Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Đường lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.27 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Ho Chi Minh City University of Technology and Education

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Bộ môn:
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

BÀI TIỂU LUẬN:
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ LÀ NỀN TẢNG,
ĐỘNG LỰC CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA
HIỆN ĐẠI HÓA
ĐẤT NƯỚC
(Lớp thứ 4,tiết 7-9,phòng A4-301)

GVHD: ThS. PHÙNG THẾ ANH
SVTH:
Lê Bá Anh Võ

18143185

Đỗ Tấn Đạt

18143077

Huỳnh Đức

18143083


Bùi Tiểu Khắc Vương

18143190

Hồ Chí Minh, tháng 5/2019

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH: Công nghiệp hóa.
HĐH: Hiện đại hóa.


KHCN: Khoa học công nghệ.
CMCN: Cách mạng công nghệ.
CNTT: Công nghệ thông tin.
XHCN:Xã hội chủ nghĩa.
ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng
Anh: Association of South East Asian Nations, viết tắt là ASEAN)
APEC: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng
Anh: Asia-Pacific Economic Cooperation, viết tắt là APEC)
ASEM: Diễn đàn hợp tác Á–Âu (tiếng Anh: The Asia-Europe
Meeting, viết tắt ASEM)
WTO: : Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade
Organization, viết tắt WTO)


MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1.Lý do chọn đề
tài……………………………………………………………1
1.2.Mục đích nghiên

cứu………………………………………………………..2
1.3.Những nội dung
chính………………………………………………………2

PHẦN 2:NỘI DUNG
2.1.Kiến thức cơ
bản……………………………………………………………4
2.1.1.Đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước……………………..4
2.1.2.Những khái niệm về Khoa học – Công
Nghệ…………………………….4
2.1.3.Vai trò và tầm quan trọng của Khoa học - Công nghệ đối
với sự phát triển của Việt
Nam…………………………………………………………………...5
2.1.4.Khoa học – Công nghệ là nền tảng, là động lực của Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất
nước………………………………………………………….8
2.1.4.1. Khoa học-Công nghệ với sự nghiệp CNH-HĐH nông
thôn và phát triển bền vững nông
thôn…………………………………………………10
2.1.4.2. Khoa học-Công nghệ là động lực phát triển ngành
công
nghiệp
Việt
Nam……………………………………………………………………….17
2.1.4.3. Cuộc cách
4.0…………………….20

mạng


Khoa

học-Công

2.2.Kiến thức vận
dụng………………………………………………………..21

nghệ


2.2.1.Những thành tựu và hạn chế trong công cuộc áp dụng
khoa học công nghệ vào quá trình phát triển CNH-HĐH đất
nước…………………………………21
2.2.2.Vai trò và tầm quan trọng của thế hệ trẻ trong đó tiêu
biểu là sinh viên trong việc xây dựng và phát triển nền CNHHĐH đất nước…………………..22

PHẦN 3: KẾT LUẬN
Tổng kết lại những điểm chính vấn đề nghiên cứu của bài
tiểu luận…...23


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1.Lý do chọn đề tài.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân
số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chấtkỹ thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước đáp ứng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu
hút nguồn lực xã hội cho phát triển.
So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều

thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy
mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình), đời
sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu
cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành
lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,Đảng ta luôn đề ra
những chủ trương, đường lối đúng đắn, sáng tạo nhằm thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành
trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến
phức tạp. Đó là sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía
vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng
sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc
tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang
dao động của một bộ phận những người cộng sản trên thế giới
đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân Việt Nam.
Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá
hoại của các lực lượng thù địch ở cả trong và ngoài nước. Tình
hình kinh tế và đời sóng của nhân dân vẫn còn khó khăn, đất
nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, công cuộc đổi mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ
VI (12/1986), bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể,
nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển.Do đó,
5

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam



chúng ta cũng không thể tiến hành CNH theo kiểu cũ nữa. Lần
đầu tiên Đại hội xác định, “Công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại, gắn liền với sự phát triển một nền nông nghiệp
toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội” (1).Đặc biệt, Đại hội khẳng định
rằng, quan điểm về CNH theo hướng hiện đại “Đòi hỏi có chín
sách công nghiệp thích hợp, tận dụng được lợi thế của nước đi
sau trong điều kiện mới của cách mạng khoa học công nghệ thế
giới”(2).Tiến hành CNH theo hướng hiện đại là quan điểm rất mới
vào thời điểm đó. Quan điểm đó bao hàm việc không tách rời
CNH với HĐH, đồng thời phải tận dụng được những thành tựu,
những tri thức mới nhất của khoa học và công nghệ hiện đại
của thế giới.
Để tìm hiểu một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về vấn đề
trên,nhóm chúng tôi đã quyết định chọn đề tài:”Phát triển khoa
học công nghệ là nền tảng,là động lực của Công nghiệp hóaHiện đại hóa đất nước” làm đề tài thảo luận và nghiên cứu cho
môn học: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1.2.Mục đích nghiên cứu.
Làm rỏ vấn đề vì sao khoa học công nghệ là nền tảng, là
động lực của CNH-HĐH đất nước.Nghiên cứu thực trạng, vai trò
của khoa học công nghệ hiện đại tác động mạnh mẽ đến tất cả
các hoạt động sản xuất và trong mọi lĩnh lực của đời sống xã
hội.
Tìm hiểu về những thành tựu mà nước ta đã đạt được
trong việc đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
và các hoạt động xã hội,bên cạch đó nhìn ra những mặt hạn
chế còn tồn đọng từ đó đề ra những giải pháp hợp lý.
Từ những vấn đề đã nghiên cứu và tìm hiểu, rút ra bài học

kinh nghiệm của thanh niên nói chung và tất cả sinh viên nói
riêng.Chúng ta phải hành động cụ thể, phát huy tinh thần sáng
tạo,bản lĩnh dám hành động, say mê nghiên cứu học tập và tiếp
thu những tiến bộ mới nhất của khoa học và kỹ thuật nhằm
nâng cao trình độ năng lực để góp phần thúc đẩy tăng trưỡng
kinh tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa đất nước đi lên
phát triển bền vững.
1.3.Những nội dung chính.
6

