Tải bản đầy đủ (.doc) (203 trang)

KHẢO SÁT CÁC HÌNH THỨC BIỂU ĐẠT SO SÁNH TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI (LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT NHẰM MỤC ĐÍCH GIẢNG DẠY)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.35 KB, 203 trang )

KHẢO SÁT CÁC HÌNH THỨC BIỂU ĐẠT SO SÁNH
TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
(LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT
NHẰM MỤC ĐÍCH GIẢNG DẠY)
TS. NGUYỄN HOÀNG ANH *
PHẦN MỞ ĐẦU

0.1. Lí do lựa chọn đề tài
“So sánh” trước hết là một phạm trù triết học. Vạn vật trên thế
giới chỉ cần có một chút liên hệ nhất định thì đều có thể đem ra so
sánh với nhau. “So sánh” cũng là một phạm trù tri nhận. Chúng ta
muốn nhận biết thế giới, nhận biết chính mình thì đều phải thông qua
một biện pháp rất cơ bản, đó là “so sánh”. “So sánh” mới có thể lựa
chọn, so sánh mới có thể tìm ra được chân lí. “So sánh” đương nhiên
còn là một phạm trù ngữ pháp quan trọng. Mọi biểu đạt so sánh đều là
những thể thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa ý nghĩa và hình thức ngữ
pháp. Khi chúng ta muốn dùng ngôn ngữ để diễn tả quan niệm, hành
vi và kết quả của sự so sánh, thì chúng ta phải sử dụng đến hình thức
cấu trúc đặc biệt - hình thức biểu đạt so sánh trong ngôn ngữ. Rõ ràng,
từ góc độ ngữ nghĩa, ngữ pháp. “hình thức biểu đạt so sánh” là một đề
tài nghiên cứu quan trọng.
Tiếng Hán hiện đại (sau gọi tắt là tiếng Hán) là một ngôn ngữ
thuộc loại hình đơn lập phân tích tính. Nó vừa có cấu trúc chặt chẽ thể
hiện độ lí tính cao, vừa phong phú về hình thức biểu đạt thể hiện sự
tinh tế trong nhận thức. “So sánh” là một phạm trù rộng, bao gồm cả
so sánh ngang bằng và so sánh không ngang bằng. Mỗi một tiểu phạm
trù trên lại có nhiều cách biểu đạt khác nhau. Và với mỗi cách biểu đạt
khác nhau lại hàm chứa một góc nhìn, một sắc thái riêng biệt. Chính
sự phong phú cả về hình thức và nội dung của biểu đạt so sánh nói
chung, biểu đạt so sánh trong tiếng Hán nói riêng đã khích lệ chúng
tôi xúc tiến nghiên cứu đề tài này.


Ngoài ra, mối giao lưu hợp tác đa phương diện giữa Việt Nam và
Trung Quốc đang ngày càng được mở rộng và phát triển, việc học tập
*

Trưởng Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung Quốc, Trường Đại học Ngoại
ngữ - ĐHQG Hà Nội
11


nghiên cứu tiếng Hán đối với người Việt Nam cũng như việc học tập
nghiên cứu tiếng Việt đối với người Trung Quốc đã trở thành nhu cầu
hết sức cần thiết giúp cho hai nước có điều kiện trao đổi và hiểu biết
lẫn nhau. Nghiên cứu các hình thức biểu đạt so sánh trong tiếng Hán,
liên hệ với tiếng Việt ở một chừng mực nhất định, từ đó vận dụng vào
dạy học ngoại ngữ là một trong những nội dung quan trọng góp phần
nâng cao hiệu quả học tập và nghiên cứu tiếng Hán và tiếng Việt.
Với những lí do nêu trên, đề tài Khảo sát các hình thức biểu đạt
so sánh trong tiếng Hán hiện đại (Liên hệ với tiếng Việt nhằm mục
đích giảng dạy) chúng tôi thực hiện với hy vọng sẽ có những đóng
góp nhất định về lí luận nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ, về đối chiếu
ngôn ngữ Hán-Việt, đồng thời cũng đáp ứng được phần nào nhu cầu
thực tiễn học tập của một bộ phận sinh viên Việt Nam, Trung Quốc.
0.2. Phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
Do điều kiện khảo sát có hạn, ngữ liệu khảo sát được chúng tôi sử
dụng trong đề tài chủ yếu là các hình thức biểu đạt so sánh có chứa các
dấu hiệu hình thức so sánh trong một số tác phẩm văn học hiện đương
đại Trung Quốc. Tác phẩm “ 丰丰丰丰” (丰丰 ) (Báu vật của đời, tác giả Mạc
Ngôn) với ưu thế có văn bản điện tử cả phần nguyên gốc và phần dịch
nên được chúng tôi lựa chọn làm ngữ liệu chủ yếu. Tuy nhiên chính vì
ngữ liệu chủ yếu lấy trên một tác phẩm nên cũng bộc lộ một số hạn chế

nhất định. Để khắc phục nhược điểm này, khi cần thiết chúng tôi cũng
dùng thêm một số tác phẩm văn học khác và sử dụng lại một số ví dụ
của các học giả đi trước. Trong trường hợp thuyết minh một số vấn đề
đơn giản, chúng tôi cũng có sử dụng bổ sung cả các ví dụ tự lập (có sự
kiểm chứng của người bản ngữ). Các ví dụ chúng tôi đều trích dẫn đầy
đủ nguồn ngữ liệu. Những ví dụ không có trích dẫn nguồn ngữ liệu chủ
yếu thuộc về loại tự lập bổ sung. Khảo sát thành ngữ so sánh chúng tôi
chủ yếu sử dụng hai cuốn “ 丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (Từ điển thực dụng thành ngữ
tiếng Hán) do 丰丰丰 (Nghê Bảo Nguyên) chủ biên, năm 2003 và “丰丰丰丰丰丰
丰 ” (Từ điển thành ngữ đa chức năng) do 丰丰丰 (Đường Chí Siêu) chủ
biên, năm 2004.
Khi liên hệ với tiếng Việt, ngữ liệu sử dụng chính của chúng tôi
trong phần này chủ yếu vẫn là văn bản dịch Báu vật của đời nói trên
(dịch giả Trần Đình Hiến). Bên cạnh đó chúng tôi cũng khảo sát một
số tác phẩm văn học Việt Nam để tìm các cấu trúc so sánh tiếng Việt
thường dùng.
12


Vận dụng kết quả nghiên cứu vào giảng dạy, chúng tôi chủ yếu
chọn đối tượng học tập là sinh viên học tiếng Hán và học tiếng Việt tại
Khoa Ngôn ngữ & văn hóa Trung Quốc trường ĐHNN-ĐHQG Hà Nội.
Hy vọng với phạm vi nghiên cứu trên đủ giúp chúng tôi có được ngữ
liệu và cơ sở để đưa ra những kết luận khoa học về các vấn đề liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
0.3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài mong muốn góp phần miêu tả một cách toàn diện bức tranh
tổng quan về các hình thức biểu đạt so sánh trong tiếng Hán hiện đại,
đồng thời chỉ ra được những điểm tương đồng và khác biệt giữa các
hình thức biểu đạt so sánh của tiếng Hán và tiếng Việt, từ đó góp phần

nâng cao hiệu quả dạy và học tiếng Hán, tiếng Việt như một ngoại
ngữ.
0.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Trên cơ sở khảo sát ngữ liệu, thống kê và miêu tả các hình thức
biểu đạt so sánh ngang bằng và so sánh không ngang bằng trong tiếng
Hán.
Khảo sát và giới thiệu một bức tranh tổng quan về thành ngữ so
sánh tiếng Hán.
Liên hệ với tiếng Việt, tìm ra được những điểm tương đồng và
khác biệt trong các hình thức biểu đạt so sánh của tiếng Hán và tiếng
Việt.
Vận dụng kết quả nghiên cứu để phân tích lỗi sai của người học,
đề xuất những kiến nghị thiết thực nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
dạy, học tiếng Hán và tiếng Việt như một ngoại ngữ.
0.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện những nhiệm vụ trên, đề tài đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
Thống kê ngữ liệu trên tác phẩm văn học, phân tích và miêu tả cấu
trúc của các hình thức biểu đạt so sánh tiếng Hán.
Trên cơ sở các hình thức biểu đạt so sánh tiếng Hán đối chiếu với
tiếng Việt để rút ra những điểm tương đồng và khác biệt.
Khảo sát lỗi sai của học sinh khi sử dụng các hình thức biểu đạt so
sánh.
13


Diễn giải và quy nạp để rút ra một số kết luận trong đề tài.
0.6. Đóng góp của đề tài

Đề tài đã đưa ra một bức tranh tổng thể về các hình thức biểu đạt
so sánh trong tiếng Hán, trong đó có giới thiệu khá chi tiết về thành
ngữ so sánh tiếng Hán. Chỉ ra được những điểm tương đồng và khác
biệt cơ bản về các hình thức biểu đạt so sánh giữa tiếng Hán và tiếng
Việt. Những ứng dụng kết quả nghiên cứu trong dạy học tiếng Hán và
tiếng Việt như một ngoại ngữ cho sinh viên Việt Nam, Trung Quốc
cũng là một trong những đóng góp của đề tài.
0.7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài
Chương 2: Các hình thức biểu đạt so sánh trong câu tiếng Hán
Chương 3: Các hình thức biểu đạt so sánh trong thành ngữ tiếng
Hán
Chương 4: Đối chiếu các hình thức biểu đạt so sánh tiếng Hán với
các hình thức biểu đạt so sánh tiếng Việt và những ứng dụng trong dạy
học

