Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Báo cáo thực tập " giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài thương mại"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.81 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................................2
2. Mục tiêu nghiên cứu:..................................................................................................3
3. Phạm vi, đối tượng......................................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................4
5. Kết cấu báo cáo chuyên đề.........................................................................................4

B. NỘI DUNG...................................................................................................5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI..............................................5
1.1 Khái niệm và đặc điểm tranh chấp hợp đồng..............................................................5
1.2. Các tranh chấp hợp đồng thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại..6
1.3 Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng......................................................7
 Thương lượng................................................................................................................7
 Hòa giải........................................................................................................................... 8
 Tòa án............................................................................................................................. 9
1.4 Khái niệm, đặc điểm của trọng tài thương mại..........................................................10
1.5 Ưu điểm và nhược điểm của phương thức trọng tài........................................................12
1.6 Giải quyết tranh chấp hợp đồng của Trọng tài thương mại......................................13
 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng của Trọng tài thương mại................13
 Các thủ tục cơ bản của việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài....14
1


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẰNG
PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẰNG PHƯƠNG
THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.............................................................................17
2.1 Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài thương mại....................17
 Về hoạt động trọng tài....................................................................................................20


 Thỏa thuận trọng tài.......................................................................................................22
2.2 Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng
trọng tài thương mại..........................................................................................................24
 Hoàn thiện quy định của pháp luật về trọng tài...........................................................24
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
thương mại........................................................................................................................... 24
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời..................................24
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu..........24
- Hoàn thiện một số quy định về trọng tài viên.....................................................................25
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về trọng tài vụ việc.....................................................25
- Hoàn thiện những quy định khác của luật để phù hợp với thực tế.....................................26
 Kiến nghị các biện pháp hỗ trợ để đảm bảo việc thực thi trên thực tế pháp luật
Trọng tài thương mại.............................................................................................................27
- Về cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài............................................27
- Về sử dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.............................................27
- Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan thi hành án..........................................28
- Đối với các trung tâm trọng tài..........................................................................................28
- Đối với các doanh nghiệp..................................................................................................29

2


C. KẾT LUẬN.................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 31

3


4



A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện của nền kinh tế phát triển năng động, hoạt động kinh doanh, thương mại
ngày càng đa dạng và không ngừng phát triển trong tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, thương mại,
dịch vụ, đầu tư... những tranh chấp hợp đồng xảy ra là điều không tránh khỏi. Vấn đề lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh, thương mại phải được các bên
cân nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất của tranh chấp,
mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành cho việc giải quyết tranh chấp.
Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và
cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương thức để có quyết định hợp lý.
Pháp luật hiện hành công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
sau: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp trong kinh
doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng với nhau.
Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện
với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đã và đang phát triển phổ
biến ở tất cả các nước trên thế giới. Theo nền kinh tế thị trường, xu hướng sử dụng các biện
pháp ngoài tòa án đã mang tính toàn cầu, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, làm thế nào
để tận dụng được những ưu điểm, lợi thế trong giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài
thương mại tại Việt Nam đang là vấn đề cần giải quyết.

5


Do đó, vì tính cấp thiết của những yếu tố trên đối với nền kinh tế Việt nam cũng như tầm
quan trọng của nó đối với với việc quản lí thương mại thông qua phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại nên tôi đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng
trọng tài thương mại”.


2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài
thương mại, theo đó chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp hợp đồng bằng trọng tài thương mại, những khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.
Từ đó, tìm ra giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục hậu quả của vấn đề giải quyết tranh chấp hợp
đồng bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam.

3. Phạm vi, đối tượng
- Phạm vi: Đề tài được thực hiện thông qua những văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết
tranh chấp hợp đồng bằng phương thức trọng tài thương mại như: Luật trọng tài thương mại
2010, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Luật thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2014.
- Đối tượng nghiên cứu: Những quy định của pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng
phương thức trọng tài thương mại.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu áp dụng các phương pháp như so sánh, phân tích, phân tích tổng
hợp, nhằm làm nổi bật nội dung chính của đề tài.