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


Phần nội dung:
Kiến thức cơ bản (Nội dung 2.1)
-Khái quát Đường lối CNH-HĐH đất nước. (Nội dung 2.1.1)
-Những khái niệm về Khoa học – Công Nghệ. (Nội dung 2.1.2)
-Vai trò và tầm quan trọng của Khoa học - Công nghệ đối với
sự phát triển của Việt Nam. (Nội dung 2.1.3)
-Khoa học – Công nghệ là nền tảng, là động lực của Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. (Nội dung 2.1.4)
Kiến thức vận dụng (Nội dung 2.2)
-Những thành tựu và hạn chế trong công cuộc áp dụng khoa
học công nghệ vào quá trình phát triển CNH-HĐH đất nước. (Nội
dung 2.2.1)
-Vai trò và tầm quan trọng của thế hệ trẻ trong đó tiêu biểu
là sinh viên trong việc xây dựng và phát triển nền CNH-HĐH
đất nước. (Nội dung 2.2.2)
Phần kết luận:
Tổng kết lại những điểm chính vấn đề nghiên cứu của bài

tiểu luận.

7

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Kiến thức cơ bản.
2.1.1.Khái quát Đường lối công nghiệp hóa-hiện đại hóa
đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) được quan
niệm là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là
phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được
đào tạo cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao và tạo
ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời
sống xã hội (trước hết là hoạt động sản xuất vật chất). Đó là
quá trình sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của
con người để tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền thống của
dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm
hướng tới một xã hội văn minh, hiện đại. Ngày nay, công cuộc
CNH, HĐH đã trở thành tất yếu của sự phát triển, là làn sóng
mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới cũng
như mọi mặt của đời sống xã hội.

8


(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


Ở Việt Nam, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VII (7-1994) đã thông qua đường lối CNH, HĐH
đất nước. Đảng ta xác định: Trong quá trình phát triển đất nước
theo định hướng XHCN, CNH, HĐH là phương tiện, phương thức
để đạt đến mục tiêu vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp,
vì sự giải phóng và phát triển toàn diện của con người. Hiện
nay, CNH, HĐH được xác định là nhiệm vụ trung tâm, quan
trọng nhất của toàn Đảng, toàn dân; là con đường duy nhất để
“rút ngắn” quá trình phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu ngày
càng xa với các nước trên thế giới. Là một nước còn nghèo với
kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, CNH, HĐH đối với Việt Nam là
một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
2.1.2. Những khái niệm về Khoa học – Công Nghệ.
Theo cách hiểu chung nhất, hoạt động khoa học và công
nghệ là tập hợp toàn bộ các hoạt động có hệ thống và sáng tạo
nhằm phát triển kho tàng kiến thức liên quan đến con người, tự
nhiên và xã hội, nhằm sử dụng những kiến thức đó để toại ra
những ứng dụng mới.
Tại Việt Nam, theo quy định của Luật Khoa học và Công
nghệ, hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm các hoạt
động: nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công
nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động
hkacs nhằm phát triển khoa học và công nghệ. Trong đó:
- Nghiên cứu khoa học là loại hoạt động phát hiện, tìm hiểu các

hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng
tạo các giải phát nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu
khoa học gồm nghiên cúa cơ bản, nghiên cứu ứng dụng;
- Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện
công nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm
triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm;
- Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quản
nghiên cứu khoa học để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công
nghệ mới, sản phẩm mới;

9

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


- Sản xuất thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quản triển
khai thực nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhăm fhoanf
thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất
và đời sống;
- Dịch vụ Khoa học và Cộng nghệ là các hoạt động phục vụ việc
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động
liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch
vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng
trí thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiến.
2.1.3. Vai trò và tầm quan trọng của Khoa học - Công
nghệ đối với sự phát triển của Việt Nam.
Tại Việt Nam khoa học và công nghệ là một bộ phận
nguồn lực không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội. Có thể khái quát vai trò của khoa học và công nghệ như
sau:

-Mở rộng khả năng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Khoa học và công nghệ với sự ra đời của nhiều công nghệ
mới đã làm cho nền kinh tế phát triển từ chiều rộng sang chiều
sâu, tức là tăng trưởng kinh tế đạt được dựa trên việc nâng cao
hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất. Với vai trò này, khoa học
và công nghệ là phương tiện để chuyển nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế tri thức, trong đó phát triển nhanh các
ngành công nghệ cao, sử dụng nhiều lao động trí tuệ là đặc
điểm nổi bật.
-Thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ không chỉ
đẩy nhanh tộc độ phát triển của các ngành mà còn làm cho
phân công lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc và đưa
đến phân chia ngành kinh tế thành nhiều ngành nhỏ, xuất hiện
nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế mới, từ đó làm thay đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng tích cực, thể hiện:
+Tỷ trọng GDP của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu
hướng tăng dần, ngành nông nghiệp thì giảm.

