Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN - Sử dụng trực quan trong dạy Lịch sử 9 (Năm học 2006 - 2007)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.7 KB, 14 trang )

Tác giả: Chu Văn Việt
A. đặt vấn đề
I. Lời mở đầu
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc trng của bộ môn Lịch sử và yêu cầu đổi
mới giáo dục, cũng nh thực tiễn dạy học bộ môn, việc biên soạn sách giáo khoa lịch sử
trung học cơ sở có nhiều đổi mới về nội dung và phơng pháp. Sách giáo khoa lịch sử
hiện nay đợc biên soạn không chỉ là tài liệu giảng dạy của giáo viên mà còn là tài liệu
học tập ở lớp và ở nhà của học sinh theo định hớng mới. Đó là, học sinh không phải học
thuộc lòng sách giáo khoa mà cần phải tìm tòi, nghiên cứu những sự kiện có trong sách
giáo khoa dới sự tổ chức, hớng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Từ đó, các em tự hình thành
cho mình những hiểu biết mới về Lịch sử. Do đó, những thông tin trong sách giáo khoa
một mặt đợc trình bày dới dạng nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ. Mặt khác, kèm theo
những thông tin là những câu hỏi, bài tập yêu cầu học sinh thực hiện các hoạt động học
tập khác nhau, trong đó đặc biệt là sự giảm tải 25% số học sinh kênh chữ, tăng đáng kể
số lợng kênh hình. Kênh hình trong sách giáo khoa không chỉ minh họa, làm cơ sở cho
việc tạo biểu tợng Lịch sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Bên
cạnh đó, một số bài viết trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để ngỏ, cha viết
hết, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, sẽ tìm tòi, khám
phá những kiến thức cần thiết liên quan đến nội dung bài học mà tác giả sách giáo khoa
muốn truyền tải đến học sinh .
Kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử gồm nhiều loại: bản đồ, sơ đồ, hình vẽ,
tranh ảnh Lịch sử. Mỗi loại có một phơng pháp lịch sử riêng. Song tựu chung lại có thể
sử dụng trong trình bày kiến thức mới, cũng cố kiến thức đã học, ra bài tập về nhà và
trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Riêng đối với hình ảnh, tranh ảnh
Lịch sử có hai dạng dùng để minh họa cho kênh chữ hoặc với t cách là nguồn cung cấp
thông tin, kiến thức cho ngời học.
Với việc đổi mới nội dung, chơng trình và phơng pháp biên soạn sách giáo khoa
Lịch sử nh vậy, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải đổi mới phơng pháp dạy học. Trong
đó, giáo viên với t cách là ngời tổ chức, hớng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của
học sinh trong quá trình học tập, cần nắm đợc những điểm mới của sách giáo khoa nói
chung, hệ thống kênh hình một nguồn kiến thức quan trọng trong sách giáo khoa nói


riêng. Qua những năm trực tiếp giảng dạy môn lịch sử trung học cơ sở, và hai năm thực
hiện sách giáo khoa Lịch sử lớp 9 theo tinh thần đổi mới, bằng những kinh nghiệm ít ỏi
tích lũy đợc tôi mạnh dạn đa ra sáng kiến: Ph ơng pháp sử dụng đồ dùng trực quan
tạo hình trong dạy học Lịch sử 9. Do thời gian, khuôn khổ của sáng kiến vì vậy tác
giả không trình bày hết đợc nội dung và phơng pháp khai thác, sử dụng hết 65 tranh ảnh
trong sách giáo khoa lịch sử 9. Đề tài này chỉ đa ra những định hớng chung về phơng
pháp và và giới thiệu phơng pháp sử dụng một số tranh ảnh mới đợc đa vào ở một số bài
bên cạnh những tranh ảnh đã có từ trớc. Nếu có điều kiện tôi xin đợc trình bày tiếp. Tôi
hy vọng những sáng kiến nhỏ này sẽ giúp ít đợc phần nào cho giáo viên giảng dạy môn
Lịch sử ở trờng trung học cơ sở, phần nào giảm bớt khó khăn khi khai thác, sử dụng hệ
thống kênh hình trong sách giáo khoa.
Tác giả: Chu Văn Việt
1
II. thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
1. Thực trạng
Để đáp ứng yêu cầu về nhận thức lý luận nắm vững nội dung khoa học các loại tài
liệu trực quan, phơng pháp sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử, cần thiết phải có
một chuyên khảo ngắn gọn, có chất lợng vừa nâng trình độ về lịch sử và nghiệp vụ
cho giáo viên mà lại thiết thực, cụ thể. Đã có một số bài viết, một số tài liệu cung cấp
cho giáo viên và học sinh những hiểu biết cần thiết nh vậy, song còn ít và cha đủ, cha có
hệ thống.
Đã có nhiều cách giải đáp khác nhau trong việc sử dụng sách giáo khoa trong dạy
học Lịch sử ở trờng trung học cơ sở nhằm nâng cao hiệu hiệu quả giờ học. Hầu hết
chúng ta đều thống nhất rằng; chỉ có thể sử dụng sách giáo khoa khi cả giáo viên và học
sinh hiểu sâu sắc bài viết (kênh chữ) cũng nh tranh, ảnh, biểu đồ, sơ đồ của sách giáo
khoa. Tuy nhiên, việc khai thác nội dung kênh hình trong sách giáo khoa là biện pháp
quan trọng để nâng cao chất lợng dạy học lại cha đợc quan tâm một cách đầy đủ. Trong
giờ dạy Lịch sử THCS vẫn còn có giáo viên coi việc sử dụng kênh hình là nhằm minh
họa cho giờ dạy thêm sinh động, hoặc nếu có sử dụng khai thác thì phơng pháp và nội
dung khai thác cha phù hợp. Vì vậy việc khai thác kiến thức trong kênh hình cha đợc

