CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI
NGHIỆM THEO HƯỚNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC TRÍ TUỆ
VỚI GIÁO DỤCKĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC CƠ SỞ
Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Các công trình nghiên cứu về hoạt động trải nghiệm
cho học sinh
Từ giữa thế kỉ XX, nhà khoa học giáo dục nổi tiếng
người Mĩ, John Dewey, với tác phẩm Kinh nghiệm và Giáo
dục (Experience and Education) [11] đã chỉ ra hạn chế của
giáo dục nhà trường và đưa ra quan điểm về vai trò của kinh
nghiệm trong giáo dục. Với triết lí giáo dục đề cao vai trò của
kinh nghiệm, Dewey cũng chỉ ra rằng, những kinh nghiệm có
ý nghĩa giáo dục giúp nâng cao hiệu quả giáo dục bằng cách
kết nối người học và những kiến thức được học với thực tiễn.
Kolb (1984) cũng đưa ra một lí thuyết về học từ trải nghiệm
(Experiential learning) [15], theo đó, học là một quá trình
trong đó kiến thức của người học được tạo ra qua việc chuyển
hóa kinh nghiệm; nghĩa là, bản chất của hoạt động học là quá
trình trải nghiệm.
Theo các nhà giáo dục nước Anh, hoạt động ngoài giờ
lên lớp giúp học sinh gắn kiến thức trên ghế nhà trường vào
cuộc sống. Bà Ruth Kelly - Bộ trưởng giáo dục Anh nhận xét:
“Các hoạt động giáo dục ngoài giờ, nhất là các hoạt động
ngoại khóa đã làm giàu chương trình học, tạo dựng niềm tin
và củng cố kỹ năng cho học sinh” [3, tr.15].
Các nhà giáo dục Nhật Bản nhấn mạnh tầm quan trọng
của các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Ở Nhật Bản, hầu hết các
trường học sinh đều học bán trú do vậy thời gian dành cho
hoạt động ngoài giờ lên lớp khá nhiều. Tuy nhiên họ sử dụng
các hoạt động này chỉ nhằm giáo dục truyền thống và giáo
dục đạo đức cho học sinh.
Cai-rốp nhà giáo dục người Nga - đã viết “Trong kế
hoạch công tác của nhà trường cần dành một mục riêng cho
hoạt động ngoài giờ lên lớp. Mục đó gồm các yếu tố sau: điều
kiện và cơ sở vất chất cho hoạt động ngoài giờ năm học tới,
các hoạt động ngoại khoá của nhà trường, của lớp; phân
phối lực lượng và định kỳ hạn cho từng kế hoạch...”
Qua một số các nhà giáo dục kể trên, chúng ta thấy tầm
quan trọng của HĐTN trong giáo dục ở các nước trên thế giới.
Bên cạnh đó cũng cho ta thấy cách thức mà người hiệu trưởng
cần có trong quá trình chỉ đạo hoạt động trong nhà trường.
Tổ chức HĐTN cho học sinh THCS theo hướng tích hợp
giáo dục trí tuệ với KNS là vấn đề mới nên cũng chưa có
nhiều người đặt vấn đề nghiên cứu. HĐTN là một trong
những hình thức học rất mới mẻ, hấp dẫn, được học sinh hứng
thú và được nhiều trường THCS trong quận ta nói riêng và
nhiều quận trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói chung đều
hưởng ứng và tổ chức bài bản như một phương pháp dạy học
thực thụ, mới mẻ, phát huy được năng lực học sinh. Mặt khác,
việc lồng ghép, tích hợp các nội dung giáo dục trí tuệ, giáo
dục kĩ năng sống trong các HĐTN đem đến hiệu quả trong
việc giáo dục học sinh, tạo được hứng thú trong quá trình dạy
và học.
Các tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt trong cuốn
Giáo dục học đã nhấn mạnh vai trò và tác dụng của hình thức
hoạt động ngoại khoá, coi hoạt động ngoại khoá là một hình
thức dạy học có khả năng tạo hứng thú cho học sinh, giúp các
em mở rộng, nâng cao, khắc sâu kiến thức [7, tr. 8]
Luận văn của tác giả Đỗ Văn Lợi, với nghiên cứu “Một số
biện pháp quản lýhoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở
trường phổ thông Hermann Gmeiner” [6, tr.20] đã khẳng định
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có vị trí và ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển phẩm chất,
năng lực cho HS đồng thời đã chỉ ra được các biện pháp quản
lý như: nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên về đặc điểm
của trường phổ thông Hermann Gmeiner; xây dựng đội ngũ
quản lý và tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp giỏi về
chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm cao; nâng cao ý thức
trách nhiệm của đội ngũ cán sự lớp, toàn thể HS về việc tham
gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp sẽ góp phần tích
cực nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
nói riêng và hiệu quả giáo dục nói chung ở các trường phổ
thông Hermann Gmeiner. Sách “Hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp” [8, tr.25] đã đề cập đến những nội dung cơ bản
xung quanh những vấn đề của hoạt động giao dục ngoài giờ lên
lớp cung cấp cho giáo sinh làm cơ sở cho công tác thực tập sư
phạm và công tác chủ nhiệm lớp sau này.