10

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


+Cơ cấu kinh tế trong nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi
theo hướng ngày càng mở rộng quy mô sản xuất ở những
ngànhcó hàm lượng công nghệ cao; lao động tri thức ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn…

- Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa, thúc đẩy phát triển
kinh tế thị trường.
Việc áp dụng khoa học và công nghệ là yếu tố quan trọng,
không thể thiếu trong hoạt động sản xuất-kinh doanh của các
doanh nghiệp, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm,
hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, việc áp dụng các tiến bộ khoa
học và công nghệ đã có những tác động:
+Các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, lao động ngày
càng hiện đại và đồng bộ.
+Quy mô sản xuất mở rộng, thúc đẩy sự ra đời và phát
triển của nhiều loại hình doanh nghiệp mới.
Tạo ra nhịp độ cao hơn trong mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh và thay đổi trong chiến lược kinh doanh cảu các doanh
nghiệp.
Ngoài ra khoa học và công nghệ còn có vai trò là một công
cụ mạnh đối với phát triển con người và vai trò quan trọng
trong việc hoàn thiện cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất, kinh
doanh, trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
của xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của
ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Việc hội nhập kinh tế quốc tế, mở
rộng giao lưu mối quan hệ thương mại với các nước, các tổ chức
là một cơ hội để đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế
phát triển và đây cũng là xu hướng tất yếu. Việc hội nhập của
Việt Nam vào nền kinh tế thế giới trong thời gian qua đã thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế.
Trong xu thế hội nhập hiện nay thì khoa học và công nghệ
là một yếu tố có tác động to lớn đến việc tăng trưởng và phát

triển kinh tế của nước ta. Nó là chìa khoá cho việc hội nhập
thành công, cho việc thực hiện rút ngắn quá trình CNH - HĐH
11

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


đất nước bắt kịp với các quốc gia khác trên thế giới. khoa học
và công nghệ là yếu tố quyết định đến việc thực hiện mục tiêu
chuyển nền kinh tế của nước ta sang nền kinh tế tri thức, cho
tiến trình toàn cầu hoá. Trong những năm gần đây, cùng với sự
phát triển như vũ bão của KH&CN, kinh tế Việt Nam đã có nhiều
chuyển biến tích cực, đặc biệt là ở các lĩnh vực được coi là mũi
nhọn. Những kết quả khả quan đó trong bức tranh toàn cảnh về
kinh tế đã thêm một lần khẳng định rõ ràng rằng khoa học và
công nghệ chính là động lực then chốt cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Khoa học và công nghệ là đòn bẩy trong quá trình tái cơ
cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam sớm trở thành nước công
nghiệp. Xã hội càng phát triển thì vai trò đòn bảy của khoa học
và công nghệ lại càng được thể hiện một cách sâu sắc bằng
chính những tác động lớn đến nhịp độ tăng trưởng kinh tế của
nhiều quốc gia trên thế giới. Với riêng Việt Nam chúng ta, thành
quả của khoa học và công nghệ và đặc biệt là sự đổi mới công
nghệ đã mang lại những tín hiệu rất lạc quan trong việc thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội, tạo nên những diện mạo
mới trong bức tranh phát triển đa sắc màu.
Có thể thấy, nhờ những đóng góp quan trọng của hoạt
động khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực như: Công

nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, y tế…trong những năm gần đây
đã đem lại cho chúng ta những kết quả và thành tựu rất đáng
khích lệ như: Hàng nghìn giống cùng quy trình sản xuất mới từ
phòng thí nghiệm đã đến với người dân, được ứng dụng rộng
rãi. Có thể nói, khoa học và công nghệ ngày nay đã và đang
đóng vai trò lớn trong lai tạo, nhân giống cây trồng mới, tăng
năng suất thay thế giống nhập ngoại. Nhiều công nghệ mới
được ứng dụng làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn, tăng giá trị sản xuất, đưa nước ta vào nhóm các
nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hạt tiêu, điều,
cao su.
Với lĩnh vực Y tế, khoa học và công nghệ đã nâng trình độ
y học của nước ta lên ngang tầm với các nước trong khu vực và
thế giới. Đến nay, Việt Nam đã chủ động sản xuất được 9/10
12

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


loại vắc-xin phục vụ tiêm chủng mở rộng, giảm tỷ lệ mắc và tử
vong của nhiều bệnh như bại liệt, viêm não… Các nhà khoa học
cũng làm chủ nhiều quy trình chẩn đoán, điều trị hiệu quả
nhiều bệnh mới phát sinh, nguy hiểm như SARS, cúm A/H5N1.
Nhiều công nghệ kỹ thuật cao (xử lý tế bào gốc, tạo da để chữa
bỏng…), phác đồ điều trị tiên tiến đã được áp dụng trong
chuyên khoa tim mạch, sản, ngoại khoa.
Trong công nghiệp, khoa học và công nghệ giúp cải tiến,
đổi mới công nghệ của các ngành, lĩnh vực và đang chứng tỏ
hiệu quả trong thời gian qua. Việt Nam đã sản xuất được nhiều
thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng; làm chủ công

nghệ đóng tàu trọng tải lớn. Ngoài ra, những kết quả phát triển
mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ thông tin, thương mại điện
tử cũng là một chìa khóa để giúp nước ta thành công hơn trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1.4.Khoa học – Công nghệ là nền tảng, là động lực của
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.
Khoa học và công nghệ (KHCN) có vai trò quyết định đến
sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, vừa là phương
tiện, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đảng
và Nhà nước ta luôn coi phát triển và ứng dụng KHCN là quốc
sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng để
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một nội dung
cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt
động của các ngành, các cấp...
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII khẳng định, tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ
chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát
triển KHCN; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách
cán bộ, cơ chế tự chủ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đầu tư nhân lực KHCN là đầu tư cho phát triển
bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc...
Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển
KHCN. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ
tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ
thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển
khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm
13

