Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

ĐỀ TÀI Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.65 KB, 77 trang )



email:

PHẦN MỘT

Trang

1

LỜI NÓI ĐẦU

Một trong những lĩnh vực không thể thiếu giúp cho nền kinh tế có
được một tốc độ phát triển nhanh và ổn định đó là phát triển ngành sản xuất
công nghiệp. Việt Nam với nền tảng phát triển là một nền nông nghiệp lạc
hậu, cơ sở hạ rong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đã buộc chúng
ta phải đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất tầng thấp kém,
cộng thêm áp lực dân số thì những ngành có hàn lượng khoa học kỹ thuật
thấp như ngành công nghiệp nhẹ trong công nghiệp chế biến mà đặc biệt là
công nghiệp dệt may.
Thực tế trong những năm vừa qua, đã khảng định vị thế của ngành Dệt
may Việt Nam, là một trong những ngành xuất khẩu mang lại nguồn thu
ngoại tệ chủ yếu cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Ngành dệt may
cũng là một trong những ngành đạt chỉ tiêu tổng kim ngạch trên một tỷ USD
của Việt Nam là ngành đứng thứ hai về tổng kim ngạch xuất khẩu trong
những năm qua. Tuy nhiêm, cùng với sự phát triển đi lên của ngành dệt may
thì những doanh nghiệp trong nước tham gia vào hoạt động xuất khẩu trong
đó có công ty Dệt Hải Phòng cũng bộc lộ không ít những khuyết điểm mà
trong thời gian tới cần có biện pháp khác phục.
Trong quá trình thực tập, tìm hiểu hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá
tại Công Ty Dệt Hải Phòng với sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, các phòng ban


trong Công ty, cùng với sự nghiên cứu nghiệp vụ có chọn lọc cũng như ý
muốn đóng góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào giải quết những khó
khăn trong công ty, tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng ” với kết
cấu của luận văn bao gồm các phần:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.




email:

Trang

2

Chương II : Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng .
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công
Ty Dệt Hải Phòng .




email:

Trang

3

PHẦN HAI PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU
I. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU .
1. VỊ TRÍ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP.

X

uất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước
ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và

trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong
nước. Như vậy, Xuất khẩu là hoạt động tiêu thụ hàng hoá nhưng nó vượt qua
khỏi biên giới quốc gia.
Đứng trên góc độ của quá trình sản xuất kinh doanh thì xuất khẩu là
một khâu quan trọng và là mục tiêu của sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu làm
tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh, nếu tổ chức tốt sẽ kích thích sản xuất
góp phần làm phát triển doanh nghiệp. Trong quá trình vận động của vốn
(tiền) xuất khẩu cũng như tiêu thụ vừa là giai đoạn cuối cùng vừa là giai đoạn
kết thúc của quá trình tái sản xuất này để tiếp tục vận động sang một quá
trình sản xuất khác trong vòng tuần hoàn vốn.
(T-H) Đối tượng lao
đđộng
Tư liệu lao động
Quá trình sản xuất

Trong đó


T: Tiền

(T-H)
Đối
Quá trình tiêu thụ (xuất khẩu )

H: Hàng




email:

Trang

4

Ở tầm vĩ mô : Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước còn tạo điều kiện môi trường pháp lý
thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động bằng các chính sách khuyến khích
như: chính sách đầu tư, chính sách ưu đãi, các hàng rào thuế quan, phi thuế
quan ...thông qua đó để điều tiết các ngành kinh tế mũi nhọn góp phần vào
công cuộc Hiện đại hoá đất nước.
2. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
- Xuất khẩu là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội và có các
chức năng chủ yếu sau:
+ Tạo vốn cho quá trình đầu tư trong nước bởi xuất khẩu tạo ra nguồn
thu ngoại tệ chủ yếu cho quốc gia.
+ Chuyển hoá giá trị sử dụng, làm thay đổi cơ cấu giá trị sử dụng của
tổng sản phẩm xã hội.

+ Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi
trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh .
- Xuất khẩu thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá từ trong nước
sang các nước khác và có vai trò chủ yếu sau:
+ Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá
đất nước. Trong nền kinh tế mở, xuất khẩu còn được sử dụng như một công
cụ thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở trong nước và nước ngoài, thúc đẩy sự
tăng trưởng của nền kinh tế nội bộ trong nước thông qua các hoạt động xuất
khẩu .
+ Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của
đất nước: vốn, việc làm, sử dụng tài nguyên có hiệu quả. Ở nước ta hiện nay,
nền kinh tế còn lạc hậu việc xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên thô hoặc qua sơ
chế và các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, tỷ trọng hàng công nghiệp chưa




email:

Trang

5

cao.Trong đó chủ yếu là các mặt hàng mang tính lao động thuần tuý như các
sản phẩm dệt may, thủ công mỹ nghệ...
+ Đảm bảo sự thống nhất giữa nền kinh tế và chính trị trong hoạt động
xuất khẩu. Nền kinh tế quốc tế cũng như nền kinh tế ở mỗi nước vận động
theo nhiều xu hướng chung và cũng có nhiều lợi ích giống nhau, song cũng
có những tiềm năng và những xu hướng bất ổn, cho nên sức mạnh của một
nền kinh tế nền tảng phải là sự độc lập chủ quyền an ninh quốc gia. Đối với

nước ta cần phát huy hết lợi thế có sẵn và tạo ra những chỗ đứng mới trên
những thị trường ổn định.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Công tác xuất khẩu liên quan đến nhu cầu thị trường, tập quán tiêu
dùng trong và ngoài nước cũng như các chính sách thuế quan, phi thuế quan
của nhà nước ở các mức độ khác nhau trong đó gồm:
1.CÁC NHÂN TỐ KHÁCH QUAN
1.1 Yếu tố cung cầu của thị trường .
Ở mỗi thị trường nhu cầu sản phẩm thường rất khác nhau về chất
lượng, quy cách cũng như mẫu mã. Do đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp khi
muốn thâm nhập vào thị trường nào cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm tiêu
dùng của thị trường đó.
Vi dụ: Nhật Bản được coi là một trong những nước trên thế giới đòi
hỏi chất lượng sản phẩm cao nhất, gồm cả độ bền và khả năng hoạt động. Thị
hiếu của người tiêu dùng chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống và điều kiện của
Nhật Bản. Đây là yếu tố quan trọng trong việc quyết định tiêu dùng sản phẩm
hàng hoá. Do khủng hoảng kinh tế gần đây nên người tiêu dùng Nhật Bản
thích mua hàng hoá có giá trị hợp lý. Tuy nhiên xét về mặt chất lượng hàng
hoá tiêu dùng thì người Nhật Bản đòi hỏi cao nhất trên thế giới....