14


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Một số vấn đề về so sánh
1.1.1. Khái niệm so sánh
So sánh là một khái niệm thông dụng trong cuộc sống, nó gắn bó
mật thiết tới hầu hết mọi đời sống sinh hoạt của con người. Trong mỗi
lĩnh vực, xuất phát từ những mục đích khác nhau người ta có thể đưa
ra các định nghĩa về so sánh từ nhiều góc độ, nhưng tựu trung nói đến
so sánh thì người ta thường định nghĩa là “so sánh nhằm phân biệt sự

giống, khác nhau hoặc sự hơn kém giữa hai hay nhiều sự vật đồng
loại” (“ 丰丰丰丰丰丰 ” 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 , 丰丰丰丰丰 ) (Từ điển tiếng Hán
hiện đại, Ban Biên tập từ điển-Phòng nghiên cứu ngôn ngữ, Viện Khoa
học xã hội Trung Quốc biên soạn, nhà in Thương Vụ, năm 2005, 70p).
Tương tự như vậy, Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà
Nẵng, năm 1997, 830p cũng đưa ra định nghĩa về so sánh như sau: so
sánh là “nhìn vào cái này để xem xét cái kia để thấy sự giống nhau,
khác nhau hoặc sự hơn kém”. Như vậy, nhìn vào định nghĩa của hai
cuốn từ điển dễ dàng nhận thấy, so sánh là một hành vi được tiến hành
trên hai sự vật hiện tượng khác nhau, trong đó có một sự vật hiện
tượng làm chuẩn để nhìn nhận về những sự vật hiện tượng còn lại,
hoặc chúng làm chuẩn cho nhau trong quá trình nhìn nhận, nhằm mục
đích cuối cùng là rút ra được nhận xét về sự giống và khác nhau hoặc
sự hơn kém giữa các sự vật hiện tượng đó. Định nghĩa này không
những cho chúng ta thấy được bản chất của so sánh, mà còn nêu lên
các thành tố chính yếu trong phép so sánh. Để làm rõ nội hàm của các
thành tố nghĩa này, chúng tôi xin tiếp tục trình bày dưới đây các khái
niệm khác có liên quan đến so sánh.
1.1.2. Các khái niệm liên quan đến so sánh
1.1.2.1. So sánh, tỉ dụ và ẩn dụ
Các nhà ngôn ngữ học đều chỉ ra rằng, “so sánh”, “tỉ dụ” và “ẩn
dụ” là những khái niệm có liên quan với nhau nhưng không phải là
một. Trong đó “so sánh” là khái niệm rộng nhất (tiếng Hán gọi là “ 丰
丰 ”). Đó là một phép nhận biết sự hơn kém hoặc ngang bằng giữa các
sự vật một cách thuần túy. Còn “tỉ dụ” (tiếng Hán gọi là “ 丰丰 ”) là một
biện pháp tu từ. Cũng có học giả gọi “tỉ dụ” là “so sánh tu từ”. “Tỉ dụ”
là một bộ phận của so sánh, nhằm lấy sự vật, hiện tượng này để thuyết
15



minh hoặc làm sáng tỏ cho một sự vật, hiện tượng hoặc một tính chất
nào đó khác. “Ẩn dụ” lại là một khái niệm hẹp hơn “tỉ dụ” (tiếng Hán
gọi là “丰丰”). “Ẩn dụ” cũng là so sánh tu từ nhưng là so sánh ngầm, tức
trên bề mặt cấu trúc không còn xuất hiện các thành tố chủ thể so sánh
và thành tố quan hệ so sánh nữa. Trong phạm vi công trình này, khi
khảo sát về các hình thức biểu đạt so sánh, chúng tôi chỉ dừng lại ở
các mức so sánh thông thường và so sánh tu từ (gọi chung là “so
sánh”).
1.1.2.2. Các thành tố trong phép so sánh
Căn cứ vào khái niệm “so sánh” mà các nhà từ điển học Việt Nam
và Trung Quốc giải thích, đồng thời từ góc độ tri nhận có thể thấy, để
phép so sánh có thể thực hiện được vai trò của mình thì phải đảm bảo
được các nhân tố sau: trước hết phải bao gồm hai sự vật, sự việc, hiện
tượng có sở chỉ khác nhau làm đối tượng của so sánh, chúng lần lượt
giữ vai trò chủ thể so sánh và chuẩn so sánh. Thứ hai, hai sự vật hiện
tượng đó phải có chung một thuộc tính, một giá trị nào đó làm cơ sở
cho sự so sánh, đó chính là nội dung hay phương diện so sánh. Thứ ba
là kết quả so sánh. Cuối cùng là hình thức kết nối quan hệ so sánh
giữa các sự vật, hiện tượng và kết quả của phép so sánh. Các khái
niệm thành tố ngữ nghĩa nói trên có nội hàm lần lượt như sau:
• Chủ thể so sánh và chuẩn so sánh
Chủ thể so sánh và chuẩn so sánh hay còn được gọi bằng hai thuật
ngữ tương đương là thành tố so sánh và thành tố tham chiếu, là hai
thành tố ngữ nghĩa cơ bản tạo nên phép so sánh. Hai thành tố này có
thể là hai sự vật, hiện tượng riêng biệt, cũng có thể là một sự vật hiện
tượng nhưng ở thời gian hoặc không gian khác nhau. Xét từ góc độ
tuyệt đối thì hai thành tố này phải có sở chỉ (đối tượng phản ánh) khác
biệt. Tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Để hai
thành tố có sở chỉ khác biệt đó có thể tham gia vào phép so sánh thì
chúng cần phải là những sự vật, sự việc, hiện tượng có chung một

thuộc tính nào đó. Thuộc tính chung ấy có thể được biểu hiện ở những
phạm vi rộng hẹp và mức độ cao thấp khác nhau, cũng có thể được thể
hiện ở sự đồng loại. Như vậy sự khác biệt về đối tượng và sự thống
nhất trong cùng một thuộc tính là điều kiện cần và đủ để các sự vật,
hiện tượng có thể tham gia với tư cách là thành tố nghĩa của phép so
sánh. Ví dụ:
(1) 丰丰丰丰丰丰.
16


Minh gầy hơn Nam.
Trong ví dụ trên, “ 丰丰 ” (Minh) là chủ thể so sánh, “ 丰丰 ” (Nam) là
chuẩn so sánh. “Minh” và “Nam” là hai đối tượng, hai cá thể khác
nhau nhưng cùng chứa đựng một thuộc tính chung là “vóc dáng”.
(2) 丰丰丰丰丰丰丰丰.
Minh năm nay gầy hơn năm ngoái.
Với ví dụ trên, dường như chủ thể so sánh và chuẩn so sánh chỉ là
một (đều là 丰丰 - Minh). Nhưng thực chất “Minh” chỉ là điểm chung
giữa sở chỉ của chủ thể so sánh là “Minh của năm ngoái” và sở chỉ của
chuẩn so sánh là “Minh của năm nay”. Mà “Minh của năm ngoái” và
“Minh của năm nay” do biến thiên của thời gian nên đương nhiên sẽ
có những điểm khác nhau (trong đó có “vóc dáng”), vì vậy vẫn được
nhận diện như hai đối tượng khác nhau.
Như vậy, trong hai ví dụ trên “Minh” và “Nam”, “Minh của năm
ngoái” và “Minh của năm nay” là những thực thể đối tượng khác nhau
nhưng cùng chứa đựng một thuộc tính chung là “vóc dáng”, do vậy
chúng hoàn toàn đáp ứng được điều kiện cần và đủ để trở thành thành
tố cơ bản của phép so sánh.
Tuy nhiên, trong giao tiếp, do tác động của các yếu tố ngữ pháp,
ngữ nghĩa, ngữ cảnh, tri nhận ... mà thành tố so sánh và thành tố tham

chiếu không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận diện. Chúng có thể được
tỉnh lược hoặc ẩn trong một thành tố ngữ nghĩa ngữ pháp nào đó của
câu, của chuỗi lời nói. Chúng tôi sẽ phân tích cụ thể trong các chương
sau khi khảo sát các trường hợp này.
• Nội dung so sánh và kết quả so sánh
Nội dung so sánh chính là thành tố nghĩa mà người phát ngôn
muốn hướng tới nhằm đưa lại thông tin đích thực cho người tiếp nhận
phát ngôn. Nội dung so sánh cũng là điểm chung giữa chủ thể so sánh
và chuẩn so sánh. Nội dung ấy có thể được hiển thị đồng thời với hai
thành tố này trong cùng một thành phần cấu trúc. Ví dụ:
(3) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Giá của ngôi nhà này đắt hơn giá của ngôi nhà kia.
Trong ví dụ trên, chủ thể so sánh là “ 丰丰丰丰 ” (ngôi nhà này) còn
chuẩn so sánh là “ 丰丰丰丰 ” (ngôi nhà kia). Nội dung so sánh chính là “ 丰
丰 ” (giá nhà), và nội dung này được hiển thị cùng với chủ thể so sánh
và chuẩn so sánh trong cùng một thành phần cấu trúc. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp, nội dung so sánh không được hiển thị mà
17


được ngầm hiểu qua thành tố nghĩa khác, thành tố nghĩa có khả năng
kích hoạt nội dung so sánh thường là kết quả so sánh. Ví dụ:
(4) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam nhiều hơn sách của Minh.
Trong ví dụ trên, dựa vào ý nghĩa từ vựng của kết quả so sánh là
“ 丰 ” (nhiều) mà có thể phán đoán được nội dung so sánh trong câu
thuộc về “số lượng”. Nội dung này không hề được hiển thị trong bất kì
thành phần cấu trúc nào của phép so sánh. Chúng ta có thể xem xét ví
dụ sau để minh chứng cho điều này.
(5) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.