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam



của đổi mới ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu
quan trọng nhất của thị trường KHCN. Chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế để cập nhật tri thức KHCN tiên tiến của thế giới,
thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án KHCN của
Việt Nam...
Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư được hình
thành trên nền tảng của CMCN lần thứ ba với xu hướng phát
triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ công nghệ số (bao gồm
kết nối in-tơ-nét vạn vật, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây,
cơ sở dữ liệu lớn) và nền tảng hiểu biết về vật lý, vật liệu, sinh
học, cho phép tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành rẻ,
ngày càng theo ý muốn, nhu cầu đa dạng của con người. Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi căn bản nền
sản xuất của thế giới với sức lan tỏa nhanh chóng của số hóa và
công nghệ thông tin, có tác động sâu sắc, rộng rãi đến toàn bộ
đời sống xã hội, sản xuất, dịch vụ và lưu thông phân phối hàng
hóa trên toàn thế giới. Theo đó, công nghệ máy tính và kỹ thuật
điều khiển tự động hóa sẽ tích hợp vào nhau theo một phương
thức mới. Ba xu hướng chính thay đổi cách thức tổ chức và hoạt
động của các nhà máy, tổ hợp công nghiệp. Đó là số hóa, công
nghiệp hóa, tối ưu hóa.
Mọi quy trình sản xuất (trong mọi lĩnh vực từ công nghệ
cao tới thiết bị công nghiệp) đang được chuyển đổi bởi công
nghệ số. Các doanh nghiệp đã tích hợp công nghệ mới để cải
tiến và phát triển. Những doanh nghiệp hiện đại coi việc cải tiến
dù những thành phần đơn giản nhất trong quy trình sản xuất
cũng tạo ra nhiều cơ hội phát triển mới;

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gồm 4 đặc điểm chính,
thể hiện năng lực to lớn mà các ngành công nghiệp và khu vực
sản xuất có được cho sự thay đổi: Sự kết nối các khâu theo
chiều dọc quy trình của các hệ thống sản xuất thông minh; sự
tích hợp các khâu theo chiều ngang thông qua thế hệ mới các
chuỗi giá trị toàn cầu; hàm lượng kỹ nghệ sâu trong toàn bộ
chuỗi giá trị; tác động của những công nghệ đột phá. Điều này
thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất, sự kết nối chiều dọc của quy trình sử dụng các
hệ thống điều khiển công nghiệp phỏng sinh học (CPS) cho
14

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


phép các nhà máy phản ứng một cách nhanh chóng đối với
những thay đổi cung cầu trên thị trường và sản phẩm lỗi. Mọi sự
bất thường (thay đổi đơn hàng, nhu cầu thị trường, mức độ dao
động chất lượng sản phẩm, sản phẩm lỗi...) đều được ghi nhận
và xử lý một cách nhanh chóng. Do vậy, việc lãng phí thời gian,
nguyên vật liệu, nhân công được giảm thiểu.
Thứ hai, sự tích hợp theo chiều ngang thông qua một dạng
mới của chuỗi giá trị toàn cầu. Những mạng sản sinh giá trị mới
này là những mạng tối ưu cho phép tích hợp sự minh bạch và
độ linh hoạt cao độ để xử lý nhanh chóng những vấn đề và lỗi
sản phẩm, theo sau là sự tối ưu chuỗi giá trị trên qui mô toàn
cầu.
Thứ ba, hàm lượng tri thức, KHCN cao và có tính liên
ngành được thể hiện trên toàn chuỗi giá trị cũng như trên toàn
bộ vòng đời của sản phẩm và khách hàng.

Thứ tư, tác động của các công nghệ mang tính đột phá là
chất xúc tác cho phép các giải pháp phù hợp sở thích cá nhân,
độ linh hoạt và giảm chi phí trong các qui trình sản xuất.
Theo Báo cáo về viễn cảnh đổi mới và khoa học công nghệ
(STIO) 2016 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
có 40 công nghệ sẽ trở thành những công nghệ trụ cột trong
tương lai thuộc 4 lĩnh vực là: công nghệ số, công nghệ sinh học,
vật lý - vật liệu tiên tiến và năng lượng - môi trường; trong đó
có 10 công nghệ được STIO chọn là có triển vọng phát triển
nhất tới năm 2030 nhưng đồng thời cũng có khả năng gây bất
ổn và ẩn chứa những rủi ro, gồm:


Lĩnh vực công nghệ số: Trí tuệ nhân tạo sẽ tạo cho máy
móc có khả năng suy luận và được dự báo là một ngày nào
đó có thể vượt qua con người. In-tơ-nét vạn vật hứa hẹn
một xã hội siêu kết nối về kỹ thuật số, có tác động sâu sắc
đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và xã hội. Phân tích
dữ liệu lớn có các công cụ và kỹ thuật phân tích để thu
thập kết quả mong đợi từ dữ liệu lớn. Nó có tác động kinh
tế - xã hội rất lớn, nhưng cũng đặt ra thách thức lớn về
chính sách. Chuỗi khối là một cơ sở dữ liệu cho phép
chuyển giao giá trị trong các mạng máy tính, an toàn và
phù hợp.
15