email:

Trang

6

Sau khi nắm vững các thói quen, tập quán tiêu dùng ở mỗi thị trường

doanh nghiệp phải có chiến lược cạnh tranh một cách hoàn hảo. Thị trường ở
mỗi nước có thể biến động tuỳ theo thu nhập của người dân, tập quán, thị
hiếu tiêu dùng cũng như những biến động ở từng thời kỳ.
1.2 Yếu tố về hàng rào thuế quan, phi thuế quan.
Thuế quan là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá khi qua cửa khẩu
của một nước.Trên thực tế khi đánh thuế có hai mục đích: có thể là mục đích
tài chính và cũng có thể là mục đích bảo hộ. Cả hai mục đích này đều có ảnh
hưởng to lớn đến việc xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp vào một nước
khác.
Thuế quan tài chính thông thường đánh vào những hàng hoá xuất
khẩu có lợi nhuận cao hay những hàng hoá không được khuyến khích .
Thuế quan bảo hộ chủ yếu đánh vào những hàng hoá nhập khẩu, làm
tăng giá của hàng nhập để hàng hoá trong nước có ưu thế hơn về giá cả so
với đối thủ cạnh tranh. Thuế quan bảo hộ là công cụ sắc bén tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tăng nhanh sản xuất.
Khi nhà nước tăng thuế nhập khẩu, thông thường sẽ làm cho khối
lượng hàng hoá nhập khẩu giảm do giá hàng tăng hạn chế tiêu dùng. Nhưng
trong một số trường hợp sẽ làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tăng lên
mà số lượng hàng nhập khẩu lại không giảm, và ngược lại.
Khi thuế suất xuất khẩu tăng sẽ hạn chế xuất khẩu do giá bán hàng hoá
ra thị trường cao không đủ sức cạnh tranh với hàng nước khác. Biện pháp
này nhà nước thường áp dụng với những hàng hoá không khuyến khích xuất
khẩu. và ngược lại.
Trên thực tế, thuế quan bảo hộ không phải bao giờ cũng có tác dụng
hạn chế nhập khẩu. Cho nên ngoài biện pháp đó nhà nước còn dùng các biện
pháp phi thuế quan khác để hạn chế nhập khẩu, chúng gồm:





email:

Trang

7

+ Quản lý hàng nhập khẩu bằng hạn ngạch: Biện pháp này nhằm
chống lại những nhà sản xuất lớn có khả năng cạnh tranh cao, nhằm ngăn
chặn hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào để bảo vệ thị trường trong nước hoặc
nhằm cân bằng cán cân thanh toán, hoặc làm công cụ mặc cả trong các cuộc
thương lượng, cũng có thể dùng để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng mang
tính chiến lược của nền kinh tế xã hội. Ví dụ: như gạo ở Việt Nam hiện nay.
+ Giấy phép nhập khẩu: Tính chất kín đáo và bí mật của giấy phép
cũng như thủ tục cấp giấy phép của chính quyền nhà nước cũng tạo khả năng
hạn chế nhập khẩu nhằm bảo hộ hàng trong nước.
+ Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu khác: Bên cạnh những biện
pháp hạn chế nhập khẩu trực tiếp, Nhà nước còn dùng một số biện pháp gián
tiếp nhằm ngăn cản việc nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài như: Biện pháp
về vệ sinh thú y, vệ sinh thực phẩm, hoặc các tiêu chuẩn về kỹ thuật như tiêu
chuẩn về kích thước, bao bì, những tiêu chuẩn về môi trường sinh thái.
Các yếu tố về thuế quan, phi thuế quan có ảnh hưởng rất lớn đến việc
xuất khẩu của một doanh nghiệp vào một thị trường nước ngoài, cho nên
trước khi thâm nhập hàng hoá vào một thị trường nào doanh nghiệp cần phải
nghiên cứu kỹ chính sách thuế quan, phi thuế quan của nước đó.
1.3 Tín dụng xuất khẩu .
Tín dụng xuất khẩu tức là nhà nước dành cho người nước ngoài những
khoản tín dụng để mua hàng nước mình. Nhà nước không chỉ trực tiếp can
thiệp vào thị trường tín dụng mà còn tạo điều kiện tín dụng xuất khẩu ưu đãi
hơn so với điều kiện tín dụng trong nước. Điều đó làm khả năng xuất khẩu
của các doanh nghiệp trong nước tăng lên. Ngoài ra, Nhà nước đảm bảo gánh

vác mọi rủi ro đối với khoản tín dụng mà doanh nghiệp xuất khẩu nước mình
dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Đây là phương tiện quan trọng đẩy
mạnh việc tiêu dùng hàng hoá ở thị trường nước ngoài. Nó làm cho nhà xuất




email:

Trang

8

khẩu yên tâm và mở rộng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài mà không sợ
gặp sự rủi ro.
1.4 Yếu tố về tỷ gía hối đoái.
Trong tình hình nền kinh tế mở cửa, các mối quan hệ kinh tế ngày
càng rộng thì việc thanh toán không chỉ là đơn vị tiền tệ trong nước mà còn
phải sử dụng nhiều loại ngoại tệ khác nhau, từ đó phát sinh nhu cầu tất yếu
phải so sánh giá trị, so sánh sức mạnh đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ,
đó là tỷ giá hối đoái. Như vậy, tỷ giá hối đoái dùng để biểu hiện và so sánh
những quan hệ về giá cả giữa các đồng tiền một nước được biểu hiện qua đơn
vị tiền tệ của nước khác. Do đó hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn
của tỷ giá hối đoái. Ví dụ như khi tỷ giá hối đoái tăng nghĩa là giá trị đồng
nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập
khẩu và ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm thì sẽ tăng nhập khẩu và hạn chế
xuất khẩu.
2-CÁC NHÂN TỐ CHỦ QUAN
2.1 Năng lực tổ chức và trình độ cán bộ làm xuất khẩu:
Đây là một yếu tố rất quan trọng có tính quyết định rất lớn trong quá

trình nâng cao doanh thu bán hàng cũng như tìm kiếm lợi nhuận, nó bao gồm
các khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị, chính sách bán hàng.
Trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu sẽ giúp cho doanh nghiệp
giảm các rủi ro trong quá trình thực hiện các công tác đàm phán ký kết hợp
đồng, cũng như tác nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thực tế hiện
nay trong một số doanh nghiệp đội ngũ cán bộ làm công tác tác nghiệp vừa
yếu cả về chuyên môn lẫn ngoại ngữ, nên điều dễ hiểu là nhiều hợp đồng
xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam ký với nước ngoài bị rất
nhiều sơ hở, yếu kém làm thua thiệt cho phía Việt Nam. Chính vì vậy, việc tổ




email:

Trang

9

chức và nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu rất cần thiết cho
các doanh nghiệp.
2.2./ Công nghệ và thiết bị công nghệ.
Công nghệ bao gồm cả công tác công nghệ và phương tiện kỹ thuật
được ký kết với nhau theo hình thức thích hợp, trong đó máy móc thiết bị kỹ
thuật là phương tiện kỹ thuật để thực hiện phương pháp công nghệ.
Dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị ảnh hưởng rất lớn tới cơ
cấu của sản xuất, đồng thời nó quyết định tới chất lượng sản phẩm và việc
thay đổi cải tiến sản phẩm. Ngoài ra nó còn thúc đẩy việc tăng năng suất lao
động. Khi máy móc thiết bị của doanh nghiệp hiện đại, phù hợp với năng lực
hiện có của mình thì sẽ làm cho hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp...

và ngược lại với trường hợp máy móc thiết bị lạc hậu hoặc quá hiện đại
không thể áp dụng sẽ làm cho hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được. Như
vậy có thể kết luận là trình độ và khả năng công nghệ là một loại vũ khi sắc
bén để thành công trong cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị
trường. Một dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị lạc hậu không thể
sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, có nhiều tính năng đáp
ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường.
2.3./ Trình độ lành nghề và bậc thợ của công nhân.
Trình độ tay nghề của công nhân phản ánh tính chất chuyên môn hoá,
trình độ thành thạo nghề nghiệp. Nếu trình độ người làm công tác xuất khẩu
kém sẽ làm cho doanh nghiệp thua thiệt trong đàm phán ký kết hợp đồng
cũng như thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp. Không
những thế nếu trình độ nghề nghiệp của công nhân cao hơn mức yêu cầu của
công việc được bố trí sẽ gây lãng phí trong việc sử dụng lao động, và ngược
lại sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cho nên
vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải bố trí được một cơ cấu lao động
tối ưu nhằm sử dụng có hiệu qua nguồn lao động đồng thời phải thường




email:

Trang

10

xuyên tổ chức công tác đào tạo tay nghề cho cán bộ công nhân viên, và luôn
luôn coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của mọi doanh nghiệp.
2.4./ Giá sản phẩm.

Giá sản phẩm là biểu hiện tổng hợp của nhiều mối quan hệ kinh tế trên
thị trường (Vấn đề cung cầu, lưu thông tiền tệ). Chính vì vậy mà giá thành
sản phẩm ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng hàng hoá xuất khẩu và lợi nhuận
của các doanh nghiệp. Muốn có một sản phẩm có giá trị cạnh tranh tốt đồng
thời có lợi nhuận phù hợp thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một giá bán thích
hợp với thị trường. Muốn xác định giá bán này doanh nghiệp phải căn cứ vào
giá bình quân của giá thị trường, giá đó được tính như sau:

GIÁ

cCầu

cCung

Giá bình quân
Nếu giá bán cao hơn giá bình quân của thị trường thì sản phẩm - hàng
hoá có thể bán được với số lượng ít thậm chí không bán
một sản phẩm
SẢNđược
LƯỢNG
Sản lượng bình quân
nào.
Nếu bán với giá thấp hơn giá bình quân thì lợi nhuận của doanh nghiệp
có thể bị giảm xuống hoặc không có lợi nhuận ( lỗ vốn).
Từ đó ta thấy muốn bán giá thấp hơn mà không ảnh hưởng tới lợi
nhuận, doanh nghiệp phải tăng doanh số bán hàng, ngoài ra phải phấn đấu
giảm chi phí các yếu tố đầu vào như tiết kiệm vật tư, tăng năng suất lao động,
hạn chế phế phẩm, hoàn thiện bộ máy quản lý, thay đổi quy trình công nghệ.





email:

Trang

11

- Chất lượng hàng hoá và mẫu mã sản phẩm được người tiêu dùng rất
quan tâm tuỳ thuộc vào thị trường mỗi nước. Các loại mẫu mã và chất lượng
sản phẩm tuỳ thuộc vào tập quán người tiêu dùng theo lứa tuổi.
Do mức thu nhập bình quân ở mỗi nước là rất khác nhau nên thông
thường ở các nước càng phát triển thì sự đòi hỏi về mẫu mã, chất lượng càng
cao và càng khắt khe.
2.5./ Các biện pháp về hỗ trợ xuất khẩu.
Biện pháp hỗ trợ xuất khẩu bao gồm các hoạt động quảng cáo khuyết
trương, tiếp thị thông qua phương tiện thông tin đại chúng, hội chợ triển lãm.
Đây thực sự là một hoạt động rất cần thiết để mở rộng thị trường xuất khẩu.
Thực chất của hoạt động này là tạo ra và sắp xếp các mối quan hệ trong kinh
doanh vào một hệ thống đồng thời giải quyết các mối quan hệ đó, kích thích
động viên người tiêu dùng mua hàng. Làm tốt công việc này doanh nghiệp sẽ
đem lại :
+ Thế lực trong kinh doanh, tạo nhu cầu mới, tạo uy tín cho sản phẩm
đối với người tiêu dùng.
+ Tăng doanh số bán hàng, giảm lượng hàng hoá tồn kho, ứ đọng
không cần thiết.
+ Hỗ trợ công tác bán hàng xuất khẩu .
+ Kích thích nhu cầu tiêu dùng.
III. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1./ NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG .

Trong kinh doanh nói chung không thể tách sản xuất với lưu thông vì
hai khâu này gắn liền với nhau, thúc đẩy nhau phát triển, một khâu trong quá
trình kinh doanh bị ách tắc sẽ gây cản trở đối với các khâu khác trong cả một




email:

Trang

12

hệ thống. Một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm hàng hoá bị ứ
đọng là do giá thành cao, chất lượng kém, giá cả không được người mua
chấp nhận. Theo nhiều nhà kinh doanh có kinh nghiện thì ngay trong quá
trình xây dựng kế hoạch sản xuất sản phẩm thì cũng đồng nghĩa với việc tiến
hành nghiên cứu thị trường để khi hàng hoá được sản xuất ra tiêu thụ một
cách thuận lợi. Như vậy không những phải tìm hiểu thị trường trong nước mà
còn phải mở rộng ra nghiên cứu thị trường nước ngoài.
1.1./ Các phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Khi nghiên cứu thị trường cần phải sử dụng những phương pháp thích
hợp cũng như những cán bộ có năng lực và thích hợp với chuyên ngành của
họ. Có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhưng có hai phương pháp
chủ yếu đó là phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài thông qua
nghiên cứu tại bàn làm việc và phương pháp nghiên cứu trực tiếp trên thị
trường nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn làm việc là việc nghiên cứu thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng như sử dụng các loại báo chí, tạp
chí, các loại ấn phẩm thường là các tạp chí kinh tế xuất bản định kỳ hoặc

không định kỳ, các loại sách chuyên khảo, các bản thống kê, các thông báo
của các công ty môi giới. Phương pháp này có ưu thế là chi phí thấp, tiết
kiệm thời gian nhưng thông tin không cập nhập, dễ làm mất cơ hội trong
kinh doanh.
- Nghiên cứu trực tiếp ở thị trường nước ngoài là cách nghiên cứu
ngay tại thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là phương pháp nghiên cứu rất
phức tạp và tốn kém nhưng nó lại là phương pháp mang lại hiệu quả thiết
thực nhất, mang lại thông tin cập nhập, giúp cho doanh nghiệp có thể chớp cơ
hội để thành công trong cạnh tranh. Bởi nghiên cứu tiếp xúc trực tiếp với thị
trường có thể tạo được các quan hệ trực tiếp với người mua hàng, bán hàng
tìm hiểu và mua các mẫu hàng về để nghiên cứu sản xuất, xuất khẩu.




email:

Trang

13

Ngoài ra các doanh nghiệp còn sử dụng các phương thức bán thử để
tìm hiểu tình hình thị trường hàng hoá, qua đó người xuất khẩu có điều kiện
nghiên cứu toàn diện. Phương pháp này sẽ tạo thuận lợi lâu dài nếu tìm được
thị trường. Sau khi bán thử, thu thập thông tin về hàng của mình, cải tiến để
xuất khẩu lớn hơn, phù hợp hơn .
1.2./ Các hình thức tổ chức nghiên cứu thị trường nước ngoài .
Trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta, việc đổi mới cơ
chế xuất nhập khẩu là một hướng đi đúng đắn và quan trọng, việc nghiên cứu
thị trường thế giới thể hiện sự hiểu biết về quy luật vận động của nó. Quy

luật này thể hiện qua những biến đổi về nhu cầu, cung ứng giá cả hàng hoá
cụ thể trên thị trường. Việc hiểu biết về quy luật của thị trường hàng hoá là
để giải quyết những vấn đề liên quan như thái độ tiếp thu của người tiêu
dùng, yêu cầu của thị trường đối với những hàng hoá mới sẽ được tiêu thụ,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những biện pháp và hình thức thâm
nhập, chiếm lĩnh thị trường.
Trong việc thực hiện chiến lược xuất khẩu sản phẩm hàng hoá cần phải
xác định thị trường nào là thị trường trọng điểm, tiêu thụ nhiều sản phẩm
hàng hoá của doanh nghiệp mình, và thị trường đó có cơ hội và những điều
kiện thuận lợi để tăng khối lượng hàng xuất khẩu, thu được lợi nhuận cao
hơn hay không? Ngoài ra, việc nghiên cứu thị trường nước ngoài còn phải
thu thập những thông tin về các chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng
hoá theo từng bước. Trong việc giao dịch thương mại với các nước còn phải
tìm hiểu rõ các chính sách về thuế quan và nhập khẩu của họ.
Sự cạnh tranh trên thị trường nói chung ngày càng gay gắt. Việc
nghiên cứu thị trường còn phải xác định đầy đủ vị trí và sự hoạt động của đối
thủ cạnh tranh, tức là đánh giá được khả năng kinh tế, khoa học kỹ thuật của
các đối thủ cạnh tranh, đánh giá, xem xét các chiến lược thị trường, việc tổ
chức, phục vụ khách hàng, chiến lược quảng cáo, cố vấn kỹ thuật, điều kiện




email:

Trang

14

bán hàng trên cùng thị trường của đối thủ cạnh tranh. Từ đó doanh nghiệp có

thể xây dựng chiến lược xâm nhập thị trường thích hợp.
Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài được vận dụng để xác định
chiến lược kinh doanh nói chung và chiến thuật của người xuất khẩu hàng
hoá trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Khi đã dự đoán được xu
hướng phát triển của thị trường nước ngoài mà trước hết là xu hướng biến
động về giá cả hàng hoá, người xuất khẩu cần xác định chiến lược kinh
doanh như: Nếu giá cả hàng hoá có xu hướng tăng thì ta sẽ không bán ra vội
vàng hoặc không bán hàng hoá với khối lượng lớn mà để cho mức tăng của
giá cả đến một mức nhất định mới bán hàng thì như vậy doanh nghiệp mới
thu được lợi nhuận cao trong những lúc giá cả hàng hoá có xu hướng tăng.
Còn ngược lại, khi giá cả có xu hướng giảm thì phải nhanh chóng bán hàng
để tránh tình trạng thua lỗ, và nhiều khi cần áp dụng những phương thức
khác như bán hạ giá để bán với khối lượng lớn khi giá chưa kịp hạ.
Trong quá trình nghiên cứu thị trường nước ngoài, việc cần nắm vững
những vấn đề quan trọng như: Làm cách nào để thâm nhập thị trường quốc
tế, mở rộng quá trình tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá đã có sẵn trên thị
trường truyền thống của doanh nghiệp. Nghiên cứu hàng hoá và dịch vụ để
đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá mới, hoặc hàng hoá được đổi mới trên
thị trường truyền thống và đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá có sẵn trên
thị trường mới và nghiên cứu quá trình sản xuất có sản phẩm hàng hoá mới
đưa ra tiêu thụ trên thị trường mới.
Việc nghiên cứu thị trường và công tác Marketing ngày nay đang giữ
vị trí quan trọng trong điều kiện cạnh tranh giành thị trường gay gắt.
Marketing trên thị trường nước ngoài thường hay được các công ty lớn quan
tâm, họ coi đây là điều kiện tiên quyết trong việc giành thắng lợi trong cuộc
chạy đua giành thị trường. Đối với đơn vị kinh doanh đối ngoại do rủi ro trên
thị trường nước ngoài cao cho nên việc nghiên cứu thị trường nước ngoài có
một ý nghĩa cực kỳ quan trọng.





email:

Trang

15

2- CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU.
Chính sách giá cả cũng như tổ chức phương án xuất khẩu của doanh
nghiệp có hai mục đích chính là tăng khối lượng hàng hoá bán ra và lợi
nhuận thu về. Tuỳ theo từng thị trường, từng sản phẩm cụ thể, doanh nghiệp
cần có những phương án bán hàng cũng như phương án xuất khẩu phù hợp
với từng thị trường, từng nhóm khách hàng sao cho vừa linh hoạt vừa hiệu
quả.
Việc lên phương án phân phối các kênh tiêu thụ về mặt lý luận cũng
như thực tiễn cần phải có một phương án hợp lý mới mang lại hiệu quả kinh
doanh to lớn trong công tác xuất khẩu. Không phải lúc nào doanh nghiệp
cũng phải trực tiếp xuất khẩu mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, mà theo
kinh nghiệm ở một số nước phát triển cho thấy muốn đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá các doanh nghiệp sản xuất phải phối hợp chặt chẽ với các công ty
môi giới bán hàng, các đại lý uỷ thác. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào mô hình quản
lý, trình độ nghiệp vụ cũng như khả năng xúc tiến bán hàng mà mỗi doanh
nghiệp có thể đồng thời tổ chức nhiều phương thức xuất khẩu khác nhau .
2.1./ Xuất khẩu trực tiếp.
Phương thức này thích hợp với những doanh nghiệp có mô hình sản
xuất lớn. Ở đây, doanh nghiệp tự tổ chức xuất khẩu với khách hàng nước
ngoài không thông qua môi giới trung gian. Phương thức này có ưu điểm là
doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với thị trường, với khách hàng.
Do đó hiểu biết rõ nhu cầu về mẫu mã, chất lượng sản phẩm, các đòi hỏi về

sự phù hợp giá cả, từ đó doanh nghiệp có những chính sách thay đổi một
cách kịp thời về sản phẩm, về giá thành sao cho đáp ứng một cách kịp thời
đầy đủ các đòi hỏi của người tiêu dùng vào từng thời điểm khác nhau trên
những thị trường cụ thể. áp dụng phương thức này doanh nghiệp có thể tiết
kiệm được chi phí bởi không phải mất chi phí trung gian do đó thu được lợi




email:

Trang

16

nhuận cao hơn. Tuy nhiên nó có nhược điểm là mạng lưới tiêu thụ hẹp,
không độc quyền được thị trường, chịu rủi ro lớn.
2.2./ Xuất khẩu theo phương thức uỷ thác (Phương thức mua bán qua
trung gian).
Việc xuất khẩu thông qua một đơn vị khác có điều kiện thuận lợi hơn
trong việc tiến hành xuất khẩu (Trong trường hợp này đơn vị được uỷ thác
phải là đơn vị được phép xuất nhập khẩu trực tiếp). Bán hàng qua đại lý
thông thường có hai loại: Đại lý bán buôn và đại lý bán lẻ. Việc buôn bán
hàng hoá xuất khẩu mang danh nghĩa của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải
trả một tỷ lệ % cho các đại lý trên cơ sở số hàng bán thực tế để đẩy mạnh
doanh số bán hàng, thông thường có một số đại lý có thể vừa là đại lý bán
buôn vừa là đại lý bán lẻ.
Đặc điểm của phương thức xuất khẩu qua uỷ thác hay qua đại lý là đều
phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định. Vì vậy doanh
nghiệp cần phải lựa chọn kênh phân phối cho phù hợp với khả năng của