5. Kết cấu báo cáo chuyên đề
Ngoài danh mục tài liệu tham khảo, trong phạm vi nghiên cứu báo cáo, tôi xin trình bày 3
phần:
A. Mở đầu
6


B. Nội dung
 Chương 1: Tổng quan về giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức trọng tài
thương mại.
 Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức trọng tài thương
mại và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương

thức trọng tài thương mại.
C. Kết luận

7


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
1.1 Khái niệm và đặc điểm tranh chấp hợp đồng
Tranh chấp hợp đồng được hiểu dưới góc độ pháp lý là những xung đột bất đồng, mâu
thuẫn giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp
đồng, là ý kiến không thống nhất của các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc cách thức
giải quyết hậu quả phát sinh từ vi phạm đó (trong khi vi phạm hợp đồng là hành vi đơn phương
của một bên đã xử sự trái với cam kết trong hợp đồng). Tranh chấp hợp đồng phải hội đủ các
yếu tố sau: Có quan hệ hợp đồng tồn tại giữa các bên; Có sự vi phạm nghĩa vụ (hoặc cho rằng là
vi phạm nghĩa vụ) của một trong các quan hệ đó; Có sự bất đồng ý kiến của các bên về sự vi
phạm hoặc hậu quả phát sinh từ vi phạm.
Tranh chấp hợp đồng có những đặc điểm sau:
-

Phát sinh trực tiếp từ quan hệ Hợp đồng, nên luôn luôn thuộc quyền tự định đoạt của các
bên tranh chấp (tức các bên trong Hợp đồng).

-

Mang yếu tố tài sản (vật chất hay tinh thần) và gắn liền lợi ích các bên trong tranh chấp
Tranh chấp hợp đồng luôn gắn với lợi ích của các bên tranh chấp, vì quan hệ hợp đồng
gắn kết các bên bởi lợi ích, do đó cũng dễ phát sinh tranh chấp khi xung đột về lợi ích.


-

Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp Hợp đồng là bình đẳng, thỏa thuận.

-

Các bên là chủ thể có quyền cao nhất định đoạt việc giải quyết tranh chấp (trừ những
quan hệ hợp đồng ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước). Bởi lẽ tranh chấp hợp đồng phát
sinh trực tiếp từ quan hệ hợp đồng, hình thành trên cơ sở tự do, tự nguyện ý chí của các
bên giao kết, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên.
1.2. Các tranh chấp hợp đồng thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại
Theo Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, tranh chấp được giải quyết tại Trọng

tài thương mại, bao gồm:

8


(i)

Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;

(ii)

Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương

(iii)

Tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết tại trọng tài.


mại;

Điều 3.1 của Luật Thương mại năm 2005 đưa ra khái niệm về hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Cũng theo khái niệm này, quan
niệm về hoạt động thương mại cũng đã được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh
lợi. Hướng tiếp cận này của Luật Thương mại năm 2005 cho thấy, khái niệm về hoạt động
thương mại đã được mở rộng tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp
năm 2014. Theo Điều 4.6 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, kinh doanh là việc thực hiện liên
tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
Trọng tài thương mại, theo đó, các tranhh chấp hợp đồng trong kinh doanh được giải quyết tại
Trọng tài thương mại không chỉ giới hạn giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh với nhau như
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 mà chỉ cần tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó
ít nhất một bên có hoạt động thương mại là đã thuộc phạm vi giải quyết tranh chấp bởi trọng tài
thương mại. Cách tiếp cận này của Luật Trọng tài thương mại đã tương thích với quy định của
pháp luật nội dung về hợp đồng trong kinh doanh (hợp đồng thương mại).
1.3 Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng
 Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp
cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà
không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào.

9


Phương thức thương lượng có các đặc điểm cũng như ưu và nhược điểm như sau:
- Đặc điểm:
Thứ nhất, phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết

mà không cần bên thứ ba.
Thứ hai, quá trình thương lượng giữa các bên không bị ràng buộc bởi nguyên tắc pháp lý
hay khuôn mẫu.
Thứ ba, kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh
chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí nào bảo đảm việc thực thi đối với thỏa thuận của
các bên trong quá trình thương lượng.
- Ưu điểm:
Ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp này là sự thuận tiện, đơn giản,
nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng còn bảo vệ được uy tín cho các bên tranh chấp cũng bí mật trong kinh doanh của
các nhà kinh doanh.
- Hạn chế:
Khi một hoặc hai bên không có thái độ nỗ lực hợp tác, thiếu sự thiện chí, trung thực trong
quá trình thương lượng thì khả năng thành công là rất mong manh, kết quả thương lượng thường
bế tắc.
Kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lí mang tính bắt buộc. Do
vậy, dù các bên có đạt được thỏa thuận để giải quyết vụ tranh chấp thì việc thực thi kết quả
thương lượng cũng vẫn phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên phải thi hành. Những hạn chế này
của thương lượng dễ bị lạm dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại. Nhiều
trường hợp vì thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp mà một bên đã
tìm mọi cách trì hoãn quá trình thương lượng nhằm kéo dài vụ tranh chấp, nhất là khi thời hiệu
khởi kiện không còn. Bởi vậy, các bên tranh chấp thường phải lưu ý, cân nhắc đến yếu tố này