Sách của Nam hay hơn sách của Minh.
Chủ thể so sánh và chuẩn so sánh của ví dụ này hoàn toàn trùng
hợp với ví dụ trên, hai ví dụ chỉ khác nhau ở kết quả so sánh. Và cũng
chính vì kết quả so sánh “ 丰丰丰丰 ” (hay) ở ví dụ này mà chúng ta có thể
dựa vào nghĩa từ vựng của nó để phán đoán nội dung của phép so sánh
trong ví dụ trên thuộc về “chất lượng”. Tương tự như vậy, chúng ta
tiếp tục xem xét các ví dụ sau:
(6) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam đẹp hơn sách của Minh.
(7) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam mỏng hơn sách của Minh.
(8) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam to hơn sách của Minh.
(9) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam rõ hơn sách của Minh.
(10) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam sạch hơn sách của Minh.
(11) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam lòe loẹt hơn sách của Minh.
(12) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam đắt hơn sách của Minh.
Nhờ có sự kích hoạt từ các kết quả so sánh “ 丰 丰 ” (đẹp), “ 丰 ”
(mỏng), “丰” (to), “丰丰 ” (rõ), “丰丰” (sạch), “ 丰丰 ” (lòe loẹt), “ 丰” (đắt) mà
chúng ta có thể phán đoán được nội dung so sánh trong các ví dụ trên
lần lượt sẽ là “hình thức”, “số trang”, “khổ giấy”, “chất lượng in ấn”,
“ý thức dùng sách của chủ nhân”, “mầu sắc”, “giá tiền”.
18


Khi kết quả so sánh là một từ đa nghĩa thì nội dung so sánh được

kích hoạt cũng không đơn nhất. Ví dụ:
(13) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Sách của Nam mới hơn sách của Minh.
Trong ví dụ trên, kết quả so sánh là “ 丰” (mới) có thể hiểu là “năm
xuất bản gần với thời điểm hiện tại”, cũng có thể hiểu là “ít được sử
dụng nên trông còn sạch sẽ”. Do vậy, nội dung so sánh được kích hoạt
tương đương với hai nghĩa này sẽ là “thời gian xuất bản” và “tần số sử
dụng”. Đây là một câu đa nghĩa.
Như vậy, nội dung so sánh là thông điệp quan trọng mà người phát
ngôn muốn truyền đạt cho người tiếp nhận nhưng trên thực tế thường
lại được ẩn dưới một thành tố khác, thành tố kết quả của phép so sánh.
Đây cũng chính là hệ quả của sự tương hỗ và sự kích hoạt ngữ nghĩa
giữa các thành tố trong một hình thái cấu trúc thông qua tư duy trừu
tượng của con người.
Kết quả so sánh chính là hiển thị sự tương đồng hay khác biệt giữa
chủ thể so sánh và chuẩn so sánh. Kết quả này tùy từng mục đích, nhu
cầu thông báo khác nhau của chủ thể phát ngôn mà mức độ cụ thể của
chúng cũng khác nhau. Tuy nhiên, kết quả so sánh đều có thể được
quy thành hai loại lớn: ngang bằng và không ngang bằng, từ đó tạo
nên hai hình thức biểu đạt so sánh ngang bằng và không ngang bằng
trong ngôn ngữ. Ví dụ:
- Kết quả so sánh ngang bằng
(14) 丰丰丰丰丰丰丰丰.
Nam cao bằng Minh.
- Kết quả so sánh không ngang bằng
(15) 丰丰丰丰丰丰.
Trung cao hơn Nam.
Với hai kết quả so sánh ngang bằng và không ngang bằng lại có
thể có những cấp độ khác nhau. Chúng tôi sẽ miêu tả chi tiết các nội
dung này trong quá trình khảo sát. Ngoài ra, kết quả của phép so sánh

còn có thể được phản ánh thông qua hình thức phủ định. Ví dụ:
(16) 丰丰丰丰丰丰丰丰丰.
Nam và Minh không cao bằng nhau.
(17) 丰丰丰丰丰丰丰.
Trung không cao bằng Nam
19


Hình thức phủ định cũng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, chúng
vẫn cho ra kết quả: hoặc là phủ định sự ngang bằng hoặc phủ định sự
hơn kém.
• Hình thức kết nối so sánh
Để biểu đạt so sánh có thể chỉ cần xuất hiện một thành tố chuẩn so
sánh cũng có thể đạt được hiệu quả của phép so sánh, song đó là dạng
so sánh ngầm, so sánh ẩn mà ở đó những yếu tố tư duy văn hóa, yếu tố
phi lời đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, một phép so sánh tường
minh thường phải có các từ ngữ đánh dấu mối quan hệ so sánh giữa
các thành tố. Các từ ngữ đó được đặt trong một cấu trúc nhất định, tạo
ra cái gọi là hình thức kết nối so sánh. Chẳng hạn như trong các ví dụ
từ 1 đến 13 và ví dụ 15, từ “ 丰” được nằm trong cấu trúc “A + 丰 + B +
VP” chính là hình thức kết nối so sánh. Mỗi một ngôn ngữ có sử dụng
các hình thức kết nối so sánh khác nhau, tạo nên sự đa dạng trong biểu
đạt so sánh của ngôn ngữ đó.
1.1.3. Phạm trù ngữ pháp so sánh
Thế giới khách quan tồn tại với muôn vàn cá thể hỗn độn, phức
tạp. Khi con người nhận biết thế giới khách quan không thể đi nhận
thức từng đặc điểm của mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới hỗn độn
ấy mà thông thường phải tuân thủ một nguyên tắc: không ngừng tiến
hành phân loại và quy loại sự vật. Trong quá trình quan sát, con người
đã phát hiện ra những thuộc tính giống nhau của một số sự vật hiện

tượng trong mớ hỗn độn của thế giới khách quan, rồi căn cứ vào cái
thuộc tính chung ấy để quy chúng về cùng một loại. Rồi chính trong
số những sự vật hiện tượng đồng loại, con người lại phát hiện ra
những đặc điểm khác nhau để từ đó lại tiến hành phân loại chúng. Quá
trình quy loại và phân loại đó chỉ có thể được thực hiện khi chúng ta
đặt sự vật nọ trong mối quan hệ so sánh với sự vật kia, từ đó phát hiện
ra những tương đồng và khác biệt giữa chúng. Hay nói cách khác, so
sánh chính là cơ sở của quy loại và phân loại thế giới khách quan. Quá
trình quy loại và phân loại không ngừng diễn ra trong nhận thức của
con người, khiến con người nhận biết được thế giới khách quan ngày
một cụ thể và tường minh. Điều đó cũng có nghĩa là, so sánh là một
trong những phương thức gắn liền với quá trình tri nhận thế giới
khách quan của con người.

20


Quan hệ so sánh giữa các sự vật hiện tượng khi phản ánh vào
ngôn ngữ đã hình thành nên ý nghĩa ngữ pháp “so sánh”. Do quan hệ
so sánh trong thế giới khách quan muôn hình muôn vẻ nên ý nghĩa
ngữ pháp so sánh phản ánh nó cũng phong phú đa dạng. Biểu hiện của
ý nghĩa so sánh ở vỏ ngoài ngôn ngữ chính là các hình thức biểu đạt
so sánh. Hình thức và ý nghĩa ngữ pháp luôn là một chỉnh thể thống
nhất, tạo nên phạm trù ngữ pháp. Phạm trù ngữ pháp so sánh được
hình thành cũng theo nguyên tắc đó. Có nghĩa là, phạm trù ngữ pháp
so sánh là một chỉnh thể hai mặt của hình thức biểu đạt so sánh và ý
nghĩa ngữ pháp so sánh chứa đựng trong hình thức biểu đạt đó. So
sánh là một phạm trù ngữ nghĩa ngữ pháp.
Ý nghĩa ngữ pháp được khởi nguồn từ tư duy nhận thức của nhân
loại nên nó mang tính cộng đồng, là tài sản chung của loài người.