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam









Trong lĩnh vực công nghệ sinh học: Sinh học tổng hợp dựa
trên các nguyên lý kỹ thuật để thao tác điều khiển di
truyền phân tử (DNA) trong sinh vật. Nó cho phép thiết kế
và tạo ra các bộ phận sinh học mới và tái thiết các hệ
thống sinh học tự nhiên cho các mục đích hữu ích. Công
nghệ thần kinh mới nổi có nhiều hứa hẹn trong việc chẩn
đoán và điều trị cho sự lão hóa tự nhiên của con người.
Trong lĩnh vực vật lý và vật liệu tiên tiến: Các vật liệu nano thể hiện nhiều đặc tính độc đáo về quang học, từ tính
và điện, hóa học, vật lý có thể khai thác trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, từ chăm sóc sức khỏe đến công nghệ năng
lượng; in 3D và chế tạo là việc thêm dần vật liệu để tạo ra
một sản phẩm có hình dạng theo yêu cầu, là cách tiếp cận
chưa từng có đối với sản xuất, cung cấp các mô hình kinh
doanh mới và làm thay đổi đáng kể đối với các ngành công
nghiệp hiện có.
Năng lượng và môi trường: Công nghệ lưu trữ năng lượng
tiên tiến có thể được định nghĩa như là một hệ thống hấp
thu năng lượng và lưu giữ nó trong một khoảng thời gian
để giải phóng theo yêu cầu cung cấp dịch vụ năng lượng
hoặc điện. Vệ tinh nhỏ và siêu nhỏ làm tăng cường sự phát
triển xã hội thông qua sử dụng vệ tinh nhỏ và rất nhỏ.

2.1.4.1.Khoa học-Công nghệ với sự nghiệp CNH-HĐH
nông thôn và phát triển bền vững nông thôn.
Các vấn đề về nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời

sống nông dân luôn chiếm vị trí quan trọng trong các chương
trình nghị sự của Đảng và Nhà nước ta. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn ngày càng được nhận thức sâu
sắc hơn và Đảng ta đã đề ra những chủ trương, định hướng
cũng như ban hành hệ thống chính sách kịp thời, phù hợp từng
giai đoạn phát triển của đất nước.
-Nông nghiệp phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng
tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả; kim ngạch xuất khẩu
nông, lâm, thuỷ sản đều tăng nhanh.
Trong gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đạt
được mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian
dài, các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản
đều có tốc độ phát triển đáng kể. Giá trị sản xuất nông, lâm
16

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


nghiệp và thủy sản năm 1986 đạt 65,1 nghìn tỷ đồng, năm
2005 đạt 182 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2,8 lần và đến năm 2014
khoảng 830 nghìn tỷ đồng, trong đó: nông nghiệp đạt 617,5
nghìn tỷ đồng; lâm nghiệp đạt 23,9 nghìn tỷ đồng; thủy sản đạt
188,6 nghìn tỷ đồng. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm
2014 đạt mức tăng 5,98% so với năm 2013, trong đó khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,49%, đóng góp 0,61%
tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã có
bước tiến vượt bậc. Năm 1986, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm,
thuỷ sản chỉ đạt 400 triệu USD, đến năm 2007 đã đạt tới 12 tỷ
USD, năm 2014 đạt 30,86 tỷ USD. Một số mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu cao như: gạo, cà-phê, cao-su, hạt điều, hồ

tiêu, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản... tăng nhanh và đứng nhóm
hàng đầu thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường.
Các liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản phát triển đa dạng
phù hợp với điều kiện sản xuất của từng vùng và địa phương.
Trong đó, nhiều mô hình đã thành công như mô hình cánh đồng
mẫu lớn; mô hình chuỗi sản xuất, thương mại, chế biến và phân
phối sản phẩm khép kín; mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác kiểu
mới; mô hình doanh nghiệp công nghệ cao trong nông nghiệp;
các tổ chức hợp tác theo quy mô cộng đồng làng, xã dưới hình
thức hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, công ty cổ phần… Sự ra
đời và phát triển của các mô hình tổ chức sản xuất mới trong
nông nghiệp rất phong phú, đa dạng, phù hợp với điều kiện cụ
thể của từng vùng, miền, điều kiện sản xuất đặc thù của mỗi
loại sản phẩm. Những thành công bước đầu từ các mô hình tổ
chức sản xuất mới trong nông nghiệp đang mở ra tương lai cho
sự phát triển của nền nông nghiệp nước nhà. Nông dân và
doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo cho chuỗi giá trị sản phẩm
nông nghiệp thông qua các liên kết sản xuất và tiêu thụ nông
sản. Việc liên kết thành những tổ chức nông dân sản xuất - tiêu
thụ cho phép hình thành vùng nông sản ổn định, bền vững, xây
dựng thương hiệu nông sản đáp ứng yêu cầu thị trường trong
thời kỳ hội nhập. Quan hệ sản xuất được xây dựng ngày càng
phù hợp, huy động được sự đóng góp của các thành phần kinh
tế vào lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt hiện có đến 24.000 trang
trại được đăng ký chứng nhận theo tiêu chí mới(1).
17