10


trước hoặc trong khi tiến hành thương lượng để có giải pháp lựa chọn hợp lí trong quá trình giải
quyết tranh chấp thương mại.
 Hòa giải
Là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của bên thứ ba

là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh
nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp
không phải của trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp. Phương thức
hòa giải có các đặc điểm cũng như ưu và nhược điểm như sau:
- Đặc điểm:
+Thứ nhất: Có sự tham dự của bên thứ 3.
+ Thứ hai: quá trình hòa giải không chịu sự chi phối bởi các quy định có khuôn mẫu, bắt
buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải.
+ Thứ ba: kết quả hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp
mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào đảm bảo thi hành những cam kết của các bên trong
quá trình hòa giải.
- Ưu điểm:
+ Thủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn không gò bó và tiết kiệm được thời gian, chi
phí thấp.
+ Các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải cũng
như địa điểm tiến hành hòa giải do đó có thể tìm một trung gian hòa giải có hiểu biết
chuyên môn về vấn đề đang tranh chấp.
+ Hòa giải mang tính thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh
doanh vì lợi ích của cả hai bên nên nhìn chung ít gây hại đến quan hệ hợp tác vốn có của
các bên.

11


+ Có thể giữ được bí mật kinh doanh và vấn đề tranh chấp.
- Hạn chế:
+ Hình thức giải quyết khép kín, không công khai có thể nảy sinh những tiêu cực, trái pháp
luật.
+ Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa
giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối

với các bên tranh chấp.
+ Thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của trọng tài hay
của tòa án.
 Tòa án
Khi tranh chấp Hợp đồng phát sinh, nếu các bên không tự thương lượng, hòa giải với nhau
thì có thể được giải quyết tại Tòa án. Tùy theo tính chất của Hợp đồng là kinh tế hay dân sự mà
các tranh chấp phát sinh có thể được Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế hay thủ tục tố
tụng dân sự. Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền
lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết
định của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành
bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
- Ưu điểm:
+ Các quyết định của Tòa án (đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước) có tính cưỡng
chế thi hành đối với các bên.
+ Với nguyên tắc 2 cấp xét xử, những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp có khả
năng được phát hiện khắc phục.
+ Với điều kiện thực tế tại Việt Nam, thì án phí Tòa án lại thấp hơn lệ phí trọng tài.
- Hạn chế:

12


+ Thời gian giải quyết tranh chấp thường kéo dài (vì thủ tục tố tụng Tòa án quá chặt chẽ).
+ Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế.
1.4 Khái niệm, đặc điểm của trọng tài thương mại
 Khái niệm của trọng tài
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tại thương mại năm 2010 “Trọng tài thương
mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định
của Luật trọng tài thương mại”.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi nhà nước (phi

chính phủ) do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết các tranh chấp thương mại. Trọng
tài chính là bên trung gian thứ ba được các bên tranh chấp chọn ra để giúp các bên giải quyết
những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên. Phương
thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện. Để đưa tranh chấp ra
trọng tài giải quyết, các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
khá giống với phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. Cả hai phương thức này đều có
sự xuất hiện của người thứ ba. Tuy nhiên, trong hình thức hòa giải, vai trò của người thứ ba chỉ
mang tính hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau. Còn trong phương thức trọng tài, sau khi
xem xét sự việc, trọng tài có thể đưa ra phán quyết có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.
 Một số đặc điểm của trọng tài thương mại như sau:
- Trọng tài có tính phi nhà nước
Trọng tài là một loại hình tổ chức phi chính phủ (tổ chức xã hội nghề nghiệp), hoạt động
theo pháp luật và quy chế trọng tài. Trọng tài là một thiết chế dân chủ trong giải quyết tranh
chấp thương mại; trọng tài không chỉ góp phần tạo ra một đời sống dân chủ và tự do trong tư
pháp, mà hơn thế nữa, trọng tài là người chia sẻ nhiệm vụ với nhà nước trong việc xóa bỏ các
bất đồng trong xă hội, thể hiện cụ thể ở việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
- Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và
tài phán
13


Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết trọng tài thoát ly
những yếu tố đã thỏa thuận. Bởi vậy, về nguyên tắc, thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn
bởi pháp luật; các đương sự có thể lựa chọn bất kỳ lúc nào, bất kỳ trọng tài vụ việc hoặc trọng
tài quy chế nào trên thế giới để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, một khi đã được thỏa thuận thì
phán quyết của trọng tài có tính chất tài phán và bắt buộc các bên phải tuân thủ.
- Đương sự được tự định đoạt
Phương thức trọng tài bảo đảm quyền tự định đoạt của các đương sự cao hơn so với
phương thức Tòa án, thể hiện cơ bản là các đương sự trong tố tụng trọng tài có quyền lựa chọn
trọng tài viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng, luật áp dụng đối với tranh chấp…

- Phán quyết trọng tài là chung thẩm
Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất kỳ cơ quan, tổ
chức nào (trừ trường hợp rất đặc biệt liên quan đến hủy phán quyết trọng tài). Đặc điểm này
giúp trọng tài có điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp
thương mại.
- Sự hỗ trợ của Tòa án
Pháp luật các nước nhìn chung, trong đó có Việt Nam nói riêng, đều quy định cơ chế hỗ trợ
từ phía Tòa án đối với tổ chức và hoạt động của trọng tài. Thông qua trình tự công nhận và cho
thi hành, Tòa án đảm bảo thực thi trên thực tế những quyết định của trọng tài khi một hoặc các
bên đương sự không tự nguyện thực hiện (tại Việt Nam, phán quyết của trọng tài Việt Nam
đương nhiên có hiệu lực thi hành). Ngoài ra, Tòa án còn có thể hỗ trợ trọng tài ở các nội dung
khác, như quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản, bảo toàn chứng cứ,
cấm hoặc buộc đương sự thực hiện một số hành vi nhất định...
1.5 Ưu điểm và nhược điểm của phương thức trọng tài
 Ưu điểm:

14


+ Thứ nhất, thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, linh hoạt, các bên có thể chủ động về
thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không trải qua nhiều cấp xét xử như ở toà án, cho nên
hạn chế tốn kém về thời gian cho doanh nghiệp.
- Thứ hai, khả năng chỉ định trọng tài viên thành lập Hội đồng trọng tài giải quyết vụ việc
giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang
tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp nhanh chóng, chính xác.
- Thứ ba, nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai, phần nào giúp các bên giữ được uy
tín trên thương trường, cũng như các bí mật kinh doanh. Đây được coi là ưu điểm được các bên
tranh chấp ưa chộng nhất.
- Thứ tư, các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài, kiểm soát được
việc cung cấp chứng cứ của mình và điều này giúp các bên giữ được bí quyết kinh doanh.

- Thứ năm, trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên, không nhân
danh quyền lực tự pháp của nhà nước, nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp có nhân tố
nước ngoài.
- Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài rộng hơn, tự do hơn,
mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm sáng tỏ những vấn đề tranh chấp.

 Nhược điểm:
+ Đầu tiên, khuỵết điểm được phát sinh do tính chất nhanh chóng của cách thức giải
quyết vụ việc, trọng tài tuyên án chỉ sau một cấp xét xử duy nhất, nên đôi khi các quyết định của
trọng tài là không chính xác, gây thiệt hại đối với doanh nghiệp.
+ Việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự nguyện
của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng
đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn
chưa có ý thức tự giác.
15


+ Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh bằng trọng tài quá lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng chi trả.
+ Phán quyết của trọng tài tuy là chung thẩm, nhưng bên bị đơn có thể yêu cầu tòa án
xem xét lại. Như vậy, phán quyết của trọng tài nhiều lúc làm cho “bên thắng kiện” không yên
tâm.

