác lập một số đặc trưng làm nên cái
nguồn trong phong cách ngôn ngữ Nguyễn Huy Thiệp.
6. Đóng góp của luận văn

Về mặt lý luận, trên cơ sở kế thừa và phát triển các thành tựu đã có, khi
nghiên cứu về hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi hy vọng
mang đến một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về vấn đề hàm ngôn trong ngôn ngữ
nói chung, trong tác phẩm văn chương nói riêng.
Về mặt thực tiễn, chúng tôi mong rằng luận văn sẽ góp phần trong việc ứng
dụng cho việc giao tiếp và dạy tiếng Việt trong nhà trường về vấn đề hàm ngôn.
Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi biết vận dụng những cách nói bóng gió,
ngầm ẩn. Bởi vì, nó là một trong những cơ sở để người nói tạo dựng phát ngôn cũng
như để người nghe tiếp nhận và nắm bắt đúng ý định giao tiếp của người nói. Việc
dạy tiếng Việt cho học sinh phổ thông cũng sẽ đơn giản hơn, hiệu quả hơn khi
chúng ta giúp các em biết và sử dụng hàm ngôn trong giao tiếp để đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, nghiên cứu này, còn giúp các em nhận biết một số phương thức tạo
hàm ngôn cơ bản để từ đó có cách cảm nhận tác phẩm văn chương nói chung và văn
chương Nguyễn Huy Thiệp nói riêng một cách sâu sắc. Hơn nữa, quá trình giải


14

quyết những vấn đề cụ thể về hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng
giúp cho người viết có cái nhìn đúng đắn hơn về hàm ngôn cũng như việc vận dụng
hàm ngôn vào trong giao tiếp và đặc biệt là việc phân tích, cảm thụ tác phẩm văn
chương Nguyễn Huy Thiệp.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn sẽ được triển
khai trong ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Trong chương này, chúng tôi sẽ bàn tới thuật ngữ hàm ngôn và và các thuật
ngữ hữu quan như hiển ngôn, tiền giả định, suy ý; phân loại ý nghĩa hàm ngôn; các
cơ chế tạo hàm ngôn cơ bản trong tiếng Việt; các yếu tố tâm lý, văn hóa với việc tạo
hàm ngôn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đề cập đến một số đặc điểm của truyện

ngắn và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 2. Một số cơ chế tạo hàm ngôn trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
Ở chương này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát 42 truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp và thu thập các ngữ liệu có chứa hàm ngôn rồi sau đó miêu tả và
phân loại.
Chương 3. Chức năng và tác dụng của hàm ngôn trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
Từ các cơ chế hàm ngôn ở chương 2, chúng tôi đi vào tìm hiểu những chức
năng và tác dụng của việc sử dụng hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Cuối cùng là đưa ra một vài nhận xét về cách thể hiện hàm ngôn của tác giả.


15

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Hàm ngôn và các thuật ngữ hữu quan
Vấn đề hàm ngôn là một vấn đề rất quan trọng của dụng học và nó thường
được đặt ra khi bàn về nghĩa của câu, của diễn ngôn. Nghĩa hiển ngôn hay còn gọi
là nghĩa tường minh là phần nghĩa được diễn đạt bằng câu chữ ít được nhắc đến,
còn nghĩa được suy ra từ nghĩa hiển ngôn chính là nghĩa hàm ẩn. Trong nghĩa hàm
ẩn chứa tiền giả định và nghĩa hàm ngôn. Trong giao tiếp hàng ngày, để hiểu đúng
hàm ngôn của người nói là một vấn đề không mấy dễ dàng, để nắm bắt được đúng ý
của người nói, người nghe phải trải qua một quá trình suy ý, quá trình đó phải dựa
vào những từ ngữ trong phát ngôn (nghĩa hiển ngôn) cùng những căn cứ đã có sẵn
trước khi phát ngôn (tiền giả định) và ngữ cảnh của phát ngôn.
Để có được một cái nhìn chính xác về hàm ngôn, ta bắt đầu từ những thuật
ngữ cơ bản nhất.
1.1.1. Hàm ngôn và hiển ngôn
Thuật ngữ hàm ngôn và hiển ngôn được các tác giả như Hoàng Phê (1981),