chú trọng phát huy. Qua các lần dự giờ tại một số trờng tôi thấy nguyên nhân của tình
trạng đó có nhiều, song chủ yếu là:
Một là: Chúng ta mới chỉ chú ý đến kênh chữ của sách giáo khoa, coi đây là
nguồn cung cấp kiến thức Lịch sử duy nhất trong dạy học mà không thấy rằng kênh
hình không chỉ là nguồn kiến thức quan trọng, cung cấp một lợng thông tin đáng kể, mà
còn là phơng tiện trực quan có giá trị giúp bài học Lịch sử trở nên sinh động hơn, hấp
dẫn hơn, gây hứng thú học tập hơn cho học sinh.
Hai là: Không ít giáo viên cha hiểu rõ xuất xứ, nội dung ý nghĩa của kênh hình
trong sách giáo khoa. Trong khi đó lần đổi mới sách giáo khoa lần này số lợng kênh
hình đã đợc tăng lên đáng kể so với trớc. Riêng tranh ảnh đã có 65 tranh ảnh, ngoài ra
còn sơ đồ, lợc đồ...
Ba là: Có những giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị, nội dung kênh hình nhng lại
ngại sử dụng, sợ mất thời gian, hoặc sử dụng mang tính hình thức, minh họa cho bài
giảng.
2. Kết quả, hiệu quả thực trạng trên.
Từ việc nhận thức và xác định về vị trí, ý nghĩa của việc sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học lịch sử cha đúng đã dẫn đến tình trạng tranh ảnh, bản đồ đợc cấp
nhiều nhng có nơi tranh ảnh vẫn còn nằm im lìm trong th viện của nhà trờng từ nguyên
nhân trên, hoặc nếu tranh ảnh có đợc sử dụng thì đó là các tiết thao giảng có ngời dự
giờ, khi sử dụng thì còn mang tính chất minh họa. Vì thế trong giờ giảng, giáo viên
không khai thác hết nội dung kiến thức lịch sử mà bức tranh, ảnh chứa đựng, trong khi
đó kênh chữ không đề cập đến. Từ đó dẫn đến không tạo đợc biểu tợng cho học sinh,
không cụ thể hóa các sự kiện, không khắc phục đợc tình trạng hiện đại hóa Lịch sử
của học sinh. Học sinh học song một
Tác giả: Chu Văn Việt
2
sự kiện lịch sử chỉ là thuộc lòng kiểu học gạo, không hiểu bản chất sâu sắc sự kiện lịch
sử, không nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội. Kết quả của những giờ học
trên dẫn đến không giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch
sử, đồng thời không hình thành đợc khái niệm lịch sử, không giúp các em phát triển khả