1.6 Giải quyết tranh chấp hợp đồng của Trọng tài thương mại
 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng của Trọng tài thương mại
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương mại
khi hội đủ hai điều kiện sau:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh thuộc loại tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương
mại. Theo Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài

thương mại, bao gồm:
- Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
- Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;
- Tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết tại trọng tài.
Thứ hai, trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận
trọng tài không vô hiệu:
- Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp
có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.
- Hình thức thoả thuận trọng tài phải bằng văn bản.
- Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng,
hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng
tài.

16


- Có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lí, trừ thỏa
thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
- Trong các trường hợp sau đây, thỏa thuận trọng tài vô hiệu:
+ Tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài;
+ Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
+ Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự;
+ Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định của pháp luật;
+ Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài
vô hiệu;
+ Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
+ Ngoài ra, cần lưu ý điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về các trường hợp
thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được, bao gồm:
+ Trường hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài cụ thể
nhưng trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, thì

các bên có thể thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có
quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.
+ Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên trọng tài vụ việc,
nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà
trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn
trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để
giải quyết.
+ Trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng không chỉ rõ hình thức trọng tài hoặc
không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, thì khi có tranh chấp, các bên phải thỏa thuận
lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa
thuận được thì việc lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện
theo yêu cầu của nguyên đơn.

17


 Các thủ tục cơ bản của việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài

Bước 1: Nộp đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo
Trường hợp giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi
kiện gửi đến Trung tâm trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ
việc, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn.
Đơn khởi kiện gồm có các nội dung sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
b) Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
c) Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
d) Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có;
đ) Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp;
e) Tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ định
Trọng tài viên.

Kèm theo đơn khởi kiện, phải có thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu
có liên quan.

Bước 2: Bị đơn nộp bản tự bảo vệ (Theo Điều 35 Luật Trọng tài Thương mại 2010)
Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu các bên không có thoả
thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, thì trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho
Trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ. Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, thời hạn này có thể
được Trung tâm trọng tài gia hạn căn cứ vào tình tiết cụ thể của vụ việc.

18


Đối với vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nếu các bên không có thoả
thuận khác, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và
các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn và Trọng tài viên bản tự bảo vệ, tên và địa
chỉ của người mà mình chọn làm Trọng tài viên.

Bước 3: Thành lập hội đồng trọng tài
Thành phần Hội đồng trọng tài (Theo Điều 39 Luật Trọng tài Thương mại 2010)
Thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên theo sự thỏa
thuận của các bên.
Trường hợp các bên không có thoả thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài
bao gồm ba Trọng tài viên.

Bước 4: Hòa giải (Theo Điều 58 Luật Trọng tài Thương mại 2010)
Hội đồng trọng tài tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
tranh chấp. Khi các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết trong vụ tranh chấp thì Hội
đồng trọng tài lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các bên và xác nhận của các Trọng tài
viên. Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Quyết định này là

chung thẩm và có giá trị như phán quyết trọng tài.

Bước 5: Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp (Theo Điều 55 Luật Trọng tài
Thương mại 2010)
Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận khác.
Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết
tranh chấp; có quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
19


Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có thể cho phép những
người khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp.
Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp do quy tắc tố tụng trọng tài của
Trung tâm trọng tài quy định; đối với Trọng tài vụ việc do các bên thỏa thuận.

Bước 6: Hội đồng trọng tài ra phán quyết
Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số.
Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý kiến
của Chủ tịch Hội đồng trọng tài. (Theo Điều 60 Luật Trọng tài Thương mại 2010)

20


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
2.1 Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài thương mại
Theo số liệu thống kê, tính đến ngày 30/6/2015, cả nước có 11 Trung tâm trọng tài, trong