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam



Đến thời điểm cuối năm 2014, cơ cấu nông nghiệp và kinh
tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy
mạnh sản xuất các loại nông sản có nhu cầu thị trường và có
giá trị kinh tế cao. Đối với ngành trồng trọt, năm 2014, sản xuất
lúa được mùa cả 3 vụ trên phạm vi cả nước, sản lượng đạt 45
triệu tấn, tăng gần 1 triệu tấn so với năm 2013; sản lượng ngô
đạt 5,45 triệu tấn, tăng thêm được 250 nghìn tấn; sản lượng
sắn tăng 6,3%... Chăn nuôi khởi sắc, sản lượng các sản phẩm
chính đều tăng (thịt hơi các loại tăng 2,7%, sữa tăng 15,6%,
trứng tăng 3,8%), trong khi giá cả luôn ở mức khá cao. Xuất
hiện ngày càng nhiều cơ sở, trang trại chăn nuôi kiểu công
nghiệp, áp dụng công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, hiệu quả
cao. Ngành thủy sản được đặc biệt quan tâm, giá trị sản xuất
năm 2014 tăng 6,8% so với năm 2013. Khai thác thủy sản có
chuyển biến mới theo hướng đẩy mạnh khai thác xa bờ, áp
dụng kỹ thuật và thiết bị tiên tiến để nâng cao giá trị, chất
lượng và hiệu quả khai thác. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản đã
khắc phục khá thành công những khó khăn về dịch bệnh. Sản
lượng nuôi trồng thuỷ sản năm 2014 đạt 3.413 nghìn tấn, tăng
6,1% so với năm trước. Đối với ngành lâm nghiệp, tiếp tục đẩy
mạnh khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng. Nhờ vậy độ che phủ
rừng đạt 41,5%, giá trị sản lượng tăng 7,1%. Đồng thời, đã có
bước chuyển động mới theo hướng phát triển rừng trồng cây gỗ
lớn. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tiếp tục phát
triển, nhiều doanh nghiệp đã đứng vững, duy trì và mở rộng sản
xuất; xuất hiện nhiều cơ sở mới, trong đó một số cơ sở chế biến
nông, lâm, thủy sản bằng công nghệ cao. Cả nước hiện có
2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống, đang

giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả
lao động thường xuyên và lao động không thường xuyên.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn,
ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào các khâu sản
xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường.
Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Hệ
thống đê điều, đường giao thông, kết cấu hạ tầng nghề cá…
đều được củng cố. Những năm qua, số lượng chợ xây mới, cải
tạo, nâng cấp tiếp tục tăng với sự đa dạng về loại hình và cấp
độ chợ, giá trị hàng hóa dịch vụ qua hệ thống chợ ngày càng
18

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


tăng, góp phần không nhỏ vào việc tiêu thụ nông sản hàng hóa,
đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống sinh hoạt của người
dân.
Ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nông
nghiệp ngày càng phổ biến theo hướng sử dụng giống mới,
công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến. Đặc biệt,
bên cạnh việc cơ giới hóa các khâu trong sản xuất nông nghiệp
như tưới nước, tuốt và làm sạch nông sản, chế biến thức ăn
chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản… các khâu sơ chế, bảo quản
nông, lâm, thủy sản sau thu hoạch cũng được ứng dụng công
nghệ sản xuất tiên tiến, giúp kéo dài thời gian bảo quản sản
phẩm mà vẫn giữ được giá trị dinh dưỡng.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã
góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người

dân ở nông thôn. Đời sống nông dân và bộ mặt kinh tế nông
thôn có thay đổi lớn. Từ một nước thường xuyên thiếu đói, hằng
năm phải nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực, đến nay Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới
(sau Ấn Độ và Thái Lan). Thu nhập và đời sống người dân ngày
càng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân
1,8% /năm; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nông dân
được nâng lên rõ rệt. Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám, chữa
bệnh, phổ cập giáo dục, văn hoá, thông tin, thể thao cũng được
quan tâm và đẩy mạnh hơn. Hệ thống chính trị ở nông thôn
được tăng cường; vị thế giai cấp nông dân được nâng cao; an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Chương trình xây dựng nông thôn mới đã triển khai thực
hiện với sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các
cấp, sự hưởng ứng và tham gia tích cực của người dân và đã
đạt được những kết quả bước đầu khả quan. Bộ mặt nông thôn
ở nhiều nơi được đổi mới, văn minh hơn, kết cấu hạ tầng thiết
yếu được nâng cấp. Với sự cố gắng của các cấp, các ngành từ
Trung ương đến địa phương, đến tháng 01-2015 đã có 785 xã
đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 8,8% tổng số xã trên toàn
quốc), là một khích lệ lớn đối với phong trào xây dựng nông
thôn mới.
-Những khó khăn, hạn chế

19

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


+Một số văn bản pháp luật chậm được ban hành, sửa đổi, bổ

sung nên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành
nông nghiệp. Các chính sách để giải quyết tình trạng ô nhiễm
môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn…
chưa đồng bộ, chưa đầy đủ.
+Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nhiều nơi
chuyển dịch chậm; ngành, nghề, dịch vụ nông thôn phát triển
chưa tương xứng với tiềm năng… Cơ cấu lao động nông thôn cơ
bản vẫn là thuần nông.
+Năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số
nông sản phẩm còn thấp. Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học,
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, kinh phí đầu tư cho khoa
học, công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn hạn chế.
+Nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa
đáp ứng được nhu cầu. Chất lượng quy hoạch chưa thực sự hợp
lý, thiếu sự liên kết, thống nhất giữa các loại quy hoạch, chưa
gắn kết chặt chẽ với nguồn lực thực hiện.
+Việc phát triển các thành phần kinh tế trong lĩnh vực nông
nghiệp còn hạn chế. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan
trọng trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động ở nông thôn nhưng quy mô còn nhỏ, chủ yếu là hoạt động
dịch vụ và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị hoặc nơi có kết cấu
hạ tầng tương đối phát triển.
+Việc triển khai thực hiện mô hình Cánh đồng mẫu lớn, mô
hình Chuỗi sản xuất, thương mại, chế biến và phân phối sản
phẩm khép kín, mô hình nông dân góp cổ phần với doanh
nghiệp bằng giá trị quyền sử dụng đất, mô hình các hợp tác xã,
tổ hợp tác kiểu mới, mô hình liên kết theo hợp đồng; mô hình
doanh nghiệp công nghệ cao trong nông nghiệp mặc dù được
đánh giá là nhân tố mới, tuy nhiên còn nhiều vấn đề cần tiếp
tục hoàn thiện như: mối liên kết giữa doanh nghiệp và người