Nhưng ngôn ngữ lại được hình thành trên một chế độ chính trị, xã hội
nhất định, là sản phẩm riêng của dân tộc, mang tính dân tộc. Do vậy,
với cùng một ý nghĩa ngữ pháp so sánh, nhưng khi chúng được quy
chiếu vào các ngôn ngữ khác nhau sẽ có những hệ thống hình thức
biểu đạt riêng biệt. Chính vì vậy, nghiên cứu phạm trù so sánh trên các
ngôn ngữ khác nhau để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt sẽ
hứa hẹn những kết quả thú vị, có khả năng cung cấp tư liệu cần thiết
cho người sử dụng ngôn ngữ như một ngoại ngữ. Tuy nhiên, dù khác
nhau về hình thức biểu đạt giữa các ngôn ngữ nhưng mọi hình thức
biểu đạt đều có thể truyền tải được đầy đủ ý nghĩa so sánh vốn đa sắc
mầu trong tư duy của nhân loại.
1.1.4. Các tiêu chí nhận biết về hình thức biểu đạt so sánh
Xét về mặt ngữ nghĩa, để một phép so sánh được thực hiện, trước
hết phải xác định được chủ thể so sánh và chuẩn so sánh. Đây là hai
thành tố cơ bản để tạo nên phép so sánh. Nói một cách khác, không có
đầy đủ cả hai thành tố trên thì không có phép so sánh. Tuy nhiên, như
trên đã trình bầy, không phải lúc nào cả hai thành tố này cũng hiển thị
một cách rõ ràng trên bề mặt cấu trúc, chúng có thể được tỉnh lược
hoặc ẩn đi dưới một thành tố nghĩa nào đó, nhưng nhờ có ngữ cảnh
hoặc có các yếu tố liên hệ khác mà chúng ta vẫn có thể kích hoạt được
chúng.
21


Nội dung và kết quả so sánh cũng là những thành tố cần và đủ về
mặt ngữ nghĩa để cấu thành phép so sánh. Vì vậy cũng nhất thiết phải
xác định được hai thành tố này. Song cũng do các nhân tố ngữ cảnh,
các thành tố này có thể được ẩn vào các thành tố ngữ nghĩa khác hoặc
do chính một số từ chức năng đảm nhiệm.
Xét về mặt hình thức, để kết nối các thành tố nghĩa của phép so

sánh cần có các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh. Dựa vào sự xuất hiện
hay không xuất hiện của các từ ngữ này trong cấu trúc so sánh, các
nhà Hán ngữ học như 丰丰丰 (Trần Vọng Đạo), 丰丰丰 (Lý Tề Trung), 丰丰丰
(Lạc Tiểu Sở), v.v... đã chia phép so sánh thành ba dạng lớn là so sánh
dạng hiện (so sánh tường minh), so sánh dạng ẩn (so sánh không
tường minh) và so sánh ngầm. Còn các tác giả 丰丰丰 (Mã Quốc Phàm),
丰丰 (Sử Thí) và 丰丰 (Lưu Khiết) lại cho rằng phép so sánh chỉ bao gồm
hai dạng lớn là so sánh dạng hiện và so sánh dạng ẩn. Theo nhóm tác
giả sau, thì loại so sánh ngầm trong phép so sánh tu từ tiếng Hán được
hình thành trong một ngữ cảnh nhất định, nếu thoát ly khỏi ngữ cảnh
thì không thể hình thành một cấu trúc có hàm ý so sánh. Chúng tôi
nhất trí với quan điểm của nhóm tác giả 丰丰丰 (Mã Quốc Phàm), 丰丰 (Sử
Thí) và 丰丰 (Lưu Khiết). Tuy nhiên, để hạn chế phạm vi nghiên cứu,
trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung khảo sát các hình thức so sánh
dạng hiện, tức hình thức so sánh có chứa các từ ngữ, cấu trúc biểu thị
quan hệ so sánh. Và chính các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh này là
dấu hiệu hình thức để nhận biết hình thức biểu đạt so sánh. Riêng đối
với thành ngữ so sánh do mang đặc trưng chung của thành ngữ là giản
lược, súc tích nên chúng tôi khảo sát cả các thành ngữ so sánh dạng
ẩn.
Như trên đã trình bày, xét về mặt kết quả so sánh, phép so sánh có
thể chia làm hai loại: so sánh ngang bằng và so sánh không ngang
bằng. Mỗi tiểu loại so sánh trên lại được biểu đạt bằng các hình thức
cấu trúc với các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh khác nhau. Tham
khảo các nghiên cứu đi trước, kết hợp với kết quả khảo sát thực tế,
chúng tôi xin đưa ra các tiêu chí hình thức biểu đạt so sánh trong tiếng
Hán sẽ được khảo sát và phân tích nghiên cứu trong đề tài như sau:
• So sánh ngang bằng:
 A + R1 [ 丰 (hoặc các từ thay thế tương đương)] + B + R2 [ 丰丰
(hoặc các từ thay thế tương đương)] + (VP丰

22


 A + R1 [丰/丰 (hoặc các từ thay thế tương đương)] + B + R2 [丰丰/
丰丰/丰丰/ 丰丰…] + VP
 A + R [丰丰 (hoặc các từ thay thế tương đương)] + B
 A + VP, Y + R [丰] + VP
• So sánh không ngang bằng:
 A + R [丰] + B + VP
 Và một số cấu trúc biến thể
Ngoài ra là các cấu trúc phủ định với sự tham gia của các từ ngữ
phủ định tương ứng.
Chú thích: A là chủ thể so sánh, B là chuẩn so sánh, R là các từ
ngữ biểu thị quan hệ so sánh, VP là kết quả so sánh. Trong đó các từ
ngữ biểu thị so sánh R là dấu hiệu hình thức của phép so sánh. Chúng
có khi là do một từ đảm nhiệm, nhưng cũng có khi là do một cấu trúc
gồm hai từ ngữ khác nhau R1 và R2 đảm nhiệm (ví dụ như các từ đặt
trong []). Nội dung so sánh do thường xuyên hoặc bị tỉnh lược, hoặc
ẩn trong các thành tố ngữ nghĩa khác nên không được hiển thị bằng
một kí hiệu độc lập trong mô hình cấu trúc so sánh.
1.2. Tổng quan về các nội dung nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Giới thuyết
Đơn vị ngữ pháp trong tiếng Hán được chia thành những cấp độ
khác nhau và giữa chúng đều có mối quan hệ liên kết nhất định. Đơn
vị nhỏ nhất trong hệ thống đơn vị ngữ pháp tiếng Hán là “ngữ tố”
(hình vị). “Ngữ tố” là những kết hợp âm và nghĩa nhỏ nhất. Các ngữ
tố có thể tổ hợp thành các đơn vị lớn hơn gọi là cụm ngữ tố. Ngữ tố và
cụm ngữ tố đều được dùng để kiến tạo từ. Ví dụ trong từ “ 丰 丰 丰 ”
(phòng làm việc), gồm có ba ngữ tố “ 丰”, “丰” và “丰”. Trong đó “ 丰” và
“ 丰 ” tổ hợp thành cụm ngữ tố “ 丰丰 ” (làm việc), cụm ngữ tố “ 丰丰 ” này

cùng với ngữ tố “丰” (phòng) tổ hợp nên từ “丰丰丰” (phòng làm việc).
“Từ” là đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất có khả năng sử dụng độc lập
(hoặc độc lập tạo thành câu, hoặc độc lập đảm nhận thành phần câu,
hoặc có vai trò ngữ pháp nhất định). Các “từ” có thể kết hợp với từ
theo một cấu trúc ngữ pháp nhất định tạo thành cụm từ (từ tổ/đoản
ngữ). “Từ” và “cụm từ” đều là những đơn vị ngữ pháp dùng để tạo lập
câu.
Cụm từ trong tiếng Hán bao gồm cả cụm từ tự do và cụm từ cố
định. Cụm từ cố định bao gồm thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ, yết hậu
23


ngữ, ngạn ngữ. Các cụm từ cố định này về đặc điểm cấu trúc giống
như một cụm từ, thậm chí như một câu. Về mặt ngữ nghĩa nó lại
ngưng kết và khái quát như một khái niệm và đôi khi tương đương với
một từ. Ví dụ: 丰丰丰丰 (nghèo rớt mùng tơi) 丰丰丰丰 (thao thao bất tuyệt) ...
“Câu” là đơn vị ngữ pháp lớn nhất nhưng lại là đơn vị biểu đạt
nhỏ nhất, có chức năng diễn đạt một ý nghĩa hoàn chỉnh. Câu luôn
luôn mang một ngữ điệu nhất định. Như vậy có thể dùng sơ đồ sau để
miêu tả hệ thống đơn vị ngữ pháp trong tiếng Hán hiện đại và mối
quan hệ liên kết giữa chúng.