đó, tại Hà Nội có 03 Trung tâm, tại thành phố Hồ Chí Minh có 07 Trung tâm và 02 Chi nhánh
của Trung tâm, tại thành phố Cần Thơ có 01 Trung tâm, tại thành phố Đà Nẵng có 01 Chi nhánh
của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Hiện nay, chưa có Trung tâm trọng tài nào lập Chi
nhánh, Văn phòng đại diện ở nước ngoài. Tính đến 30/6/2015, trong cả nước có 345 trọng tài
viên, trong đó, Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) có 149 trọng tài viên, chiếm gần
50% tổng số trọng tài viên trong cả nước. Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp thì số lượng
trọng tài viên là giáo sư, Phó giáo sư chiếm 5,5 % trên tổng số trọng tài viên trong cả nước; số
lượng trọng tài viên có trình độ tiến sỹ chiếm 30,7%; số lượng trọng tài viên có trình độ thạc sỹ
chiếm 17,3%. Về trình độ chuyên môn, hầu hết các trọng tài viên đều có bằng tốt nghiệp đại học
thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau; đồng thời đang đảm nhiệm các công việc trong các lĩnh
vực khác như luật sư (số luật sư là trọng tài viên của VIAC chiếm 29%), luật gia (số luật gia là
trọng tài viên của VIAC chiếm 15%), kỹ sư, chuyên gia thương mại quốc tế (số chuyên gia
thương mại quốc tế là trọng tài viên củaVIAC chiếm 22%)… Phần lớn số trọng tài viên là giáo
sư, tiến sỹ vừa kiêm nhiệm công việc trong các cơ quan Nhà nước và thực hiện hoạt động trọng
tài ở các Trung tâm trọng tài, đặc biệt VIAC còn có đội ngũ trọng tài viên là người nước ngoài
đang hành nghề tại Trung tâm. Hiện nay, VIAC có 17 trọng tài viên là người nước ngoài để giải
quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Nhìn chung, đội ngũ trọng tài viên đều có kiến thức
pháp luật và kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực sôi động trong bối cảnh
hội nhập quốc tế như bảo hiểm, thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài và xuất nhập khẩu...
Nhiều trọng tài viên bên cạnh có trình độ, kiến thức chuyên môn còn sử dụng thành thạo ngoại
21


ngữ là điều kiện thuận lợi để tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài
và các vụ việc tranh chấp quốc tế. Ngoài những điểm mạnh về cả số lượng của các trung tâm
trọng tài lẫn chất lượng của các trọng tài viên thì vẫn còn một số điểm yếu như do hoạt động
trọng tài ở Việt Nam còn chưa phát triển, số lượng vụ việc tranh chấp do trọng tài thương mại xử
lý còn rất khiêm tốn nên các trọng tài viên còn chưa có nhiều cơ hội cọ xát kinh nghiệm thực
tiễn. Một số trọng tài viên còn thiếu kỹ năng nghề nghiệp, thiếu kiến thức về thương mại quốc tế
và lúng túng trong quá trình tham gia tố tụng trọng tài. Hơn nữa, một bộ phận trọng tài viên Việt

Nam hiện nay còn yếu về trình độ ngoại ngữ và hạn chế trong việc cập nhật kiến thức thương
mại quốc tế.
Đối với Trung tâm trọng tài, cơ sở vật chất, trang thiết bị của một số Trung tâm trọng tài
còn thiếu thốn, nghèo nàn, công tác quản trị, điều hành Trung tâm còn lỏng lẻo, thiếu tính
chuyên nghiệp. Mặc dù trong cả nước có 11 Trung tâm trọng tài nhưng Trung tâm thường xuyên
có vụ việc giải quyết còn rất ít, cá biệt còn có Trung tâm trọng tài đã thành lập từ lâu, tuy nhiên,
trong thời gian qua không ban hành một phán quyết trọng tài nào.
Cách giải quyết bất cập của một số Trung tâm Trọng tài còn bất cấp như kỹ năng tiếp nhận
hồ sơ vụ kiện trọng tài của Ban Thư ký của các Trung tâm Trọng tài khi tiếp nhận hồ sơ: cách
xác định thẩm quyền của người ký đơn khởi kiện trọng tài; nội dung giấy ủy quyền của người có
thẩm quyền cho người tham gia tố tụng trọng tài; tính hợp lệ các chứng thư liên quan đến vụ
kiện khi các bên cung cấp trong hồ sơ vụ kiện trọng tài chưa hợp lệ theo quy định của Luật
Trọng tài và quy tắc tố tụng trọng tài còn khá nhiều bất cập gây lúng túng cho các Hội đồng
Trọng tài khi nhận hồ sơ của Ban Thư ký Trung tâm Trọng tài chuyển giao. Sự bất cập còn thể
hiện ở việc tiếp nhận vụ kiện xử lý một thời gian sau đó làm văn bản chuyển sang cho Tòa giải
quyết vì không có thẩm quyền, việc đã xảy ra tại một Trung tâm Trọng tài khi thụ lý một vụ kiện
Trọng tài một bên là một doanh nghiệp xây dựng, một bên là chủ nhà thuê doanh nghiệp đó xây
dựng công trình nhà ở, ngay từ đầu Trung tâm Trọng tài đó đã biết chủ thể hai bên không thỏa
mãn thẩm quyền trọng tài nhưng Trung tâm Trọng tài đó vẫn nhận để thu phí trọng tài và hòa
giải, nhiều lần mời qua lại sau đó làm văn bản chuyển vụ kiện đó cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh
giải quyết, sau đó vụ kiện được chuyển sang Tòa án giải quyết tiếp tục, cách tiếp nhận giải quyết