dân cần có tính pháp lý chặt chẽ hơn. Nhận thức về tích tụ, tập
trung ruộng đất chưa được làm rõ; chưa có cơ chế, chính sách
cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp hình thành, đào tạo và duy trì
đội ngũ cán bộ kỹ thuật; sự manh mún, nhỏ lẻ của sản xuất
nông nghiệp; sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao,
khó cạnh tranh; các hợp tác xã, tổ hợp tác gặp khó khăn trong
20

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


việc tiếp cận các chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách
ưu đãi về tín dụng, đầu tư kết cấu hạ tầng, ưu đãi đất đai...; sự
vào cuộc của chính quyền địa phương ở một số nơi chưa quyết
liệt, còn lúng túng, việc chuyển đổi sản xuất hàng hóa quy mô
lớn còn gặp nhiều khó khăn cả đầu vào lẫn khâu tiêu thụ; khả
năng nhân rộng mô hình hạn chế do khó khăn về vốn, kỹ thuật,
nguồn nhân lực,...
-Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn nhanh hơn, bền vững hơn
Về chính sách nông nghiệp - nông dân - nông thôn, trên cơ
sở Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa X, cần tiếp
tục nhận thức đầy đủ về các nghị quyết có liên quan như Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX về kinh tế hợp tác,
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về đổi mới mô hình tăng
trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế. Cần bám sát các nội dung
trong Kết luận của Bộ Chính trị và Đề án tái cơ cấu nền kinh tế,
Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp để tập trung thực hiện. Kết
luận số 97-KL/TW, ngày 09-5-2014 của Bộ Chính trị về một số
chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương

lần thứ 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã nêu
rõ nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu của quá trình
phát triển nông nghiệp, nông thôn là không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn trên cơ sở công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; coi phát triển
sản xuất nông nghiệp là then chốt, xây dựng nông thôn mới là
căn bản, nông dân giữ vai trò chủ thể trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển
nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất
hàng hóa lớn trên cơ sở tái cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm nông nghiệp. Nâng cao vai trò làm chủ của người
nông dân; chú trọng xây dựng và phát triển giai cấp nông dân.
Cơ cấu lại ngành nông nghiệp là một hợp phần của cơ cấu
lại tổng thể nền kinh tế quốc dân, theo đó cần bảo đảm chất
lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
Thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp vừa phải theo cơ chế thị
trường vừa phải bảo đảm các mục tiêu cơ bản về phúc lợi cho
21

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


nông dân và người tiêu dùng, chuyển mạnh từ phát triển theo
chiều rộng lấy số lượng làm mục tiêu phấn đấu sang nâng cao
chất lượng, hiệu quả thể hiện bằng giá trị, lợi nhuận, đồng thời
chú trọng đáp ứng các yêu cầu xã hội.
Kiên trì thực hiện các mục tiêu của Chương trình xây dựng
nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội từng bước hiện đại, cơ cấu kinh tế và hình thức
tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh
công nghiệp, dịch vụ, đời sống vật chất và tinh thần của người
dân ngày càng được nâng cao. Phát triển mô hình hợp tác xã
kiểu mới đòi hỏi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước đối với hợp tác xã. Theo Kết luận số 56-KL/TW,
ngày 21-02-2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, trong đó nêu rõ
một trong những giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
Nghị quyết trong thời gian tiếp theo là tổ chức triển khai có hiệu
quả Luật Hợp tác xã năm 2012, hoàn thiện cơ chế, chính sách
hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể.
Giai đoạn tới cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ
yếu sau:
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh
vực nông nghiệp: Sửa đổi, bổ sung Luật Thủy sản theo hướng
hoàn thiện các quy định về quy hoạch nuôi trồng thủy sản; bổ
sung quy định đối với cơ sở sơ chế nguyên liệu thủy sản; quy
định về sự liên kết dọc giữa các nhà sản xuất nguyên liệu, chế
biến, xuất khẩu thủy sản nhằm truy xuất nguồn gốc bảo đảm
quyền lợi cho các bên liên quan; quy định về nhập khẩu nguyên
liệu thủy sản, về quản lý chất lượng đối với hàng hoá thủy sản
nhập khẩu. Nghiên cứu ban hành Luật Thủy lợi để thay thế cho
Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi. Bổ sung các
quy định mới để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động và phát
triển doanh nghiệp khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi;
nâng cao công tác quản lý nhà nước trong khai thác và bảo vệ
công trình thủy lợi, đặc biệt trong khâu kiểm soát nước, chống
lấn chiếm trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi. Tiến hành