Ngữ tố

Cụm ngữ tố

Từ

Cụm từ


Câu
So sánh như chúng tôi đã trình bày ở trên là một phạm trù ngữ
nghĩa, ngữ pháp. Với vai trò như một biện pháp để phân biệt và quy
loại thế giới khách quan, khi thể hiện trong ngôn ngữ so sánh được
dùng ở phạm vi rất rộng. Nó có thể xuất hiện từ cấp độ đơn vị ngôn
ngữ “từ” cho đến đơn vị ngôn ngữ “câu”. Ví dụ:
- So sánh xuất hiện trong phạm vi một từ: 丰 丰 (đỏ như lửa), 丰 丰
(trắng như tuyết), 丰丰 (nhanh như bay)
- So sánh xuất hiện trong phạm vi một cụm từ: 丰丰丰丰丰丰丰丰丰 (tòa nhà
như cái cung điện ấy); 丰丰丰丰丰丰丰丰 (chạy còn nhanh hơn cả đạp xe); 丰丰丰
丰丰丰丰丰丰 (phúc như Đông Hải, thọ tựa Nam Sơn).
- So sánh xuất hiện trong phạm vi một câu (câu đơn hoặc câu
phức): 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 . (Đôi mắt long lanh của nó chẳng khác gì
như hai đốm sao kim); 丰丰丰丰丰丰丰丰 , 丰丰丰丰丰丰丰丰丰 . (Tay của tôi xanh lè,
tay của cô ấy cũng xanh lè.)
Qua trên có thể thấy, nghiên cứu các hình thức biểu đạt so sánh có
thể khảo sát từ các đơn vị “từ” đến đơn vị “câu”. Tuy nhiên, so với
đơn vị “cụm từ” và “câu” thì đơn vị “từ” có sự khác biệt nhất định về
tính ổn định về mặt cấu trúc và ngưng kết về mặt ngữ nghĩa. Phép so
sánh xuất hiện trong đơn vị “từ” ở một mức độ nào đó mang sắc thái
ước định và hầu như không xuất hiện các dấu hiệu hình thức biểu thị
quan hệ so sánh. Vì những lí do trên, trong phạm vi công trình này
24


chúng tôi chỉ khảo sát các hình thức biểu đạt so sánh trong đơn vị
“cụm từ” và đơn vị “câu”. Đơn vị “cụm từ” như trên đã trình bày bao
gồm cụm từ tự do và cụm từ cố định. Cụm từ tự do xét về mặt mức độ
linh hoạt trong cấu trúc chúng tương đối gần với đơn vị “câu”. Do vậy
khi khảo sát các hình thức biểu đạt so sánh chúng tôi không phân biệt

hai đơn vị ngôn ngữ này, và gọi chung là các hình thức biểu đạt so
sánh trong câu. Trong số các cụm từ cố định, “thành ngữ” là một đơn
vị ngôn ngữ được sử dụng phổ biến hơn cả. Thành ngữ có cấu trúc khá
đa dạng và để đảm nhận được chức năng biểu đạt súc tích của mình,
thành ngữ sử dụng các hình ảnh so sánh hết sức phong phú, tạo thành
một lớp thành ngữ riêng biệt gọi là “thành ngữ so sánh”. Do vậy khảo
sát các hình thức biểu đạt trong thành ngữ tiếng Hán được chúng tôi
tách riêng thành một chương quan trọng tại công trình này.
Như vậy, mặc dù so sánh được hiện diện trong hầu hết tất cả các
đơn vị ngôn ngữ tiếng Hán, nhưng trong phạm vi đề tài này, chúng tôi
chỉ tập trung khảo sát các hình thức biểu đạt so sánh xuất hiện trong
câu (gồm cả các cụm từ tự do) và các hình thức biểu đạt so sánh xuất
hiện trong thành ngữ tiếng Hán.
Hay nói cách khác, so sánh là một loại hình biểu đạt ở cấp độ câu,
đơn vị ngữ pháp lớn nhất trong hệ thống các đơn vị ngữ pháp trong
tiếng Hán. Tuy nhiên, như trên đã trình bày, ngoài câu ra, cụm từ cố
định với tính chất đặc thù của mình cũng có khả năng biểu đạt một ý
nghĩa hoàn chỉnh, chúng tham gia vào diễn đạt so sánh một cách phổ
biến, đặc biệt là thành ngữ. Do vậy ngoài câu biểu đạt so sánh ra,
trong đề tài chúng tôi cũng tiến hành khảo sát cả các thành ngữ so
sánh. Như vậy, câu so sánh và thành ngữ so sánh đều là đối tượng
khảo sát của đề tài.
Cũng cần nói thêm rằng, thực tế trong phạm trù so sánh còn có cả
so sánh tuyệt đối, song do phạm vi khuôn khổ của đề tài có hạn, chúng
tôi chỉ chủ yếu tập trung khảo sát các biểu thức so sánh ngang bằng và
so sánh không ngang bằng cùng các hình thức phủ định tương ứng.
Loại cấu trúc biểu thị so sánh tuyệt đối xin bàn ở một dịp khác. Ngoài
ra, mặc dù so sánh bao gồm cả so sánh logic và so sánh ví von, nhưng
trong quá trình khảo sát và phân tích cấu trúc hình thức, chúng tôi
không tách biệt hai loại so sánh này. Chỉ khi phân tích yếu tố ngữ

nghĩa, văn hóa và tri nhận chúng tôi mới phân biệt chúng. Khi khảo
sát thành ngữ so sánh, ngoài thành ngữ so sánh dạng hiện chúng tôi
25


còn khảo sát cả các thành ngữ so sánh dạng ẩn (không xuất hiện từ
ngữ chỉ quan hệ so sánh).
1.2.2. Tổng quan về các nội dung cụ thể
1.2.2.1. Tổng quan nghiên cứu về biểu thức so sánh trong câu tiếng
Hán
Biểu thức so sánh trong câu tiếng Hán đã được nghiên cứu nhiều
trong Hán ngữ cổ. Nhưng kể từ thập kỉ 80, 90 của thế kỉ trước thì biểu
thức so sánh lại càng được nhiều học giả Trung Quốc nghiên cứu một
cách tập trung và đạt được một số thành quả nhất định. 丰 丰 丰 (Hứa
Quốc Bình, 1996) trong bài báo “‘ 丰 ’丰丰丰丰丰丰 ” (Tổng quan nghiên cứu
câu chữ “bi”) đã tóm lược những thành tựu về nghiên cứu câu chữ “ 丰”
của các nhà nghiên cứu Hán ngữ Trung Quốc. 丰丰丰 (Hứa Quốc Bình)
cho rằng, câu chữ “丰” trong giai đoạn này được nghiên cứu chủ yếu về
mặt cấu trúc mà đại diện là 丰丰丰 (Lưu Nguyệt Hoa), 丰丰丰 (Nhiệm Hải
Ba), 丰丰丰 (Lí Lâm Định), 丰丰丰 (Lưu Huệ Anh), 丰丰丰 (Bao Pháp Lê).
Những nghiên cứu đi sâu vào ngữ nghĩa mặc dù chưa nhiều nhưng
cũng bắt đầu được chú trọng. Đại diện cho các nghiên cứu ở bình diện
này là 丰丰 (Mã Chân), 丰丰丰 (Thiệu Kính Mẫn), 丰丰丰 (Ân Chí Bình). 丰丰丰
(Hứa Quốc Bình) còn nhận định trong bài viết rằng, càng về sau các
nghiên cứu về ngữ dụng lại càng được các học giả quan tâm, tiêu biểu
là các học giả 丰丰丰 (Tương Nguyên Mậu), 丰丰丰 (Chu Tiểu Binh). Ngoài
ra còn một số học giả nghiên cứu về câu chữ “ 丰” từ góc độ lịch đại, đó
là 丰丰丰 (Đặng Văn Bân), 丰丰丰 (Hoàng Hiểu Huệ), 丰丰丰 (Sử Khâm Tín).
Như vậy theo tổng kết của 丰丰丰 (Hứa Quốc Bình) (1996) có thể thấy,
những nghiên cứu về câu chữ “ 丰 ” trong những thập kỉ 80, 90 của thế

kỉ trước chủ yếu tập trung vào bình diện cú pháp. Các bình diện ngữ
nghĩa, ngữ dụng tuy có được đề cập đến song vẫn còn nhiều vấn đề
cần bàn luận, như tần số sử dụng của các cấu trúc, điều kiện chuyển
đổi giữa các cấu trúc ... Đặc biệt những nghiên cứu xuất phát điểm và
mục đích là ứng dụng giảng dạy cho người học có tiếng mẹ đẻ không
phải tiếng Hán thì hầu như rất ít.
Phát huy thành quả nghiên cứu của giai đoạn thập kỉ 80, 90, vào
những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, những nghiên cứu về câu
so sánh trong tiếng Hán theo tìm hiểu của chúng tôi là hết sức phong
phú cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Có thể tóm tắt thành quả nghiên
cứu đó ở hai góc độ sau:
26