năng quan sát, trí tởng tợng, t duy về ngôn ngữ của học sinh. Những giờ học nh vậy
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh không thích học Lịch sử, chất l-
ợng điểm thi môn lịch sử những năm gần đây thấp.
Qua điều tra một số học sinh ở một số trờng, khi tôi hỏi các em hãy mô tả hay em
hiểu biết gì về các bức tranh, ảnh ở những bài các em đã học thì hầu hết nhận đợc câu
trả lời đó là: Các em đọc lại phần ghi chú ở dới bức tranh chứ cha nêu đợc nội dung bức
tranh phản ánh nội dung gì về Lịch sử. Qua đó thấy rằng đã đến lúc chúng ta cần phải
nghiêm túc xem xét lại việc xác định vị trí, ý kiến, phơng pháp sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học lịch sử ở trờng THCS hiện nay.
Từ thực trạng trên, để công việc sử dụng đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy
học lịch sử 9 THCS đạt hiệu quả tốt hơn, tôi mạnh dạn cải tiến nội dung đa ra " Phơng
pháp sử dụng đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy học lịch sử 9"nh sau.
B. Giải quyết vấn đề.
I. Các giải pháp thực hiện.
Trớc hết, giáo viên phải xác định vị trí, ý nghĩa của đồ dùng trực quan nói chung
và đồ dùng trực quan tạo hình nói riêng trong dạy học lịch sử. Bởi vì nguyên tắc trực
quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học, nhằm tạo cho học sinh
những biểu tợng và hình thành khái niệm. Sử dụng đồ dùng trực quan là góp phần quan
trọng tạo biểu tợng cho học sinh, là chỗ dựa để học sinh hiểu biết sâu sắc bản chất của
sách giáo khoa lịch sử, là phơng tiện có hiệu lực để hình thành khái niệm lịch sử.
Giáo viên phải phân loại đợc các nhóm đồ dùng trực quan. Đâu là đồ dùng trực
quan hiện vật, đồ dùng trực quan tạo hình, đồ dùng trực quan quy ớc. Bởi có phân loại
đợc các nhóm đồ dùng trực quan này thì giáo viên mới lựa chọn đợc các phơng pháp
phù hợp để khai thác và khi sử dụng mới linh hoạt và sáng tạo. Đồng thời để sử dụng
tốt, giáo viên phải xác định rõ nội dung lịch sử đợc phản ánh qua đồ dùng trực quan.
Phải dự kiến và xác định sử dụng chúng trong từng bài cụ thể.
Giáo viên phải tổ chức, hớng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh
trong quá trình quan sát, tìm hiểu nội dung lịch sử đợc phản ánh qua tranh, ảnh lịch sử.
Muốn vậy trong kế hoạch bài giảng của giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo các thao
tác, hệ thống câu hỏi để nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.

Làm sao để học sinh hiểu đồ dùng trực quan nhằm nâng cao chất lợng dạy học lịch sử,
gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó là chiếc cầu nối giữa quá khứ với hiện tại.
Tác giả: Chu Văn Việt
II . Các biện pháp để tổ chức thực hiện.
1. Các nguyên tắc khi sử dụng.
Đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy học lịch sử 9 có nhiều loại: đồ phục chế,
mô hình, sa bàn, tranh ảnh lịch sử, mỗi loại có một phơng pháp sử dụng riêng. Song tựu
3
chung lại có thể sử dụng trong trình bày kiến thức mới, cũng cố kiến thức đã học, ra bài
tập về nhà và trong kiểm tra, riêng đối với hình vẽ, tranh ảnh lịch sử lại có hai dạng:
dùng để minh họa cho kênh chữ hoặc với t cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức
cho ngời đọc.
Khi sử dụng những kênh hình đợc trình bày với t cách để minh họa cho kênh chữ
thì việc sử dụng chúng chỉ dừng lại ở việc nhằm minh họa làm cho nội dung bài giảng
sinh động, phong phú, hấp dẫn hơn. Giáo viên không sử dụng chúng trong cũng cố bài
hay trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Khi sử dụng những kênh hình
loại này, giáo viên không đặt vấn đề bằng các câu hỏi gợi mở để học sinh giải quyết vấn
đề. Giáo viên cũng không nên cho học sinh đứng lên thuyết trình về nội dung của kênh
hình đó, vì nó vợt quá sức của các em. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh về
nhà tìm hiểu trớc nội dung của chúng để các em có biểu tợng ban đầu về các sự kiện,
hiện tợng, nhân vật lịch sử, thể hiện trong kênh hình. Tuy nhiên, đây là một việc làm
khó khăn đối với học sinh vùng nông thôn, miền núi. Do vậy khi giao nhiệm vụ cho học
sinh, giáo viên phải tùy vào từng điều kiện, hoàn cảnh học tập của học sinh để vận dụng
cho phù hợp.
Trong giờ giảng bài mới, vì điều kiện thời gian không cho phép nên giáo viên chỉ
tập chung giới thiệu, thuyết minh một số hình ảnh, tranh ảnh, tranh vẽ, còn những hình
ảnh khác, giáo viên chỉ nên dừng lại ở việc giới thiệu cho học sinh quan sát sơ lợc vài
nét chính để học sinh nắm đợc biểu tợng ban đầu về chúng mà thôi. Tránh tình trạng ôm
đồm, hình vẽ nào, tranh ảnh nào cũng giới thiệu mô tả thì không đủ thời gian. Ví nh bài
33: Việt Nam trên đờng đổi mời đi lên chủ nghĩa xã hội (từ năm 1986 đến năm 2000).