22


như thế của Trung tâm Trọng tài đã làm cho các doanh nghiệp ngày càng thờ ơ đối với phương
thức giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài.
Sự chênh lệch về kiến thức chuyên môn và kỷ năng tố tụng trọng tài của một số trọng tài
viên. Sự chênh lệch này làm bộc lộ tính không chuyên nghiệp của các trọng tài viên. Bên cạnh
những trọng tài viên có chuyên môn nghiệp vụ pháp lý thì còn có những trọng tài viên chỉ giỏi

về chuyên môn nhưng thiếu kiến thức pháp luật về trọng tài và kỹ năng thao tác trong tố tụng
trọng tài. Theo khảo sát mới đây cho thấy có đến 72,6% ý kiến cho rằng các trọng tài viên hiện
nay thiếu kỹ năng giải quyết tranh chấp, 65% cho rằng thiếu số lượng trọng tài viên, 51,1% cho
rằng trọng tài viên thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp, 44,7% cho rằng thiếu trình độ chuyên môn
và đặc biệt có đến 44,3% cho rằng các trọng tài viên hiện nay thiếu kiến thức pháp luật. Chúng
ta đều biết, giải quyết tranh chấp là một hoạt động trí tuệ tương đối phức tạp. Do vậy, sự chênh
lệch về khả năng giải quyết tranh chấp và cách giải quyết bất cập của một số trọng tài viên dễ
dẫn đến tình trạng các trọng tài viên ra những phán quyết không đảm bảo những yêu cầu pháp
lý, không chính xác hoặc không thể thực hiện được.
Khả năng viết phán quyết của các trọng tài viên còn yếu và thiếu chặt chẽ. Khi khảo sát
một số quyết định trọng tài cho thấy một số trọng tài viên viết quyết định trọng tài còn thiếu chặt
chẽ; từ lập luận nhận định về thẩm quyền, về thỏa thuận trọng tài, về hành vi vi phạm của các
bên,lý luận chấp nhận hoặc bác các yêu cầu của các bên chưa đảm bảo tính lý luận và pháp lý,
dẫn đến ra các phán quyết tuyên xử không chính xác; không rõ ràng, không chặt chẽ, không
chuyên nghiệp và không đủ sức thuyết phục các bên.Cho đến khi quyết định trọng tài có hiệu
lực thi hành thì cơ quan thi hành án cũng không thể thi hành được trong thực tế.

 Về hoạt động trọng tài

Tại Việt Nam, trọng tài thương mại chưa trở thành một hình thức giải quyết tranh chấp
ngoài Tòa án được ưa chuộng. Các cá nhân, tổ chức kinh doanh chưa ưu tiên lựa chọn trọng tài
trong việc giải quyết tranh chấp mà vẫn có xu hướng lựa chọn Tòa án như một phương thức giải
quyết tranh chấp tối ưu. Do đó, số lượng tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng tài

23


còn thấp (chiếm chưa đến 1% số lượng các tranh chấp thương mại). Trong các Trung tâm trọng
tài thương mại, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) được đánh giá là Trung tâm trọng
tài lớn cũng chỉ giải quyết vài chục vụ/năm. So với hàng chục nghìn vụ/năm của các Trung tâm

trọng tài lớn trong khu vực và trên thế giới như Trung tâm trọng tài Singapore (SIAC) hoặc
Trung tâm trọng tài Hồng Kông (HIAC) thì số vụ việc mà Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
(VIAC) giải quyết còn rất khiếm tốn so với tiềm năng của Trung tâm và nhu cầu giải quyết tranh
chấp bằng phương thức trọng tài. Trong khi đó, việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án luôn ở mức
quá tải. Trong năm 2012 (tính từ 01/10/2011 đến 30/9/2012), tòa án các cấp xét xử 332.868 vụ
án các loại trong tổng số 360.941 vụ án đã thụ lý (đạt 92%) 1. Theo số liệu của Tòa án nhân dân
tối cao (tháng 3/2013), trong tổng số gần 400 vụ án cần được xét xử giám đốc thẩm của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nhưng Hội đồng này chỉ họp toàn thể để xét xử được
hơn 200 vụ.