Nghiên cứu vĩ mô: đó là nghiên cứu liên quan đến cấu trúc tổng
thể của phép so sánh và sự đối ứng giữa tầng sâu ngữ nghĩa với hình
thức cấu trúc. Tuy nhiên nghiên cứu vĩ mô cho đến nay vẫn chưa có
nhiều trong các công trình nghiên cứu tiếng Hán. Điển hình là các
công trình sau: 1) “ 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (Quy luật quy chiếu của câu so
sánh tiếng Hán hiện đại). Tại công trình này tác giả 丰 丰 丰 (Hạ Hựu
Ninh) cho rằng cấu trúc cơ bản của câu so sánh trong tiếng Hán không
phức tạp, nhưng từ tầng sâu ngữ nghĩa sau khi chịu sự tác động của
các yếu tố ngoại cảnh khúc xạ ra hình thức cấu trúc thì có tới hàng
chục cách biểu đạt khác nhau. Các yếu tố ngoại cảnh đó có thể là do
cấu trúc lồng ghép, do thành tố ngữ nghĩa phức tạp hoặc do yếu tố ngữ
dụng tạo ra. Tuy nhiên, trong bài viết này tác giả chỉ đề cập đến một
cấu trúc so sánh không ngang bằng cơ bản duy nhất mà không khảo
sát các cấu trúc so sánh ngang bằng hoặc không ngang bằng khác. 2)
“ 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (Một số cấu trúc so sánh ngang bằng trong
tiếng Hán hiện đại), tác giả 丰丰 (Lưu Ảnh) tập trung khảo sát 5 mô hình

cấu trúc so sánh ngang bằng và quy luật ẩn hiện của thành tố “điểm so
sánh”. Bài báo có giá trị tham khảo tốt khi nêu được sự khác nhau về
ngữ nghĩa như sự tương đồng, tượng tự, tương cận và tương loại; sự
khác biệt về ngữ pháp, ngữ dụng giữa 5 mô hình cấu trúc so sánh
ngang bằng, từ đó nêu ra các điều kiện chuyển đổi giữa chúng. Tuy
nhiên, tác giả bài viết này trong khi xác định đối tượng khảo sát đã
không làm rõ đối tượng so sánh (chủ thể so sánh) và đối tượng tham
chiếu (chuẩn so sánh). Do vậy, có cấu trúc đưa vào theo chúng tôi là
không thuộc về câu biểu thị so sánh (ví dụ cấu trúc A 丰B丰VP). 3) “丰丰丰
丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (cuốn Cơ sở tri nhận ngữ nghĩa của phạm trù so
sánh trong tiếng Hán hiện đại), tác giả 丰丰 (Lưu Diệm) đã nghiên cứu
phạm trù so sánh từ góc độ ngữ nghĩa và tri nhận, kết hợp miêu tả cấu
trúc hình thức để cố gắng đưa ra những giải thích hợp lí nhất. Cuốn
sách này đã có nhiều đóng góp trong việc miêu tả ngữ nghĩa của phép
so sánh. Tuy nhiên, các cấu trúc so sánh được cuốn sách tập trung
nghiên cứu chỉ là các câu chữ “ 丰”, câu chữ “丰” và câu chữ “丰”. 4) “丰丰
丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (cuốn Nghiên cứu phạm trù so sánh hơn kém trong tiếng
Hán hiện đại), tác giả 丰丰丰 (Hứa Quốc Bình) một lần nữa nhấn mạnh
vai trò của tri nhận trong việc thiết lập phạm trù so sánh. Đồng thời
tác giả này đã khái quát và chia so sánh thành các loại với những tầng
bậc khác nhau: tầng thứ nhất gồm so sánh ngang bằng và so sánh
27


không ngang bằng; tầng thứ hai gồm so sánh thứ bậc, so sánh hơn, so
sánh kém, so sánh tương đồng, so sánh tương tự. Kết quả nghiên cứu
của hai cuốn sách nói trên thực sự đã mở ra cách nhìn mới trong
nghiên cứu biểu thức so sánh và đưa ra được nhiều gợi ý cho các
nghiên cứu tiếp theo.
Nghiên cứu vi mô: đó là những nghiên cứu đi sâu vào đặc điểm

ngữ nghĩa ngữ pháp của từng thành tố trong cấu trúc câu so sánh, phân
tích những nhân tố ảnh hưởng đến sự ẩn hiện của các thành tố đó.
Điển hình là các công trình sau: 1) “ 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (Phân tích
hai loại câu so sánh chủ yếu trong tiếng Hán hiện đại), tác giả 丰丰 (Hựu
Ninh) chủ yếu giới thiệu hai cấu trúc so sánh không ngang bằng trong
đó yếu tố tham chiếu lần lượt xuất hiện ở trạng ngữ và ở bổ ngữ. Tuy
nhiên, theo chúng tôi đây không phải thuộc hai cấu trúc so sánh khác
nhau, mà chỉ là hai mô hình biến thể của một cấu trúc so sánh không
ngang bằng khi dùng chữ “ 丰” mà thôi. Bài báo cũng đưa ra sơ đồ phân
biệt mức độ so sánh giữa các cấu trúc dùng “ 丰”, “丰丰”, “丰丰”, “丰丰”, “丰”.
Mặc dù những so sánh này vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái so sánh tĩnh,
nhưng đều có giá trị tham khảo nhất định. 2) “ 丰丰‘丰’丰丰丰丰丰丰丰丰丰” (Phân
tích ngữ dụng của câu chữ “丰” mang từ “丰”), tác giả 丰丰丰 (Thẩm Hồng
Đan) đã thảo luận khá chi tiết về các nhân tố ngữ cảnh, liên nhân. Tác
giả bài báo cho rằng, trong ngữ cảnh có chứa cấu trúc câu so sánh
mang phó từ “ 丰 ” thường thể hiện thái độ và những đánh giá chủ quan
của người phát ngôn. Đây là một trong những mô hình thảo luận vi
mô, giúp cho người sử dụng tiếng Hán hiểu tường tận hơn về ngữ
nghĩa cấu trúc của một mô hình câu cụ thể. 3) “‘ 丰 X 丰 丰 ’ 丰 丰 丰 丰 丰 丰 丰 ”
(Khảo sát cấu trúc “ 丰X丰丰” và các mô hình câu liên quan), tác giả 丰丰丰
(Lý Kiếm Phong) cho rằng cấu trúc “ 丰X丰丰” có thể biểu đạt một trong
hai ý nghĩa: so sánh logic và so sánh ví von. Hai ý nghĩa này lại liên
quan chặt chẽ đến từ loại của các yếu tố “ 丰 ” (hoặc các từ thay thế
tương đương) và yếu tố “丰丰”. 4) “丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 ——‘丰丰’丰, ‘丰丰’
丰丰 ‘ 丰丰 ( 丰 )’ 丰 ” (Định hướng nghĩa và sự khác biệt về mức độ chủ quan
của câu so sánh “ 丰丰”, “丰丰” và “丰丰 (丰)”), tác giả 丰丰 (Tưởng Tịnh) chủ
yếu phân biệt mức độ đánh giá chủ quan của người nói trong các biểu
thức so sánh phủ định khác nhau. Theo đó, mức độ chủ quan của biểu
thức mang “ 丰丰 ” lớn nhất, do vậy yếu tố so sánh thường là quan điểm,
cách nhìn, tư tưởng của người nói, ngữ khí từ vì thế cũng được dùng

nhiều hơn các cấu trúc khác. Ngược lại, mức độ chủ quan của biểu
28


thức chứa “ 丰 丰 ( 丰 )” thấp, các yếu tố so sánh thường là sự vật khách
quan, ngữ khí từ dùng do vậy cũng ít. Biểu thức so sánh với “ 丰丰 ” có
mức độ chủ quan nằm giữa hai cấu trúc trên. Điều đó cũng được thể
hiện qua đặc điểm hình thức của câu chứa các biểu thức so sánh phủ
định khác nhau này. 5) Cũng bàn về biểu thức so sánh dạng phủ định,
tác giả 丰丰丰 (Trương Hòa Hữu) của bài báo “ 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 ”
(Đặc điểm ngữ nghĩa trong hình thức phủ định của câu so sánh không
ngang bằng và những giải thích về mặt ngữ dụng) còn nhấn mạnh
thêm nghiên cứu dạng phủ định của biểu thức so sánh nhất thiết phải
kết hợp ba nhân tố: ngữ nghĩa, ngữ pháp và ngữ dụng. 6) “ 丰丰丰丰丰丰 ‘丰N
丰 N’ 丰 ” (Cấu trúc “ 丰 N 丰 N” trong tiếng Hán đương đại), tác giả 丰 丰 丰
(Điêu Yến Bân) chủ yếu giới thiệu chức năng ngữ pháp của cấu trúc
“ 丰N丰 N”, theo đó khả năng làm vị ngữ của nó chiếm ưu thế hơn khả
năng làm định ngữ, còn hầu như không thấy cấu trúc này xuất hiện với
vai trò là chủ ngữ, trạng ngữ hay bổ ngữ. Ngoài ra, tác giả cũng nêu
nhận xét cấu trúc “ 丰 N 丰 N” chủ yếu được dùng trong khẩu ngữ. 7)
Cũng bàn về cấu trúc “丰N丰N”, tác giả bài báo “‘ 丰N丰N’丰N丰丰丰丰丰——丰
丰丰丰丰丰丰” (Sự lựa chọn ngữ nghĩa của danh từ trong cấu trúc “ 丰N丰N” Bàn thêm về hiện tượng hình dung từ hóa danh từ) 丰丰丰 (Quách Hiểu
Hồng) phân tích thêm về ngữ nghĩa của danh từ và hiện tượng hình
dung từ hóa danh từ xuất hiện trong cấu trúc. 8) “ 丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰丰 ”
(Mối quan hệ về thành tố kết quả và điểm so sánh trong câu chữ “ 丰”),
tác giả 丰丰 (Từ Danh) cho rằng trong câu chữ “ 丰 ” thành tố so sánh và
thành tố tham chiếu (chuẩn so sánh) được đem ra so sánh trên một
điểm nội dung nào đó, vì vậy khi lí giải câu phải nắm bắt được “điểm
nội dung so sánh” đó. Song để nắm được điểm nội dung này thì kết
quả so sánh lại có vai trò rất quan trọng, bởi lẽ nhiều khi do tác dụng