Đã có không ít các luận văn nghiên cứu về HĐTN
nhưng về hoạt động quản lý của Hiệu trưởng đối với các
HĐTN theo hướng tích hợp thì chưa được đề cập có hệ
thống, cũng như chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn
đề này tại Quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Như vậy, HĐTN cho học sinh THCS đã và đang là vấn
đề mới và mở cho các nhà giáo dục. Có thể coi đây là một
phương pháp mới mẻ gỡ rối cho giáo viên trong việc khơi gợi
hứng thú cho học sinh và cũng là một cách học mới giúp học
sinh tiếp thu kiến thức và hình thành kĩ năng, năng lực một
cách tự nhiên, hiệu quả hơn.
Các công trình nghiên cứu về dạy học tích hợp cho
học sinh THCS.
Nhiều năm trở lại đây, giáo dục tích hợp được xem như
một con đường mới giúp các nhà giáo dục thực hiện hoạt
động dạy một cách tối ưu nhất để phát triển năng lực học sinh.
Theo nghiên cứu của Wraga: “ Khoa sư phạm tích hợp là
một quan niệm về quá trình học tập trong đó toàn thể quá
trình học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ
ràng, có dự tính trước, những điều cần thiết cho HS, nhằm
phục vụ cho các quá trình học tập tương lai, hoặc nhằm hòa
nhập HS vào cuộc sống lao động” [17,tr24].
Trong dạy học các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết
hợp, tổ hợp các nội dung từ môn học thành “môn học” mới,
như Vật lý, Hóa học, Sinh học được tích hợp thành Khoa học
tự nhiên; Lịch sử, Địa lý, Xã hội học, Kinh tế học thành môn
Nghiên cứu xã hội. Tích hợp cũng có thể hiểu là sự lồng ghép
các nội dung cần thiết vào nội dung vốn có của môn học.
Tại Australia, các nhà nghiên cứu đưa ra các tiêu chí
quan trọng của dạy học tích hợp, bao gồm: việc học và nghiên
cứu các môn học khác nhau, có thời khóa biểu linh động, giáo
viên (GV) giảng dạy theo nhóm, quá trình học lấy HS làm
trung tâm, có sự tương tác về trình độ giữa HS với HS, giữa
HS và GV, và giữa GV với nhau.
Trong nước, nắm bắt xu thế giáo dục hiện đại, Nghị quyết
số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) chủ trương: “Xây dựng và chuẩn hóa nội dung
giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm
chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở
các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học,
chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn”.
Thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương Đảng, Nghị
quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội quy
định: “Đổi mới nội dung giáo dục phổ thông theo hướng tinh
giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và
định hướng nghề nghiệp; tăng thực hành, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tích hợp cao ở các lớp học dưới và
phân hóa dần ở các lớp học trên. Ở cấp tiểu học và cấp THCS,
thực hiện lồng ghép những nội dung liên quan với nhau của
một số lĩnh vực giáo dục, một số môn học trong chương trình
hiện hành để tạo thành môn học tích hợp; thực hiện tinh giản,
tránh chồng chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lí số môn học.
Ở cấp THPT, yêu cầu HS học một số môn học bắt buộc, đồng
thời được tự chọn các môn học và chuyên đề học tập.”