và nhóm các tác giả Hoàng Xuân Tâm– Nguyễn Văn Bằng – Bùi Tất Tươm –Cao
Xuân Hạo (1998) sử dụng, Hồ Lê (1996) gọi là ý nghĩa hiển hiện và ý nghĩa hàm
ẩn. Đỗ Hữu Châu (1993) dùng thuật ngữ ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn
(tiền giả định + hàm ngôn), Cao Xuân Hạo (1997) gọi là nghĩa hiển ngôn và hàm ẩn
(tiền giả định + hàm ý). Nguyễn Thiện Giáp (2000) dùng thuật ngữ hiển ngôn đối
lập với hàm ẩn/hàm ngôn (tiền giả định, kéo theo, hàm ý quy ước, hàm ý hội thoại).
Luận văn này dùng thuật ngữ hiển ngôn, hàm ngôn như cách gọi của Hoàng
Phê và nhóm các tác giả Hoàng Xuân Tâm – Nguyễn Văn Bằng – Bùi Tất Tươm–
Cao Xuân Hạo (1998).
Khái niệm về hàm ngôn (implication) và hiển ngôn (explication) trong tiếng
Việt nhìn chung đã có một cái nhìn thống nhất như trong sách giáo khoa lớp 9, tập 2
(2007) Nxb Giáo dục định nghĩa : “Hàm ý (hàm ngôn) là phần thông báo tuy không
được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu nhưng có thể suy ra từ những từ ngữ
ấy. Nghĩa tường minh (nghĩa hiển ngôn) là phần thông báo được diễn đạt trực tiếp


16

bằng từ ngữ trong câu.” [9a, tr.75]
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), hàm ngôn là “điều người nói
không diễn đạt trực tiếp, người nghe phải tự suy ra mà hiểu; phân biệt với hiển
ngôn.” [74, tr.418] Hiển ngôn là “điều người nói diễn đạt trực tiếp, rõ ràng; phân
biệt với hàm ngôn.” [74, tr.437]
Như vậy theo Hoàng Phê hàm ngôn là điều nói gián tiếp, còn hiển ngôn là
điều nói trực tiếp.
Từ những ý kiến trên ta có thể hiểu hiển ngôn là nghĩa được thể hiện trực
tiếp bằng các từ ngữ trên bề mặt của phát ngôn. Hàm ngôn là nghĩa được suy ra một
cách gián tiếp từ nghĩa nghĩa bề mặt ấy.
Còn về nội hàm và mối quan hệ giữa hiển ngôn, tiền giả định, hàm ngôn từ
trước đến nay trong giới Việt ngữ vẫn còn một số điểm chưa nhất quán. Nói chung

là có hai quan niệm khác nhau: quan niệm thứ nhất, đối lập giữa hiển ngôn và hàm
ngôn, quan niệm thứ hai lại có sự đối lập giữa hiển ngôn và hàm ẩn, hàm ngôn là
một bộ phận của hàm ẩn và đối lập với tiền giả định.
Quan niệm thứ nhất, hàm ngôn đối lập với hiển ngôn
Những người theo quan niệm này gồm các tác giả như Hoàng Phê (1981),
Hoàng Tuệ (1991), Nguyễn Đức Dân (1996), Hoàng Xuân Tâm - Nguyễn Văn
Bằng - Bùi Tất Tươm - Cao Xuân Hạo (1998). Nhìn chung, các tác giả này đều cho
rằng giữa hiển ngôn và hàm ngôn có sự đối lập, đã có hiển ngôn tức là có sự đối lập
với hàm ngôn.
Người đầu tiên ở Việt Nam khi nghiên cứu về hàm ngôn và cho rằng có sự
đối lập giữa hiển ngôn và hàm ngôn là Hoàng Phê. Trong bài “Ngữ nghĩa của lời”
(1981), tác giả cho rằng : “Trong lời nói thường ngày, lắm khi chúng ta nói ra một
điều này, nhưng lại muốn cho người nghe từ đó hiểu ra một điều khác, hoặc hiểu
thêm một điều khác nữa. Điều nói gián tiếp, chúng tôi đề nghị gọi là hàm ngôn
(implicit), đối lập với hiển ngôn (explicit) là điều nói ra trực tiếp.” [75, tr.34]
Như vậy, giữa hàm ngôn (implicit) có sự đối lập với hiển ngôn (explicit). Và
ý hàm ngôn là ý chính, ý quan trọng trong lời nói. Còn trong bài “Ý nghĩa của hàm


17

ngôn trong lời nói” (1988), ông lại nhấn mạnh hàm ngôn phong phú hơn hiển ngôn
và có khi còn mâu thuẫn với hiển ngôn, nhưng thường hiển ngôn để nói hàm ngôn,
hàm ngôn mới chính là cái ý muốn nói. Tức là dùng hiển ngôn nhưng thực chất là
để nói hàm ngôn, hiển ngôn là cái bề ngoài, còn hàm ngôn mới là cái bên trong cần
quan tâm [75, tr.178]. Tác giả còn giải thích thêm:“Muốn hiểu hiển ngôn, thường
chỉ cần hiểu nghĩa của từ, quan hệ cú pháp giữa các từ trong câu và nghĩa của câu.
Nhưng muốn hiểu hàm ngôn thì chừng ấy ấy chưa đủ. Hàm ngôn không chỉ dựa
trên hiển ngôn, mà còn phải dựa trên một số điều người nói không nói ra, mà coi
như người nghe cũng đã biết rồi, gọi là tiền giả định” [75, tr.179].