của các nhân tố ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng khác nhau mà “điểm
nội dung so sánh” không được hiển thị trên bề mặt cấu trúc, lúc đó
nhờ khả năng kích hoạt nghĩa của kết quả so sánh mà chúng ta dễ
dàng nắm bắt được “điểm nội dung so sánh”. Có thể nói đây là một
bài báo phân tích ngữ nghĩa khá tỉ mỉ, là một trong những tài liệu quan
trọng mà đề tài tham khảo.
1.2.2.2. Tổng quan nghiên cứu về biểu thức so sánh trong thành ngữ
tiếng Hán
Trong tiếng Hán có một khái niệm được gọi là “tỉ” với nghĩa là “tỉ
giả, tỉ phương ư vật” (“tỉ” là lấy vật này so sánh với vật kia). Các sự
29


vật được dùng để giải thích cho sự vật khác thường phải là những sự
vật, hiện tượng hết sức thân thuộc, gần gũi và luôn tiềm tàng trong tư
duy của người Hán. Phép so sánh tu từ trong tiếng Hán bắt nguồn từ
thủ pháp “tỉ” trong Kinh thi - bộ tổng tập thơ đầu tiên của Trung
Quốc. Như vậy, chúng ta có thể hiểu từ xa xưa người Hán đã rất quan
tâm đến “tỉ” (so sánh). Lớp thành ngữ có cấu trúc của phép so sánh tu
từ (mà trong công trình này gọi là thành ngữ so sánh) không những
chứa đựng cấu trúc hình thái của Hán ngữ cổ - kim, mà còn ẩn chứa
đầy đủ cuộc sống xã hội và tư duy của dân tộc Hán. Quan trọng là vậy,
nhưng các công trình nghiên cứu về thành ngữ so sánh tiếng Hán cũng
chỉ xuất hiện mờ nhạt trong các chuyên luận từ vựng, chuyên luận
thành ngữ tiếng Hán nói chung, cũng như những công trình nghiên
cứu lẻ tẻ được đăng trên các tạp chí chuyên ngành ngôn ngữ. Có thể
kể đến các bài viết “ 丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (Phép so sánh trong thành ngữ Hán)
của tác giả 丰丰丰 (Thôi Hi Lượng), “ 丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (Các kiểu cấu trúc của
thành ngữ so sánh dạng ẩn) và “ 丰丰丰丰丰丰丰丰丰 ” (Phương thức giải thích
nghĩa thành ngữ so sánh tiếng Hán dạng ẩn) của tác giả 丰 丰 丰 (Long

Thanh Nhiên). Trong các bài viết này cũng giống như trong các
chuyên luận từ vựng, các tác giả mới chỉ dừng lại ở bước miêu tả cấu
trúc cơ bản của thành ngữ so sánh nói chung hoặc mô hình của thành
ngữ so sánh dạng ẩn. Các tác giả chưa đề cập tỉ mỉ và cụ thể đến đặc
điểm của từng tiểu loại và những hiện tượng biến thể của thành ngữ so
sánh tiếng Hán. Tác giả 丰丰丰 (Mạc Bành Linh) trong chuyên luận “ 丰丰丰
丰 丰 丰 丰 丰 ” (Thành ngữ tiếng Hán và văn hóa Hán), kết hợp giới thiệu
những nét văn hóa dân tộc trong thành ngữ nói chung với thành ngữ
so sánh tiếng Hán.Tuy đã có được một số thành tựu và gợi ý cho một
hướng đi khác, song chuyên luận cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ khái
quát chung chung, chưa đưa ra được những nhận định cụ thể.
Khi nghiên cứu về bản chất của thành ngữ so sánh, giới Hán ngữ
có cái nhìn khá thống nhất. Theo tác giả 丰丰丰 (Long Thanh Nhiên) cho
rằng “Thành ngữ so sánh là kiểu thành ngữ được tạo thành bởi cấu
trúc của so sánh” (1995, 29p). Cùng quan điểm như vậy, tác giả 丰丰丰
(Mạc Bành Linh) viết: “Thành ngữ so sánh là cách định danh so sánh
liên tưởng đến sự vật, hiện tượng giúp ta có thể hiểu được khái niệm
bằng những đặc trưng, tính chất chung giữa các yếu tố thông qua đơn
vị thành ngữ” (1997, 25p).
30


Việc đưa ra cấu trúc tổng quát của thành ngữ so sánh tiếng Hán,
thường theo hai quan điểm sau: Quan điểm thứ nhất, tác giả 丰 丰 丰
(Long Thanh Nhiên) (1995) và tác giả 丰丰丰 (Mạc Bành Linh) (1997)
cho rằng cấu trúc tổng quan của thành ngữ so sánh tiếng Hán là:
Thành tố so sánh + Từ ngữ so sánh + Thành tố chuẩn so sánh. Ví dụ:
丰丰丰丰 (tâm như tử hôi) “trái tim như tro lạnh” = trái tim nguội
lạnh
丰丰丰丰 (khẩu nhược huyền hà) = “mồm miệng như sông treo’ =

thao thao bất tuyệt
Trong hai ví dụ trên, 丰 (tâm), 丰 (khẩu) là thành tố so sánh; 丰 (như),
丰 (nhược) là từ ngữ so sánh; 丰丰 (tử khôi), 丰丰 (huyền hà) là thành tố
chuẩn so sánh.
Quan điểm thứ hai, tác giả 丰丰丰 (Tạ Kiến Bình) và 丰丰 (Chu Khiết)
cho rằng cấu trúc của thành ngữ so sánh cũng chứa đựng đầy đủ bốn
yếu tố như của cấu trúc so sánh tiếng Hán, và công thức tổng quát là:
Thành tố so sánh + (Kết quả so sánh) + Từ ngữ so sánh + Thành tố
chuẩn so sánh. Ví dụ:
丰丰丰丰 (đảm tiểu như thử) ‘mật nhỏ như chuột’ = nhát như cáy,
nhát như thỏ đế
丰丰丰丰 (khí tráng như ngưu) = khỏe như trâu, khỏe như voi
Ở hai ví dụ trên, 丰 (đảm), 丰 (khí) là thành tố so sánh; 丰 (tiểu), 丰
(tráng) là kết quả so sánh; 丰 (như) là từ ngữ so sánh; 丰 (thử ), 丰

31


(ngưu) là thành tố chuẩn so sánh.
Các tác giả khác khi nghiên cứu về thành ngữ so sánh tiếng Hán,
không đưa ra một cấu trúc cụ thể mà chỉ nhận xét rằng thành ngữ so
sánh có cấu trúc của so sánh tu từ, tức cấu trúc theo quan điểm thứ hai.
Đây cũng chính là cách nhìn nhận của chúng tôi về cấu trúc của thành
ngữ so sánh tiếng Hán được thể hiện trong đề tài này.
Tổng hợp các nghiên cứu về biểu thức so sánh trong câu tiếng
Hán và trong thành ngữ tiếng Hán mà chúng tôi có được cho thấy,
biểu thức so sánh đã được nhiều học giả Trung Quốc quan tâm và có
những thành tựu nghiên cứu quan trọng cả về vĩ mô và vi mô. Các
nghiên cứu này ở từng mức độ khác nhau đã phác thảo ra bức tranh
tổng thể cả về chiều rộng lẫn chiều sâu về các hình thức biểu đạt so

sánh trong tiếng Hán, là những tài liệu tham khảo quý giá cho các
công trình nghiên cứu tiếp theo thuộc địa hạt này. Tuy nhiên, cũng
phải nhận thấy một điều rằng, một số nghiên cứu do tập trung phân
tích quá kĩ ở một số thành tố nghĩa nhất định (như việc xác định nội
dung so sánh) nên có phần sa vào tư duy trừu tượng mà thực sự chỉ có
giá trị về mặt nghiên cứu mà không thật có giá trị ứng dụng, thậm chí
còn gây nhiễu trong quá trình tiếp thụ tiếng Hán như một ngoại ngữ.
Trong khi đó, những nghiên cứu trên phạm vi rộng thì lại không được
quan tâm đúng mức, đặc biệt là những nghiên cứu mà xuất phát điểm
cũng như mục đích nghiên cứu là để phục vụ cho đối tượng dạy và
học tiếng Hán như một ngoại ngữ thì còn khá hiếm hoi. Chính vì vậy,
các hình thức biểu đạt so sánh trong tiếng Hán thực chất vẫn còn
nhiều khoảng trống trông chờ các nghiên cứu mới từ nhiều góc độ
khác nhau, đặc biệt từ góc độ ứng dụng dạy học.
1.2.3. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài
Căn cứ vào nội dung giới thuyết và tổng quan về những thành quả
nghiên cứu đi trước, trong đề tài này chúng tôi trước hết tập trung
khảo sát các hình thức biểu đạt so sánh trong câu tiếng Hán hiện đại.
Các biểu đạt so sánh này bao gồm so sánh ngang bằng và so sánh
không ngang bằng. Với mỗi tiểu loại chúng tôi liệt kê toàn bộ các hình
thức cấu trúc, từ ngữ so sánh chuyên dùng, thống kê tính toán tỉ lệ
xuất hiện của các cấu trúc khác nhau trong phạm vi ngữ liệu nhất định
để thấy rõ tần số sử dụng của chúng. Với một số cấu trúc có tần số
xuất hiện cao, chúng tôi tiếp tục phân tích đặc điểm của các thành tố
như chủ thể so sánh, chuẩn so sánh, kết quả so sánh ... và các hình
32