Trong dạy học tích hợp, các nhà giáo dục học phân chia
ra tích hợp dọc (vertical integration) và tích hợp ngang
(horizontal integration). Tích hợp dọc là “loại tích hợp dựa
trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều môn học thuộc cùng một
lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau”, còn tích hợp ngang
là “tích hợp dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập,
nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau” xung
quanh một chủ đề [16, tr.384- 385]
Cùng với việc “dạy học tích hợp liên môn”, “dạy học
gắn với sản xuất kinh doanh”, “dạy học với di sản”, “trải
nghiệm sáng tạo” là việc được nhiều nhà trường thực hiện
hiệu quả. Tham vọng của chúng tôi trong đề tài này là, dựa
trên những văn bản chỉ đạo của các cấp giáo dục, đưa vào nhà
trường THCS một hình thức, phương pháp dạy học mới phù
hợp với lứa tuổi, tâm lí học sinh, khơi gợi được hứng thú học
tập của các em để qua đó không chỉ giáo dục trí tuệ mà còn
giáo dục kĩ năng sống, giúp các em được phát triển một cách
toàn diện. Đây đó có những giờ học, những chuyên đề dạy
học theo hướng tích hợp và cũng đã được nhân rộng trong
năm học 2017 - 2018 vừa qua. Nhưng để có một công trình
nghiên cứu đầy đủ về HĐTN theo hướng tích hợp giáo dục trí
tuệ và giáo dục KNS thì còn chưa hoàn thiện và đầy đủ. Vì
vậy trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hi vọng
góp tiếng nói chung vào định hướng phát triển giáo dục mới
đã được đề ra tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung
Ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa IX).
Các khái niệm cơ bản của đề tài
Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường
Tác giả Phạm Minh Hạc đã xác định: “Quản lý nhà
trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên
lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng HS” [11, tr 71].
Tóm lại, Quản lý nhà trường là một bộ phận của QLGD. Quản
lý nhà trường là một hệ thống những tác động sư phạm khoa
học và có tính định hướng của chủ thể quản lý đến tập thể GV,
HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm
làm cho nhà trường vận hành theo đúng đường lối và nguyên
lý giáo dục của Đảng trong thực tiễn Việt Nam. Người quản lý
nhà trường phải làm sao cho hệ thống các thành tố vận hành
chặt chẽ với nhau, đưa đến kết quả mong muốn.
Quản lý giáo dục
Theo tác giả M.I. Kônđacốp: "Quản lý giáo dục là tác
động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của
chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích
của hệ thống (từ Bộ đến Trường) nhằm mục đích đảm bảo
việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức
và vận dụng những quy luật của quá trình giáo dục, của sự
phát triển thể lực và tâm lý của trẻ em" [38, tr10].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường,
quản lý giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là được
nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục
tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục và thế
hệ trẻ và đối với từng học sinh" [22, tr34].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý giáo dục là
hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy
luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo
đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất
của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội
tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, được hệ thống
giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái về chất" [28,
tr35].
Theo tác giả Nguyễn Gia Quý: "Quản lý giáo dục là sự
tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở
nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của
hệ thống giáo dục quốc dân" [31, tr12].
Khái niệm về Quản lý giáo dục, cho đến nay có rất nhiều
định nghĩa khác nhau, nhưng cơ bản đều thống nhất với nhau
về nội dung và bản chất. Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng:
"Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội" [3, tr3].
Quản lý giáo dục bao gồm: Chủ thể quản lý, khách thể quản
lý và quan hệ quản lý.
Chức năng Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành các nhà trường
để giáo dục vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế.
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc [10],
Quản lý giáo dục phải quán triệt, gắn bó với bốn chức năng,
đó là:
Kế hoạch hoá: Xác định mục tiêu, mục đích đối với
thành tự tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp,
cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó.
Tổ chức: Quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ
giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm
làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được
mục tiêu tổng thể của tổ chức.
Lãnh đạo - chỉ đạo: Quá trình chỉ đạo hay tác động; việc
liên kết, liên hệ với người khác và động viên họ hoàn thành
những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Kiểm tra: Theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và
tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết.
Hệ thống quản lý giáo dục nhà trường hoạt động trong động
thái đa dạng, phức tạp. Quản lý giáo dục là quản lý các mục
tiêu vừa tường minh vừa trong mối tương tác của các yếu tố
chủ đạo.
Hoạt động trải nghiệm, giáo dục tích hợp trí tuệ, kĩ
năng sống.