chính mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn
nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi
trong quá trình xuất khẩu của mình.
2.3./ Tái xuất khẩu:
Tái xuất khẩu là hình thức giao dịch trong đó hàng hoá mua về được
xuất khẩu đi để kiếm lời không phải để tiêu dùng trong nước.
Mua bán theo hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh
xuất nhập khẩu. Bởi không phải lúc nào hàng hoá cũng được xuất khẩu một
cách trực tiếp, hoặc thông qua trung gian, như trường hợp bị cấm vận, bao
vây kinh tế thì chỉ có thể sử dụng phương pháp tái xuất thì các nước mới có
thể tham gia buôn bán được với nhau. Thêm vào đó nước tái xuất có thể kiếm
lời thông qua chênh lệch giá mua và giá bán.




email:

Trang

17

2.4./ Hình thức xuất khẩu thông qua gia công xuất khẩu.
Gia công xuất khẩu là hình thức một bên nhận nguyên liệu, bán thành
phẩm, linh kiện, phụ tùng đem về sản xuất chế biến thành dạng hoàn chỉnh
hơn rồi giao lại cho phía bên kia để hưởng một khoản tiền thù lao gọi là phí
gia công.
Hình thức này mang lại cho nước gia công cũng như nước thuê gia
công nhiều lợi ích. Thứ nhất nước gia công có thể nhận được những khoản
tiền thù lao, giải quyết công ăn việc làm trong khi không có đủ điều kiện sản

xuất hàng hoá xuất khẩu cả về vốn, công nghệ, nước nhận có thể tạo uy tín
với trường thế giới... Thứ hai những nước thuê gia công có thể tận dụng
được lao động của các nước nhận gia công, có thể thâm nhập được thị trường
nước nhận gia công...
2.5./ Xuất khẩu thông qua hội chợ triển lãm.
Hoạt động xuất khẩu qua hội chợ triển lãm ngày nay rất phổ biến, các
doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp thương mại rất có điều kiện giới
thiệu quảng cáo và kích thích bán hàng khi tham gia vào hội chợ triển lãm.
Nhiều công ty qua hội chợ triển lãm có thể mở rộng thị trường nhiều nước
mà trước đó doanh nghiệp chưa có điều kiện bán hàng. Việc bán hàng xuất
khẩu thông qua hội chợ triển lãm là một phương thức quảng cáo mang lại
hiệu quả cao cho doanh nghiệp, giảm các chi phí.
IV./CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU
Trong cơ chế hạch toán kinh doanh hiện nay, chỉ tiêu hiệu quả kinh
doanh là chỉ tiêu duy nhất có tính chất pháp lệnh để đánh giá hiệu quả trong
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận (Lãi, lỗ) = Doanh thu bán hàng xuất khẩu - (Giá vốn hàng hoá +
Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp +Thuế).




email:

Trang

18

Lợi nhuận = Doanh số x Tỷ suất lợi nhuận

Nội dung của hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất
khẩu bao gồm các khoản sau:
- Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cơ bản.
- Hiệu quả kinh doanh ngoài xuất khẩu.
- Hiệu quả kinh doanh sản xuất phụ.
Tổng các hiệu quả trên là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
1./ CHỈ TIÊU VỀ TỈ SUẤT LỢI NHUẬN.
- Việc phân tích các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận sẽ giúp doanh nghiệp
nhận biết được khả năng sinh lợi trên một số lĩnh vực kinh doanh. Từ đó mà
doanh nghiệp có biện pháp kinh doanh trong kỳ tới. Các chỉ tiêu tỉ suất lợi
nhuận được tính bằng các công thức sau:
TP

TPF =

TF

x 100%

TPF: Tỷ suất lợi nhuận của chi phí bán hàng
TF: Tổng chi phí bán hàng xuất khẩu
TP: Tổng lợi nhuận bán hàng xuất khẩu
Ý nghĩa: Cứ một đồng chi phí bán hàng thì tạo ra được bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
TP

TPV =

(VC + VL)


x 100%

TPV : Tỷ suất doanh lợi vốn sản xuất kinh doanh.
VL :Vốn lưu động.




email:

Trang

19

VC : Vốn cố định.
TP

:Tổng chi phí bán hàng.

Ý nghĩa: Cứ một đồng vốn sản xuất kinh doanh thì có bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu:

TP

TPD =
TP: Tổng lợi nhuận.

TD


x100%

TD: Tổng doanh thu bán hàng.
Ý nghĩa: Cứ một đồng doanh thu bán hàng thì có bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Sau khi tiến hành phân tích cả ba chỉ tiêu trên giữa các kỳ với nhau
hoặc giữa các doanh nghiệp khác nhau nhưng sản xuất những sản phẩm cùng
loại. Nếu các chỉ tiêu tỷ suất này của doanh nghiệp càng lớn thì chứng tỏ khả
năng sinh lời trên lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược
lại nếu các chỉ tiêu trên mà thấp thì chứng tỏ khả năng sinh lời càng thấp, sau
đó phân tích các nhân tố ảnh hưởng và đề ra những biện pháp để tăng lợi
nhuận trong kỳ kinh doanh tới. Qua phân tích ba chỉ tiêu sẽ cho ta thấy việc
kinh doanh hàng hoá xuất khẩu lỗ hay lãi. Khả năng sinh lời hoặc lỗ do các
nhân tố nào tạo ra, nó có phải từ chi phí bán hàng cao (thấp), doanh thu, thuế
cao (thấp)... để từ đó có biện pháp phát huy những mặt mạnh, hạn chế những
mặt còn tồn đọng và tìm ra biện pháp thích hợp để giải quyết.




email:

Trang

20

2./ CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU.
Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu nói riêng thông thường có hai loại chất lượng hàng hoá:

+ Hàng hoá đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
+ Hàng hoá không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (phế phẩm).
Khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp xuất
khẩu, thì chỉ tiêu chất lượng hàng hoá ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh, khi phân tích người ta sử dụng hai chỉ tiêu:
2.1./ Tỷ lệ phế phẩm (tính theo hiện vật).
Mục đích của phương pháp này là ta so sánh được hàng phế phẩm
chiếm bao nhiêu % trong hàng hoá xuất ra của doanh nghiệp.
TF =

HF
HC+HF

x 100 %

TF :Tỷ lệ phế phẩm.
HF :Hàng phế phẩm.
HC : Hàng đảm bảo đủ tiêu chuẩn.
Mục đích của phương pháp này là ta so sánh được số lượng hàng phế
phẩn chiếm bao nhiêu % trong tổng số hàng hoá xuất ra của doanh nghiệp.
2.2./ Tỷ lệ phế phẩm bình quân (Tính theo giá trị ).
CF+CS

TF =

CM+CF+CS

TF :Tỷ lệ phế phẩm bình quân.

x 100 %





email:

Trang

21

CF :Chi phí thu mua hàng phế phẩm.
CS :Chi phí sửa chữa chế biến hàng phế phẩm.
CM :Giá mua hàng xuất khẩu .
Từ công thức trên ta thấy tử số là toàn bộ hàng phế phẩm tính theo giá
trị, mẫu số là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ. Qua tính toán
phân tích chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể thấy được toàn bộ thiệt hại do chất
lượng hàng phế phẩm gây ra so với toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra
trong kỳ là bao nhiêu %.
Sau khi phân tích, so sánh giữa hai kỳ với nhau hoặc hai doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm cùng loại sẽ cho doanh nghiệp thấy được tỷ lệ phế phẩm
của doanh nghiệp mình và nếu tỷ lệ bình quân hàng phế phẩm của doanh
nghiệp càng nhỏ càng tốt. Tỷ lệ này chứng tỏ chất lượng hàng hoá xuất khẩu
cao hay thấp và nếu tỷ lệ này càng nhỏ thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp càng cao.
±∆ = TF1 - TF0
TF1 : Tỷ lệ phế phẩm kỳ này.
TF0 : Tỷ lệ phế phẩm kỳ trước.
Nếu :

- ∆ :Thì chất lượng hàng hoá xuất khẩu tăng lên.

+ ∆ : Thì chất lượng hàng hoá xuất khẩu giảm.

Qua phân tích ta tìm được nguyên nhân làm giảm chất lượng sản phẩm
từ đó tìm ra biện pháp khắc phục.




email:

Trang

22

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY DỆT
HẢI PHÒNG
I./GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY DỆT HẢI PHÒNG .

C

ông Ty Dệt Hải Phòng tiền thân là xí nghiệp Hải Phòng đây là
một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc sự quản lý của sở Công
Nghiệp Hải Phòng, được thành lập theo quyết định số

61/QĐ/TCCQ ngày 27/01/1988, là một trong những công ty trong ngành dệt
may được trực tiếp tham gia xuất nhập khẩu. Hiện nay, thị trường chủ yếu
của công ty là thị trường nội địa và thị trường Nhật Bản, hướng tới công ty
đang có kế hoạch mở rộng sang thị trường EU và thị trường Mỹ. Với vị thế là
một doanh nghiệp vừa và nhỏ với cơ sở khi thành lập đặt tại 151B Niệm

Nghĩa, Hải Phòng, diện tích sử dụng là 9,25 nghìn m2 và số lao động vào
khoảng 320 người năm 1999. Hiện nay, công ty mở rộng thêm cơ sở sang cơ
sở II đặt tại đường KaMen - Kiến An - Hải phòng. Cơ sở hai này sẽ chuyên
sản xuất hàng dệt kim, với diện tích sử dụng khoảng 20 nghìn m 2, số lao
động bước đầu tuyển vào và gửi đào tạo là 500 người và ngày 13/5/2000
nhân dịp giải phóng Hải Phòng cơ sở II đã đi vào hoạt động với các mặt hàng
chủ yếu là hàng dệt kim.
Từ ngày thành lập đến nay, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử cũng
như nền kinh tế của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, nhiều lúc
tưởng rằng công ty không thể vượt qua, nhưng với sự cố gắng của tập thể cán
bộ công nhân viên của công ty cũng như sự trực tiếp chỉ đạo và hỗ trợ của
thành phố, công ty đã vượt qua mọi khó khăn để phát triển giải quyết cho
hàng trăm công ăn việc làm cho người lao động Thành phố.




email:

Trang

23

1./ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TY.
1.1./Giai đoạn năm 1988 đến năm 1991.
Thời gian này, nền kinh tế Việt Nam đang chìm đắm trong giấc mộng
của nền kinh tế chỉ huy, quan niệm bao cấp dẫn đến rất nhiều ngành nghề của
Hải Phòng trong đó có ngành dệt không được chú trọng một cách thoả đáng.
Cho nên khi quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành nhằm
chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế

thị trường đã buộc các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và của Hải
Phòng nói riêng phải tự chuyển đổi từ phương thức “xin- cho” sang phương
thức hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi. Rất nhiều doanh nghiệp
và các hợp tác xã dệt thủ công của Hải Phòng dần dần bị giải thể hoặc
chuyển qua các ngành nghề khác.
Trên tinh thần của hiệp định 19/05 giữa nhà nước Việt Nam và Liên
Xô (cũ), và cùng với việc cần thiết phải khôi phục ngành dệt Hải Phòng,
UBND thành phố đã ra quyết định số 61/QD/TCCQ ngày 27/01/1988 chính
thức thành lập xí nghiệp dệt tiền thân của Công Ty Dệt Hải Phòng ngày nay.
Trong giai đoạn này, công ty chủ yếu chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản
và sản xuất thử với sản phẩm bước đầu ra đời là các loại khăn bông xuất
khẩu trực tiếp sang thị trường Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu XHCN
anh em trước đây để thực hiện kế hoạch cam kết của nhà nước ta với nhà
nước bạn và một phần sản phẩm còn được sản xuất ra để đáp ứng trực tiếp
nhu cầu tiêu dùng của địa phương và một số tỉnh lân cận, đem lại nguồn thu
bước đầu cho thành phố, giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn
người lao động.
Trong giai đoạn này, xí nghiệp tiến hành cải tạo xây dựng cơ sở vật
chất, hoàn thiện cơ cấu quản lý, tiếp nhận và đào tạo đội ngũ công nhân, tiếp
nhận và lắp đặt hệ thống dây truyền thiết bị chủ yếu được nhập khẩu hoặc
nhận viện trợ của Liên Xô với công nghệ dệt khăn theo công nghệ cũ là công




email:

Trang

24


nghệ tẩy nhuộm sau. Tuy nhiên, cùng với sự khó khăn của thành phố nên
nguồn vốn để xây dựng cơ bản của xí nghiệp bị hạn chế do sự cấp phát nhỏ
giọt đã dẫn đến tình trạng xí nghiệp không thể đủ điều kiện để lắp đặt một
cách đồng bộ dây chuyền sản xuất của mình, có rất nhiều máy móc lạc hậu
điển hình là sáu máy xe sợi thủ công...
Cũng như tình trạng chung của cả nước thì trình độ quản lý và tay
nghề của công nhân tại công ty còn chưa có nhiều kinh nghiệm do: Thứ nhất
là kinh phí đầu tư cho dạy nghề còn hạn chế, không đồng bộ, cán bộ quản lý
nhiều người không được đào tạo cơ bản đồng bộ. Thứ hai là đội ngũ công
nhân viên được tập hợp ở các nơi trong thành phố cũng như các tỉnh lân cận
nên không tránh khỏi những bỡ ngỡ và chưa phát huy được sự năng động
sáng tạo trong quá trình quản lý và sản xuất.
Trên đây là một số khó khăn của xí nghiệp trong bước đầu thành lập,
nhưng cùng với sự cố gắng của tập thể thì xí nghiệp vẫn sản xuất được một
số sản phẩm phục vụ cho việc xuất khẩu sang thị trường Liên xô cũ và một
số nước XHCN Đông Âu cũ, Thái Lan, Lào...
Từ sự biến động của lịch sử thế giới dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống
XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, làm cho Việt Nam không thể thực
hiện được các hiệp định mậu dịch với họ. Do đó mà thị trường xuất khẩu của
xí nghiệp Dệt Hải Phòng cũng mất đi, đẩy công ty đến bên bờ vực thẳm của
sự phá sản và sụp đổ, làm ăn thua lỗ triền miên tưởng rằng không thể vượt
qua được. Nhưng nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường đã đẩy xí nghiệp sang một trang mới, một giai đoạn
phát triển mới.
1.2. /Giai đoạn từ tháng 10/1991 đến năm 1995.
Như trên đã đề cập thì giai đoạn này là giai đoạn khởi đầu cho quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam bước vào một hướng phát triển mới





email:

Trang

25

nhưng gặp nhiều khó khăn do đồng tiền nội địa mất giá, thị trường xuất khẩu
không còn, lại bị bao vây kinh tế của Mỹ...dẫn đến rất nhiều công ty bị phá
sản. Cũng như tình hình chung của nhiều doanh nghiệp thì xí nghiệp Dệt Hải
Phòng bắt đầu bước vào sản xuất chính thức với phương thức hạch toán kinh
doanh lấy thu bù chi và có lãi. Những khó khăn mà Công Ty Dệt Hải Phòng
gặp phải trong giai đoạn này cũng như các doanh nghiệp khác trong cả nước
mà đặc biệt là những khó khăn về nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, máy
móc thiết bị, thiếu vốn, thiếu ngoại tệ để nhập vật tư, thiết bị cho sản xuất.
Do lạm phát mà giá cả các yếu tố đầu vào tăng nhanh làm ảnh hưởng trực
tiếp đến giá thành sản phẩm, do đó ảnh hưởng đến tiến độ tiêu thụ sản phẩm
trong nước cũng như sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài của xí
nghiệp gây rất nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thêm
vào đó là tình trạng lạm phát cao làm cho đồng lương không đủ đáp ứng đời
sống của công nhân viên đã làm cho nhiều cán bộ kỹ thuật bỏ việc tạo cho xí
nghiệp khó khăn chồng chất khó khăn.
Tuy vậy, nhờ sự giúp đỡ của Tổng công ty Dệt may Việt Nam và một
số doanh nghiệp trong ngành mà Xí nghiệp Dệt Hải Phòng đã thích ứng được
với điều kiện mới, và đã sản xuất ra những mặt hàng đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng cả trong nước cũng như nước ngoài. Nhờ đẩy mạnh công tác
Marketing mà số lượng khách hàng tìm đến công ty ngày càng nhiều. Cùng
với sự chuyển hướng sản xuất đến mua nguyên vật liệu, bán thành phẩm kết

hợp với hình thức gia công cho khách hàng nên uy tín của công ty đã được
từng bước nâng cao, thị trường đã được mở rộng. Để thuận tiện cho công tác
giao dịch cũng như vị thế của xí nghiệp ngày 14/01/1993 theo quyết định số
82/QĐ/TCCQ của UBND thành phố Hải Phòng đổi tên xí nghiệp dệt Hải
Phòng thành Nhà máy Dệt Hải Phòng với tên giao dịch quốc tế là Hai Phong
Textile Company.
Từ đây, nhờ sự giúp đỡ của thành phố, các ban ngành hữu quan, Nhà
máy Dệt Hải Phòng đã đầu tư theo chiều sâu, hoàn chỉnh dây chuyền thiết bị,


×