Tóm lại, theo Hoàng Phê để hiểu được hiển ngôn chỉ cần dựa vào nghĩa của
từ, quan hệ cú pháp giữa các từ trong câu và nghĩa của câu, còn muốn hiểu được
hàm ngôn phải dựa vào hiển ngôn và tiền giả định. Tức là từ nghĩa hiển ngôn kết
hợp với tiền giả định mới suy ra được hàm ngôn. Từ những khái niệm trên, ông còn
phân biệt hai cấp độ: cấp độ của cái nói ra và cấp độ của cái không nói ra. Trong
cái nói ra có hai bộ phận: cái nói ra trực tiếp và cái nói ra gián tiếp. Cái nói ra trực
tiếp chính là hiển ngôn, và cái nói ra gián tiếp chính là hàm ngôn.
Các tác giả Hoàng Xuân Tâm - Nguyễn Văn Bằng - Bùi Tất Tươm - Cao
Xuân Hạo (1998), khi bàn đến vấn đề hiển ngôn và hàm ngôn cũng cho rằng: nghĩa
của câu có thể thấy “trên bề mặt của nó” (hiển ngôn) “hay trong bề sâu” (hàm
ngôn). Hàm ngôn là “những ý nghĩa không được biểu đạt trực tiếp qua nguyên văn
mà phải suy ra từ quan hệ giữa các nghĩa trong cấu trúc và từ ngôn cảnh nguyên
văn” [82, tr.109]. Ta có thể hiểu quan niệm của nhóm tác giả này về hiển ngôn là
phần nghĩa có thể được tiếp nhận ngay trên bề mặt của câu bằng từ ngữ (tức nghĩa
nguyên văn) và không cần phải suy luận gì cả; hiển ngôn gồm tiền giả định và hiển
nghĩa. Còn hàm ngôn là những ý nghĩa không được diễn đạt trực tiếp qua từ ngữ mà
phải thông qua một sự suy luận dựa trên nghĩa nguyên văn và ngữ cảnh nhất
định.Hàm ngôn bao gồm hàm nghĩa và ẩn ý, hàm nghĩa là ý suy ra được diễn đạt
bằng chữ nghĩa trong nguyên văn, còn ẩn ý là ý suy ra nhưng chỉ có thể thấy trong
ngôn cảnh, tức là cái ẩn ý đằng sau nguyên văn mà không được diễn đạt bằng lời. có


18

nghĩa là hàm ngôn bao gồm hàm nghĩa (nghĩa bề sâu) và ẩn ý (ẩn kín đằng sau
nguyên văn được suy ra từ tiền giả định, hiển nghĩa, hàm nghĩa và ngôn cảnh).
Mô hình cấu trúc nghĩa của câu theo các tác giả này có thể khái quát như
Bảng 1.1 [82, tr.112]
Tiền giả định
Hiển ngôn

Hiển nghĩa
Câu/thông báo
Hàm nghĩa
Hàm ngôn
Ẩn ý

Bảng 1.1. Mô hình cấu trúc nghĩa của câu theo Hoàng Xuân Tâm - Nguyễn Văn Bằng Bùi Tất Tươm - Cao Xuân Hạo (1998)

Hai tác giả Hoàng Tuệ (1991), Nguyễn Đức Dân (1996) khi bàn về hiển
ngôn và hàm ngôn cũng cho rằng: hiển ngôn có sự đối lập với hàm ngôn.
Về mối quan hệ giữa hàm ngôn, hiển ngôn và tiền giả định, Hoàng Tuệ cho
rằng từ nghĩa hiển ngôn (m) suy ra nghĩa tiền giả định (n) (cả nghĩa hiển ngôn (m)
và nghĩa tiền giả định (n) đều không có hàm ý). Nghĩa hiển ngôn (m) kết hợp với
nghĩa tiền giả định (n) suy ra nghĩa ẩn ý (p). Nghĩa tiền giả định (m) với nghĩa ẩn ý
(p) chung lại là nghĩa hàm ngôn. Ta có thể hiểu quan niệm của Hoàng Tuệ về mối
quan hệ giữa hiển ngôn và hàm ngôn như sau:
Nghĩa hiển ngôn + tiền giả định = nghĩa ẩn ý
Tiền giả định + nghĩa ẩn ý = nghĩa hàm ngôn
Cũng như Hoàng Phê, Hoàng Tuệ cho rằng giữa hiển ngôn và hàm ngôn luôn
có sự đối lập, đã có hàm ngôn là có đối với lập hiển ngôn:“có hiển ngôn mới có hàm
ngôn; nếu không có hàm ngôn thì không cần đặt ra vấn đề hiển ngôn” [95, tr.930].
Ngoài ra, theo tác giả này, các nhà nghiên cứu phần lớn tán thành sự lưỡng phân
giữa hàm ngôn và hiển ngôn như của Paul Grice và Oswald Ducrot:


×