Hoạt động trải nghiệm
HĐTN là thông qua các hoạt động giáo dục (vui chơi,
thăm quan, hội trại, chuyên đề, sân khấu…), học sinh là chủ
thể tự lĩnh hội tri thức và tạo ra cho mình những kinh nghiệm,
những giá trị vật chất và tinh thần mới mẻ. Từ đó giúp các em
hình thành trí tuệ, nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh. Học
từ trải nghiệm (hoạt động trải nghiệm) gần giống với học
thông qua làm, qua thực hành nhưng học qua làm là nhấn
mạnh về thao tác kỹ thuật còn học qua trải nghiệm giúp người
học không những có được năng lực thực hiện mà còn có
những trải nghiệm về cảm xúc, ý chí và nhiều trạng thái tâm
lý khác; học qua làm chú ý đến những quy trình, động tác, kết
quả chung cho mọi người học nhưng học qua trải nghiệm chú
ý gắn với kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân.HĐTNcó hình
thức, quy mô khác nhau như: trải nghiệm trong môn học, liên
môn, trải nghiệm trong lớp, ngoài lớp, theo nhóm, theo lớp,
theo khối, theo trường hoặc liên trường. Trong các hình thức tổ
chức HĐTN thì có một số là bắt buộc, số còn lại là tùy chọn.
Chẳng hạn, nhóm định hướng nghề và khám phá sáng tạo có
thể là tùy chọn, còn các nhóm hoạt động về trách nhiệm xã hội,
về phát triển bản thân có thể là bắt buộc. Với nhóm tùy chọn
thì chúng ta có thể tổ chức theo hình thức CLB. Nội dung
chương trình phải hết sức mở, miễn là đáp ứng được mục tiêu.
Như vậy, thời lượng và nhóm hoạt động bắt buộc hay tự chọn
thì có thể theo quy định chung, còn nội dung hoạt động cụ thể
như thế nào thì tùy địa phương, nhà trường lựa chọn cho phù
hợp. Ngoài những HĐTN được thiết kế thành hoạt động riêng
như trên, trong từng môn học cũng cần coi trọng việc tổ chức,
hướng dẫn các HĐTN phù hợp với đặc trưng nội dung môn
học và điều kiện dạy học.
- Dạy học tích hợp
Trong giáo dục, khái niệm Tích hợp xuất hiện từ thời kỳ
khai sáng (thế kỷ XVIII) dùng để chỉ một quan niệm giáo dục
toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho phát triển
thiếu hài hòa, cân đối. Về phương diện lí luận dạy học, tích
hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các
kiến thức trong một môn học hoặc giữa các môn học thành
một nội dung thống nhất. Cũng có thể hiểu: Tích hợp là một
hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy động các
yếu tố, nội dung gần và giống nhau, có liên quan với nhau của
nhiều lĩnh vực để giải quyết, làm sáng tỏ vấn đề và cùng một
lúc đạt được nhiều mục tiêu khác nhau.
- Giáo dục trí tuệ
Giáo dục trí tuệ là hoạt động nhằm tác động một cách có
hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy có được những phẩm
chất, năng lực như yêu cầu đề ra, nhằm tạo điều kiện cho khả
năng nhận thức lí tính đạt đến một trình độ nhất định [5,
tr.152].
- Giáo dục kĩ năng sống
Giáo dục KNS là một quá trình gồm những hoạt động cụ
thể nhằm tổ chức, điều khiển để HS biết cách chuyển dịch
kiến thức, thái độ thành hành động cụ thể một cách tích cực.
Mục đích của giáo dục KNS cho HS chính là hướng đến thay
đổi, xây dựng hành vi tích cực, giáo dục cho các em lối sống
tích cực trong xã hội phù hợp với mục tiêu phát triển toàn
diện và mục tiêu giải quyết được những vấn đề trong cuộc
sống. Bên cạnh đó, lứa tuổi của các em là lứa tuổi có nhiều
thay đổi về thể chất, sức khỏe, tâm lí nên càng phải trang bị kĩ
năng để ứng phó và giải quyết. Xuất phát từ thực tế kĩ năng
của các em còn thiếu và yếu, xuất phát từ thực tế giáo dục quá
chú trọng hình thành kiến thức lí thuyết mà xem nhẹ giáo dục
KNS, công tác giáo dục KNS chưa được chú trọng và đầu tư
hay sự phối hợp chưa hiệu quả giữa gia đình và nhà trường…
chính là những yếu tố khiến cho việc giáo dục KNS trở nên
cấp bách hơn bao giờ hết.
