Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.92 KB, 2 trang )

NHẠC SĨ ĐỖ NHUẬN
Họ và tên: Đỗ Nhuận
Ngày sinh: 10/12/1922
Ngày mất: 18/5/1991 (05/4 âm lịch)
Nguyên quán: Thái Học, Bình Giang, Hải Dương
Khen thưởng: HC Độc lập hạng nhì, Giải thưởng HCM và VHNT
Chức vụ: Nguyên Tổng TK khoá I, II Hội nhạc sĩ Việt Nam
Sáng tác chính: nhạc cách mạng, nhạc kịch (opera), khí nhạc
Ông sinh ngày 10/12/1922 tại Cẩm Bình, Hải Dương, mất năm 1991 tại Hà Nội .
Thủa niên thiếu Đỗ nhuận đã từng sống nhiều năm ở Hải Phòng. Năm 14 tuổi ông tự học và biết
chơi nhiều nhạc cụ dân tộc. Sau đó được tiếp cận với âm nhạc phương Tây, bằng cách tự học ông
chơi được violon, ghita, banjo và biết ký xướng âm.
Năm 1939, ông viết bài Trưng Vương, một bài hát có sức lan toả mạnh lúc bấy giờ. Tiếp đó là
Nguyễn Trãi - Phi Khanh ... cũng mang hơi thở của lịch sử. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp bắt đi
đày ở nhà tù Sơn La. Nhiều bài hát Cách Mạng được Đỗ Nhuận viết ra từ đây như: Hận Sơn La,
tiếng gọi tù nhân, Côn Đảo. Những ngày tháng cuối 1945 đến 1954, Đỗ Nhuận có nhiều bài hát đi
vào lịch sử kháng chiến chống Pháp của dân tộc như: Tiếng súng Nam bộ (1946), Bé yêu Bác Hồ,
Tiếng hát đầu quân, Đo mùa đông, Tình việt Bắc, Du kích sông thao(1949), Ca ngợi Hồ Chủ Tịch
(1951) và đặc biệt là chùm ca khúc về chiến dịch Điện Biên: Hành quân xa (1953), Trên đồi Him
Lam (1954) và Chiến thắng ?iện Biên � (1954) không những mang tính lịch sử mà còn chứa
đựng giá trị nghệ thuật cao cả.
1960 đến 1963, ông tu nghiệp tại Nhạc viện Tchaikovsky (Liên Xô cũ ). Về nước, ông là người đầu
tiên đặt nền móng cho thể loại nhạc kịch (Opera) Việt Nam, với các vở: Cô Sao (1964), Người tạc
tượng (1973), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1981).
Ở lĩnh vực thanh nhạc thời kỳ kháng chiến chống Mĩ và sau này, nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã tiếp cận
nhiều mảng đề tài của cuộc sống hiện tại để đưa vào ca khúc. Đặc điểm sáng tác của ông trong
các tác phẩm đều mang âm hưởng của âm nhạc dân gian. Vì thế, nhiều ca khúc đến nay khi nghe
vẫn cảm thấy thân quen gần gũi. Điển hình cho những ca khúc đó là: Việt Nam quê hương tôi, Giặc
đến nhà ta phải đánh, Thắm hoa núi rừng, Vui mở đường, Trai anh hùng gái đảm đang, , Hát mừng
các cụ dân quân, Em là thợ quét vôi, Tôi thích thể thao, Đường bốn mùa xuân ...
Lĩnh vực khí nhạc, ông cũng thành công qua một số tác phẩm: Tây Nguyên (tứ tấu đàn dây), Mùa


xuân (khúc biến tấu cho flute và piano), Điện Biên (tổ khúc giao hưởng), Dimirtôp (giao hưởng
thơ ). Đỗ Nhuận còn là tác giả âm nhạc cho nhiều bộ phim truyện nhựa, phim tài liệu như: Nguyễn
Văn Trỗi, Mở đường Trường Sơn...
Các ấn phẩm đã xuất bản: tập ca khúc Chiến thắng Điện Biên Phủ (1961), vở nhạc kịch Người tạc
tượng (1973), tập ca khúc Việt Nam quê hương tôi (1977), Tuyển chọn ca khúc Đỗ Nhuận (1994),
phim video Đỗ Nhuận người nhạc sĩ của nhân dân (1986) và cuốn hồi ký "Âm thanh cuộc đời"
(2003).
Đỗ Nhuận nguyên là tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam
khoá I và khoá II. Với sự cống hiến lớn lao của ông cho nền âm nhạc
nước nhà, ông được tặng huân chương Độc lập hạng II. Năm 1996,
ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật
cho các tác phẩm, ca khúc: Nhớ chiến khu, Du kích sông thao, Hành
quân xa, Giải phóng Điện Biên, Việt Nam quê hương tôi, Trai anh
hùng gái đảm đang.
TÁC PHẨM
Trai anh hùng, gái đảm đang
Trông cây lại nhớ đến Người
Em là thợ quét vôi
Việt Nam quê hương tôi
Hành quân xa
Chiến thắng Ŀiện Biên
Du kích Sông Thao
Vui mở đường
Trên đồi Him Lam

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×