thức phủ định tương ứng. Ngoài ra, thông qua khảo sát thực tế, chúng
tôi còn cố gắng tìm hiểu điều kiện chuyển đổi giữa các cấu trúc đồng

nghĩa, sự khác biệt về ngữ nghĩa, ngữ dụng giữa các cấu trúc đó.
Biểu đạt so sánh trong các ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Hán
nói riêng có dấu ấn sâu sắc trong các ngữ cố định, đặc biệt là trong các
thành ngữ. Ở đó không chỉ các nhân tố ngữ pháp, ngữ nghĩa, tu từ
được phản ánh một cách súc tích, mà còn là trầm tích văn hóa, thể
hiện bản sắc dân tộc hết sức phong phú qua việc lựa chọn các hình
tượng giữ vai trò vật tham chiếu trong các thành ngữ so sánh. Chính vì
vậy, khảo sát các thành ngữ so sánh tiếng Hán hiện đại (nguồn ngữ
liệu chủ yếu lấy từ Từ điển thành ngữ) và các nhân tố văn hóa thể hiện
trong đó cũng là một nội dung được chúng tôi đặc biệt quan tâm và
dành khối lượng giấy mực đáng kể để giới thiệu trong đề tài.
Để ứng dụng thành quả nghiên cứu vào giảng dạy tiếng Hán cho
học sinh Việt Nam và giảng dạy tiếng Việt cho học sinh Trung Quốc, ở
một chừng mực nhất định trong đề tài chúng tôi sẽ tiến hành liên hệ
các biểu thức so sánh trong tiếng Hán với các biểu thức so sánh trong
tiếng Việt. Hình thức thực hiện nội dung này là sau khi thống kê các
biểu thức so sánh trong tiếng Hán chúng tôi sẽ dựa trên khung của các
biểu thức tiếng Hán để đối chiếu với tiếng Việt. Từ đó tìm ra các điểm
tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ trong phạm trù so sánh.
Hơn nữa, trong phạm vi cho phép, chúng tôi cố gắng từ các góc độ
khác nhau, tìm ra các nguyên nhân lí giải cho những tương đồng và
khác biệt này.
Kiểm nghiệm giá trị thực tiễn những kết quả nghiên cứu thu được
bằng cách phát phiếu điều tra tới hai đối tượng học sinh Việt Nam học
tiếng Hán và học sinh Trung Quốc học tiếng Việt, thống kê, phân tích
lỗi sai của người học trong địa hạt này, chỉ ra nguyên nhân lỗi và các
biện pháp khắc phục cũng như một số kiến nghị trong giảng dạy ... là
nội dung cuối cùng chúng tôi đề cập đến trong đề tài. Hy vọng với nội
dung này chúng tôi sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
1.3. Tiểu kết

So sánh là một phạm trù ngữ nghĩa - ngữ pháp. So sánh là một
phương pháp để con người nhận biết thế giới khách quan. Phạm trù so
sánh phản ánh trong ngôn ngữ tạo nên các hình thức biểu đạt so sánh.
33


Mỗi ngôn ngữ khác nhau, do tác động của nhiều nhân tố khác nhau mà
có những hệ thống biểu đạt so sánh không hoàn toàn giống nhau.
Tiếng Hán là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, phân tiết tính.
Trật tự từ và hư từ là một trong những thủ pháp ngữ pháp chủ yếu
trong tiếng Hán. Chính vì vậy, các cách biểu đạt so sánh trong tiếng
Hán cũng phản ánh đậm nét hai đặc điểm này. Nghiên cứu các hình
thức biểu đạt so sánh trong tiếng Hán đã có những thành tựu đáng kể.
Các học giả trên cơ sở phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa, cấu trúc
của cả cấu trúc hoặc một thành tố cụ thể trong cấu trúc đã góp phần
tạo dựng nên một bức tranh khá phong phú về biểu đạt so sánh trong
tiếng Hán. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cho thấy vẫn thiếu một
sự khái quát tổng thể về các hình thức biểu đạt so sánh trong tiếng
Hán, bao gồm cả so sánh ngang bằng và so sánh không ngang bằng, so
sánh logic và so sánh ví von. Điều đó đặt ra một nhu cầu cần thiết phải
có thêm các công trình nghiên cứu mang tính tổng quan hơn để vừa
tổng kết các thành quả nghiên cứu của những học giả đi trước, vừa bổ
sung và chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong địa hạt này.
Mặt khác, đứng từ góc độ đối chiếu ngôn ngữ và ứng dụng vào dạy
học thì nghiên cứu các hình thức biểu đạt so sánh tiếng Hán, có đối
chiếu với tiếng Việt ở một chừng mực nhất định nhằm mục đích phục
vụ dạy học tiếng Hán, tiếng Việt như một ngoại ngữ thì đến nay vẫn
còn là một khoảng trống và đang mong chờ những thành quả nghiên
cứu mới. Sau khi phân tích các cơ sở lí luận và thực tiễn nêu trên,
chương I đã đề ra nội dung chính của đề tài là khảo sát các hình thức

biểu đạt so sánh trong tiếng Hán hiện đại (bao gồm cả so sánh ngang
bằng và so sánh không ngang bằng) xuất hiện trong câu và trong thành
ngữ. Bên cạnh sự miêu tả về cấu trúc, cố gắng phân tích các nhân tố
văn hóa tư duy thể hiện trong các hình thức biểu đạt so sánh mà chủ
yếu là ở các thành ngữ so sánh. Đồng thời để ứng dụng thành quả
nghiên cứu vào giảng dạy tiếng Hán cho học sinh Việt Nam và giảng
dạy tiếng Việt cho học sinh Trung Quốc, ở một chừng mực nhất định
chúng tôi sẽ còn chú trọng tiến hành liên hệ giữa tiếng Hán và tiếng
Việt, tìm ra những tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ trong
phạm vi biểu đạt so sánh. Với những nội dung ở chương I, chúng tôi
hy vọng sẽ cung cấp cơ sở lí luận, thực tiễn và sự định hướng cho
những nội dung sẽ được triển khai ở các chương tiếp theo.
34


Chương 2
CÁC HÌNH THỨC BIỂU ĐẠT SO SÁNH
TRONG CÂU TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI

Trong chương 2 này, chúng tôi tập trung khảo sát các hình thức
biểu đạt so sánh (các biểu thức so sánh) ngang bằng và không ngang
bằng xuất hiện trong câu tiếng Hán hiện đại. Ở mỗi loại hình so sánh
này chúng tôi cố gắng liệt kê các biểu thức thường dùng, trong đó có
những biểu thức được xác định là biểu thức cơ bản, còn các biểu thức
khác được coi là những biểu thức biến thể. Sự khác biệt về ngữ nghĩa
và cách dùng giữa các biểu thức cơ bản cũng như giữa những biểu
thức cơ bản và biểu thức biến thể trong một chừng mực nhất định
cũng được chúng tôi đề cập đến tại chương này. Do sự giao thoa nhất
định về cấu trúc nên hình thức phủ định của biểu thức so sánh ngang
bằng và so sánh không ngang bằng trong câu tiếng Hán sẽ được chúng

tôi trình bày gộp với nhau và tách riêng thành một phần độc lập sau
khi giới thiệu về các biểu thức so sánh ở dạng khẳng định.
2.1. Hình thức biểu đạt so sánh ngang bằng
2.1.1. Các biểu thức so sánh ngang bằng
Khái niệm ngang bằng chúng tôi dùng ở đây có ngoại diên khá
rộng, bao gồm cả sự giống nhau tuyệt đối và giống nhau tương đối.
Như tại chương 1 chúng tôi đã có dịp trình bày các tiêu chí nhận biết
về hình thức biểu đạt so sánh, theo đó, so sánh ngang bằng được thể
hiện trên bốn dạng biểu thức sau:
(I) A + R1 [丰 (hoặc các từ thay thế tương đương)] + B + R2 [丰
丰 (hoặc các từ thay thế tương đương)] + (VP)
(II) A + R1 [ 丰 /丰 (hoặc các từ thay thế tương đương)] + B + R2
[丰丰/丰丰/丰丰/丰丰…] + VP
(III) A + R [丰丰 (hoặc các từ thay thế tương đương)] + B
(IV) A + VP, Y+ R [丰] + VP
Dưới đây chúng tôi lần lượt giới thiệu đặc điểm cấu trúc của bốn
biểu thức so sánh ngang bằng nói trên. Tuy nhiên, với thành tố biểu thị
quan hệ so sánh trong biểu thức chúng tôi chỉ sử dụng kí hiệu R khi
khái quát kết luận, còn trong quá trình trình bày chúng tôi thể hiện
luôn bằng các từ ngữ cụ thể.
2.1.1.1. Biểu thức I: A 跟 B 跟跟 (VP)
 Cấu trúc cơ bản
35


×