- Quản lý hoạt động trải nghiệm theo hướng giáo dục
tích hợp
Chúng ta đã biết, quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức
của nhà quản lý giáo dục tới khách thể giáo dục nhằm đạt tới
mục tiêu quản lý. Nhà quản lý cùng với đông đảo đội ngũ
giáo viên, học sinh, các lực lượng xã hội… bằng hành động
của mình biến mục tiêu đó thành hiện thực. Như vậy, quản lý
HĐTN theeo hướng tích hợp thực chất là những tác động của
chủ thể quản lý vào HĐTN (được tiến hành bởi tập thể giáo
viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã
hội) nhằm góp phần hình thành và phát triển các năng lực,
phẩm chất của học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Quản lý HĐTN là quản lý một quá trình xã hội, một quá
trình sư phạm đặc thù, nó tồn tại như là một hệ thống, bao
gồm nhiều thành tố như: Mục tiêu, chương trình, nội dung,
các hình thức và phương pháp tổ chức HĐTN theo hướng tích
hợp, kiểm tra đánh giá HĐTN của học sinh để điều chỉnh cho
hiệu quả ngày càng tốt hơn. Quản lý HĐTN là phải tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Cụ thể hóa mục tiêu HĐTN theo hướng tích hợp giáo
dục qua các nhiệm vụ HĐTN nhằm hình thành những năng
lực, phẩm chất nhân cách, các năng lực tâm lý - xã hội …;
giúp HS tích lũy kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm
năng sáng tạo của cá nhân mình...
+ Quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung HĐTN
theo hướng tích hợp giáo dục.
+ Quản lý việc tổ chức các HĐTN theo hướng tích hợp
của giáo viên (xây dựng chương trình, soạn giáo án, chuẩn bị
CSVC, tổ chức hoạt động...)
+ Quản lý HĐTN của học sinh (nề nếp, thái độ, kết quả
HĐTN...)
+ Quản lý CSVC phục vụ cho HĐTN theo hướng giáo
dục tích hợp.
- Giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh
Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội
tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh
nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm. Trong quá
trình dạy học, năng lực được hiểu là sự kết hợp tri thức, kĩ
năng và thái độ.
Chương trình dạy học theo định hướng phát triển năng là
dạy học định hướng kết quả đầu ra, chú trọng năng lực vận
dụng tri thức vào thực tiễn. Dạy học theo định hướng phát
triển năng lực là mô hình dạy học nhằm phát triển tối đa năng
lực của người học, trong đó, người học tự mình hoàn thành
nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người
dạy. Quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học trên
nguyên lý: Học đi đôi với hành; Lý luận gắn với thực tiễn;
Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội.
Một số vấn đề lí luận về HĐTN theo hướng tích hợp
giáo dục trí tuệ với KNS.
Hoạt động trải nghiệm: mục tiêu, bán chất, vai trò, nội
dung, hình thức, quy trình
Mục tiêu HĐTN
Để phù hợp với mục tiêu của Chương trình mới thì:
HĐTN là hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn của
nhà giáo dục, mục tiêu chính của hoạt động này hướng tới là:
Củng cố và khắc sâu những kiến thức của các môn học,
mở
rộng
và
nâng cao hiểu biết cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống
xã
hội,
làm
phong phú hơn vốn tri thức kinh nghiệm hoạt động tập thể
của học sinh.
Từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các
hoạt động khác nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài
xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển
năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm
năng sáng tạo của cá nhân mình.
HĐTN nhằm hình thành và phát triển những phẩm chất,
tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng
lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại.
SD
GQ-R
Khái niệm này khẳng định vai trò định hướng, chỉ đạo,
hướng dẫn của nhà giáo dục; thầy cô giáo, cha mẹ học sinh,
người phụ trách… Nhà giáo dục không tổ chức, không phân
công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hướng dẫn, hỗ trợ,
giám sát cho tập thể hoặc cá nhân học sinh tham gia trực tiếp
hoặc ở vai trò tổ chức hoạt động, giúp học sinh chủ động, tích
cực trong các hoạt động; phạm vi các chủ đề hay nội dung
hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất
và năng lực sáng tạo đa dạng, khác nhau của các em.
Nội dung HĐTN
HĐTN có nội dung rất đa dạng và mang tính tích hợp,
tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh
vực học tập và giáo dục như:
Giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống,
giáo dục giá trị sống, giáo dục nghệ thuật, thẩm mĩ, giáo dục
thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao thông, giáo
dục môi trường, giáo dục phòng chống ma túy, giáo dục phòng
chống HIV/AIDS và tệ nạn xã hội.
Nội dung giáo dục của HĐTN thiết thực và gần gũi với
cuộc sống thực tế, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của học
sinh, giúp các em vận dụng những hiểu biết của mình vào
trong thực tiễn cuộc sống một cách dễ dàng, thuận lợi. Kiến
thức thực tiễn gắn bó với đời sống, địa phương, cộng đồng,
đất nước, mang tính tổng hợp nhiều lĩnh vực giáo dục, nhiều
môn học; dễ vận dụng vào thực tế.