 Hủy phán quyết trọng tài

Tình trạng hủy phán quyết trọng tài của Tòa án còn gây tâm lý lo ngại cho người dân và
doanh nghiệp khi đưa ra quyết định lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Theo số liệu thống kê của các Tòa án, tính đến tháng 6/2014, số lượng phán quyết trọng tài bị
hủy trong cả nước là 07/33 đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, chiếm tỉ lệ khoảng 22% số
đơn yêu cầu. Thực tiễn cho thấy, các quyết định của Tòa án hủy phán quyết trọng tài thường tập
trung vào hai căn cứ (i) không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Thỏa
thuận trọng tài thường được các bên ghi nhận trong hợp đồng, Tòa án thường đưa ra nhận định
người ký kết hợp đồng không đủ năng lực hoặc người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
đã ký thỏa thuận trọng tài vượt quá thẩm quyền để tuyên Hợp đồng vô hiệu dẫn đến thỏa thuận
trọng tài cũng vô hiệu (ii) phán quyết trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam. Luật mẫu UNCITRAL và pháp luật trọng tài nhiều nước trên thế giới quy định pháp quyết
1 Báo Công lý điện tử ngày 01/01/2013 ().

24


trọng tài chỉ bị hủy khi trái với “trật tự công cộng”. Có thể thấy, cơ sở pháp lý để hủy phán quyết
trọng tài trong những trường hợp nêu trên theo quy định của Luật trọng tài thương mại còn rất

rộng, chưa rõ, dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau.
Bất cập trong việc hủy quyết định trọng trọng tài thương mại. Quy định về hủy quyết định
trọng tài, đó là khi một bên không đồng ý với quyết định của trung tâm trọng tài, các bên có
quyền yêu cầu Tòa án hủy quyết định trọng tài “trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được
quyết định trọng tài”. Tuy nhiên, Tòa án chỉ có thẩm quyền hủy quyết định trọng tài chỉ khi nào
việc tiến hành giải quyết tranh chấp thương mại của trung tâm trọng tài/Trọng tài viên rơi vào
một trong các trường hợp quy định. Theo khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010, căn
cứ để các bên dựa vào để yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy quyết định trọng tài như là: không có
thỏa thuận Trọng tài hoặc thỏa thuận vô hiệu mà Hội đồng Trọng tài vẫn ra quyết định, chứng
minh được Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ theo quy định, sai phạm về thẩm quyền hoặc thành
phần của Hội đồng Trọng tài, nghĩa vụ của Trọng tài viên… những hạn chế của phương thức
quyết định trọng tài bằng con đường Trọng tài.
Thực tế, bên không chấp nhận quyết định trọng tài có thể viện dẫn nhiều lý do để xin hủy
quyết định trọng tài bởi thực chất phạm vi của các căn cứ là rất rộng; khi đó Tòa án buộc phải
xem xét bằng việc kiểm tra thủ tục tố tụng Trọng tài chứ không xét lại nội dung vụ tranh chấp để
ra quyết định có hủy hay là không. Do vậy, tùy theo từng vụ việc cụ thể, các đương sự trong
tranh chấp phải xác định được con đường đi của phương thức này, nếu nhận thấy sự sai phạm thì
có thể yêu cầu tòa án hủy QĐTT để bảo vệ quyền lợi cho mình. Khi quyết định trọng tài bị hủy
thì có thể tiếp tục thỏa thuận việc giải quyết bằng Trọng tài hoặc đưa vụ việc ra Tòa án và thực
tế là Tòa án luôn là nơi để các bên lựa chọn bởi trong trường hợp này, rất khó để các bên có thể
cùng nhau đạt được một thỏa thuận nào nữa.

 Thi hành phán quyết trọng tài
Tỷ lệ đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phán quyết trọng tài được thi hành
mới chỉ đạt 60%. Số vụ việc phán quyết trọng tài được thi hành chưa cao bởi một số lý do như
25


×