Đây là bài có rất nhiều tranh, ảnh. Nếu tranh ảnh nào cũng khai thác kỹ sẽ không đủ
thời gian. Đây chỉ là một bài trong số rất nhiều bài tơng tự nh vậy.
Nội dung thuyết minh kênh hình phải phong phú, sinh động hấp dẫn, kết hợp với
lời nói truyền cảm sẽ có sức thuyết phục cao đối với học sinh, tạo nên ở các em cảm xúc
thực sự, nội dung bài giảng vì thế cũng sinh động, hấp dẫn hơn, học sinh sẽ trở nên yêu
thích học tập môn Lịch sử hơn.
Thông thờng, kênh hình nói chung và hình vẽ, tranh ảnh nói riêng đợc trình bày
với t cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức đợc in kèm theo câu hỏi để học sinh tự
làm việc với sách giáo khoa dới sự hớng dẫn của giáo viên, nhằm rút ra những kiến
thức Lịch sử nhất định. Để sử dụng tốt trớc hết giáo viên phải xác định rõ đợc nội dung
Lịch sử đợc phản ánh qua tranh ảnh .Tiếp theo giáo viên phải dự kiến và xác định phơng
pháp sẽ sử dụng chúng trong từng bài cụ thể. Phơng pháp sử dụng trong dạy học loại
kênh hình này là giáo viên hớng dẫn học sinh quan sát. Đầu tiên là quan sát tổng thể rồi
mới quan sát chi tiết kết hợp với miêu tả, phân tích, đàm thoại thông qua hệ thống câu
hỏi gợi mở của giáo
Tác giả: Chu Văn Việt
viên để học sinh rút ra đợc những kết luận. Khi tìm hiểu nội dung kênh hình qua các câu
hỏi gợi mở giáo viên có thể tổ chức cho các em làm việc cá nhân hoặc theo nhóm hoặc
toàn lớp.
2. Cách khai thác, tiếp cận Lịch sử qua tranh ảnh.
Trớc hết giáo viên phải xác định nguồn gốc và thời điểm xuất hiện tài liệu. Có
nghĩa là nội dung xuất sứ của bức ảnh, bức ảnh phản ánh toàn diện hay một mặt, một
4
khía cạnh nào đó của Lịch sử. Nội dung của tranh ảnh phản ánh sự kiện, hiện tợng, tiến
trình lịch sử nào, ở khía cạnh nào, trung thành đến đâu. Tranh hay ảnh gốc bao giờ cũng
là loại tài liệu có giá trị bậc nhất.
Sau khi xác định nguồn gốc, thời điểm nh trên, ta có thể gợi ý cho học sinh nội
dung và cách thể hiện những nội dung đó của tác giả trên tranh ảnh.
- Những nhân vật chính trong tranh ảnh họ là ai? Họ đại diện cho ai? ...
- Tiếp theo nhằm giáo dục học sinh đi sâu vào nội dung tranh ảnh.