Hệ thống kiến thức được thiết kế thành các chủ điểm
mang tính mở, không yêu cầu mối liên hệ chặt chẽ giữa các
chủ điểm.
Hình thức HĐTN
Theo tài liệu giáo dục phổ thông tổng thể, hình thức tổ
chức các HĐTN rất đa dạng, phong phú, mềm dẻo, linh hoạt,
mở về không gian, thời gian, quy mô, đối tượng và số lượng.
Cụ thể:
Hình thức tổ
Quy mô
chức HĐTN
HĐTN
tham gia
trong
lớp (VD: múa, hát,
Theo
nhóm,
tập kịch, vẽ tranh, theo lớp
ngoài
lớp (VD: hội thi văn
Theo
Học sinh
Giáo viên
Phụ huynh
học sinh
Nhà
làm đồ thủ công…)
HĐTN
Người
động xã hội
Chình
nhóm,
theo lớp, theo khối quyền
nghệ,
hội
chợ,
Doanh
lớp, theo trường hoặc
festival, thăm quan di
nghiệp
liên trường
tích lịch sử…)
HĐTN
nội
Theo
nhóm,
môn (VD: Văn hóa theo lớp, theo khối
Lý - Trần- Lịch sử, lớp, theo trường
hoạt
Hình thức tổ
Quy mô
chức HĐTN
tham gia
Văn biểu cảm - Ngữ
văn…)
HĐTN liên môn
(VD:
chuyên
đề
phòng chống bạo lực
học đường, bảo vệ
môi trường…)
HĐTN
Theo
nhóm,
theo lớp, theo khối
lớp, theo trường hoặc
liên trường
bắt
buộc (hoạt động về
Theo
nhóm,
trách nhiệm xã hội, theo lớp, theo khối
hoạt động phát triển lớp, theo trường
bản thân)
HĐTN
tùy
Theo
nhóm,
chọn (định hướng theo lớp, theo khối
nghề, khám phá sáng lớp, theo trường hoặc
tạo)
Người
liên trường
Dưới những hình thức HĐTN đa dạng, phong phú và
linh hoạt này, học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để phát
huy năng lực bản thân, rèn luyện thêm những năng lực còn
yếu, có nhiều lực lượng tham gia chỉ đạo, tổ chức các hoạt
động trải nghiệm với các mức độ khác nhau thực hiện tốt các
mục tiêu giáo dục.
Quy trình
Cũng như những hoạt động giáo dục khác, HĐTN có
quy trình chuẩn bị, thực hiện, đánh giá theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo và Điều lệ trường phổ thông. Chúng tôi
dựa trên các quy trình chuẩn kết hợp với nghiên cứu thực tiễn,
xin đưa ra các bước thực hiện như sau:
Bước 1: Lập kế hoạch HĐTN
Xác định rõ các vấn đề: thời gian tiến hành tổ chức,
người thực hiện, mục tiêu, nội dung của HĐTN…
Bước 2: Tổ chức HĐTN
Thực hiện các nội dung như: phân công nhiệm vụ cho
những người tham gia HĐTN (phân công nhiệm vụ tới tổng
phụ trách, giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên trực tiếp tham
gia, học sinh…), trang thiết bị, phương tiện đồ dùng học tập,
tài liệu liên quan…
Bước 3: Chỉ đạo thực hiện HĐTN
Đây là khâu quan trọng trong việc tổ chức HĐTN cho
trường học: người quản lí tham gia giám sát, đôn đốc, bao
quát các khâu, các vị trí trực tiếp tham gia HĐTN, kịp thời chỉ
đạo xử trí các tình huống xảy ra trong thực tế, giải quyết khó
khăn khúc mắc nảy sinh trong quá trình HĐTN…
Bước 4: Kiểm tra đánh giá.
Sử dụng phiếu điều tra, khảo sát, yêu cầu học sinh viết
bản thu hoạch, viết bài cảm nghĩ… sau khi tham gia HĐTN
Dạy học tích hợp: mục tiêu, bán chất, vai trò, nội
dung, hình thức, quy trình
Mục tiêu của dạy học tích hợp
Để nắm rõ mục tiêu chính của việc dạy học tích hợp,
chúng ta nên nhắc lại, về phương diện lí luận dạy học, tích
hợp là một hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy
động các yếu tố, nội dung gần và giống nhau, có liên quan