3. Những kỹ năng khi khai thác tranh ảnh.
Hình thành kỹ năng quan sát, nhận xét
Hình thành kỹ năng mô tả tờng thuật.
Hình thành kỹ năng phân tích, nhận định, đánh giá.
4. Các bớc làm việc với đồ dùng trực quan tạo hình.
Bớc 1. Cho học sinh quan sát tranh, ảnh để học sinh xác định một cách khái quát
nội dung tranh ảnh cần khai thác.
Bớc 2. Giáo viên nêu câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội
dung của tranh ảnh.
Bớc 3. Học sinh trình bày những kết quả tìm hiểu của mình về tranh ảnh, học sinh
khác bổ sung hoàn thiện.
Bớc 4. Giáo viên nhận xét, bổ sung, học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai
thác tranh ảnh cung cấp cho học sinh về kiến thức Lịch sử.
5 . Hớng dẫn khai thác một số tranh ảnh cụ thể:
Bài 1: Liên Xô và các nớc Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những
năm 70 của thế kỷ XX.
Hình 1: Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Liên Xô.
* Phơng pháp sử dụng:
Đây là bức ảnh chụp vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài ngời do Liên Xô phóng lên
vũ trụ thành công năm 1957. Giáo viên sử dụng kênh hình này để dạy mục: I. ý 2
Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (1950 đến nữa
đầu những năm70 của thế kỷ XX).
Hoạt động 1: Giáo viên hớng dẫn học sinh quan sát toàn bộ bức tranh gợi ý bằng
một số câu hỏi nh sau:
Tác giả: Chu Văn
Việt
Em biết gì về vệ tinh nhân tạo do Liên Xô phóng lên vũ trụ?
Việc Liên Xô là nớc đầu tên phóng thành công vệ tinh nhân tạo lên vũ trụ cho
chúng ta biết điều gì ?
5

Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát và trả lời những câu hỏi
trên bằng khả năng hiểu biết của các em.
Hoạt động 3: Giáo viên tập chung sự chú ý của các em vào bức ảnh, giáo viên
tiến hành miêu tả:
Trong kế hoạch 5 năm và 7 năm về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Liên Xô đã thu đợc những thắng lợi to lớn, đạt đợc những thành tựu về
kinh tế , khoa học kỹ thuật và vũ trụ".
Trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của
Xiômcốpxki (ông tổ của ngành khoa học vũ trụ). Ngày 4/10/1957, Liên Xô đã phóng
thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của trái đất mang tên "Xpútnic - 1" mở ra kỷ
nguyên con ngời chinh phục vũ trụ.
Vệ tinh đợc phóng lên bởi một tên lửa do Colô- lép chế tạo, bay quanh trái đất
theo một quỹ đạo hình bầu dục, điểm thấp nhất cánh mặt đất 227km, điểm cao nhất
cách mặt đất 94km, thời gian vệ tinh đợc phóng lên bay quanh trái đất hết 1giờ 36 phút.
Trải qua 92 ngày đêm , "Xpútnic-1"( nặng 83,6kg) đã quay 1400 vòng quanh trái đất,
bay đợc 60 triệu km và tự bốc cháy trong khí quyển ngày 1/4/1958. Những số liệu thu đ-
ợc khi vệ tinh bay quanh trái đất là những tài liệu khoa học có giá trị về những lớp khí
quyển trên cao , về cấu tạo của tầng điện ly và những hiện tợng vật lý địa cầu khác.
Hoạt động 4: Cuối cùng giáo viên đặt câu hỏi cho cả lớp: các em có nhận xét gì
về những thành tựu khoa học kỹ thuật (vũ trụ) mà nhân dân Liên Xô đạt đợc trong công
cuộc XDCNXH?
Bài 2: Liên Xô và các nớc Đông Âu Từ những năm 70 đến đầu
những năm 90 của thế kỷ XX.
Hình 3: Cuộc biểu tình đòi li khai và độc lập ở Lít va.
* Phơng pháp sử dụng:
Đây là bức ảnh chụp về một cuộc biểu tình đòi độc lập của nhân dân Lít va muốn
tách ra khỏi Liên bang Xô Viết năm 1991. Giáo viên sử dụng bức ảnh này để dạy mục: I
- Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Xô Viết (từ nửa sau những năm 70 đến
những năm 90 của thế kyXX).
Hoạt động 1: Giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh và đặt một số câu hỏi gợi

mở:
- Những ngời dân Lít va trong bức ảnh đang làm gì ?
- Nét mặt của họ nh thế nào ?
- Bức ảnh cho ta biết thông tin gì về đát nớc Liên Xô trong những năm 90 của
thế kỷ XX.
Tác giả: Chu Văn
Việt
- Tại sao lại có cuộc biểu tình này ?
6

×