tổng kết chính sách thí điểm bảo hiểm nông nghiệp nhằm sớm

22

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


ban hành Luật Bảo hiểm nông nghiệp để bảo hiểm các hoạt
động đầu tư, sản xuất nông nghiệp của nông dân.
- Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy
hoạch sản xuất: Tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy
hoạch sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản) trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng,
miền. Rà soát, kiểm soát chặt chẽ quy hoạch sử dụng đất nông
nghiệp, đất quy hoạch cho các mặt hàng nông sản chiến lược,
mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đất cho chăn nuôi và nuôi trồng
thủy sản. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế
biến và thị trường. Phát triển sản xuất với quy mô hợp lý các
loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế, nông sản thay thế
nhập khẩu. Nghiên cứu, phát triển chăn nuôi theo hướng chăn
nuôi công nghiệp và bán công nghiệp; phát triển thức ăn chăn
nuôi với quy mô lớn để phục vụ nhu cầu chăn nuôi trong nước.
Tổ chức liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở, hộ gia đình chăn nuôi
và các cơ sở chế biến.
- Về hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và phát triển thị trường: Cơ cấu
lại thị trường nội địa, phát triển hệ thống bán buôn, bán lẻ; chú
trọng hơn nữa vào phát triển thị trường vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số theo hướng khuyến khích phát triển
doanh nghiệp xã hội, bảo đảm lợi ích người sản xuất trực tiếp.
Đối với thị trường xuất khẩu, duy trì thị trường truyền thống,

phát triển thị trường mới, chú trọng xây dựng thương hiệu sản
phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành để tăng
sức cạnh tranh. Điều tra, khảo sát, nghiên cứu thị trường tiêu
thụ sản phẩm nông, lâm, thủy, hải sản để nắm bắt thị hiếu tiêu
dùng, cơ cấu sản phẩm, giá cả, tập quán buôn bán của các thị
trường. Xây dựng đội ngũ chuyên gia có năng lực về phân tích,
nghiên cứu, dự báo thị trường để tham mưu, đề xuất chính sách
hiệu quả. Nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong
việc cung cấp thông tin, thống nhất thực hiện các chiến lược
phát triển sản xuất, liên kết trong kinh doanh, đàm phán ký kết
hợp đồng.
- Về ứng dụng khoa học công nghệ: Ðẩy mạnh nghiên cứu, ứng
dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên
cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng
giống cây trồng, vật nuôi, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
23

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


quả và sức cạnh tranh của nông sản; ứng dụng công nghệ sinh
học và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; nâng cao
khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây
trồng, vật nuôi… Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo
quản, chế biến nông, lâm, thủy sản…
- Về phát triển các mô hình liên kết: Tiến hành tổng kết, đổi mới
và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất có
hiệu quả ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích phát triển
các mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, hợp

tác xã, tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu
thụ sản phẩm để hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng gia
trại, trang trại có quy mô phù hợp, sản xuất hàng hoá lớn. Hình
thành các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh hiện đại và
chuyên nghiệp, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, liên kết
dọc sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp, liên
kết nông nghiệp với công nghiệp và kinh tế đô thị.
- Về phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông thôn: Phát triển đồng
bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, mở rộng diện tích
tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ động
cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; bảo đảm giao
thông thông suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường
ô-tô tới các thôn, bản; xây dựng cảng cá, khu neo đậu tàu
thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt cho hầu hết dân
cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; bảo đảm cơ
bản điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục,
thể thao ở hầu hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô
thị trung bình. Nâng cao năng lực phòng, chống, giảm nhẹ thiên
tai, hoàn chỉnh hệ thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ
ven biển, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, cụm
dân cư đáp ứng yêu cầu phòng, chống bão, lũ, ngăn mặn và
chống nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân
dân đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và các vùng thường
xuyên bị bão, lũ, thiên tai; chủ động triển khai các biện pháp
thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Về chính sách hỗ trợ tài chính: Đa dạng hóa các nguồn vốn để
tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống
24


(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản
lý để bảo đảm an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ đập, kè
ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động
phòng, chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường
nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm
các xã đều có đường ô-tô tới khu trung tâm, từng bước phát
triển đường ô-tô tới thôn bản; bảo đảm dân cư nông thôn có
điện sinh hoạt và được sử dụng nước sạch. Có chính sách cho
doanh nghiệp tham gia mô hình liên kết doanh nghiệp - nông
dân được vay vốn trung, dài hạn với lãi suất ưu đãi để triển khai
thực hiện mô hình liên kết. Nghiên cứu thành lập quỹ hỗ trợ
nông dân trong sản xuất và công nghệ sau thu hoạch (trước
mắt là sản phẩm lúa gạo) để hỗ trợ nông dân phát triển sản
xuất và giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch.
- Về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực: Có chế độ, chính sách
đãi ngộ, thu hút các nhà khoa học trong lĩnh vực công nghệ cao
làm việc trong ngành nông nghiệp, đội ngũ cán bộ trẻ có năng
lực, trình độ đến công tác ở nông thôn; chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ làm nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, đặc biệt
là lực lượng cán bộ trực tiếp thực hiện ở cơ sở. Tổ chức đào tạo
nghề cho lao động nông thôn phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội từng địa phương, từng vùng và sát với
nhu cầu, gắn với giải quyết việc làm. Nâng cao chất lượng đào
tạo nghề, nhất là cho vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
2.1.4.2.Khoa học-Công nghệ là động lực phát triển
ngành công nghiệp Việt Nam.

Khoa học và công nghệ luôn được xác định giữ vai trò then
chốt trong công cuộc đổi mới của nước ta, đặc biệt là trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một nền công
nghiệp phát triển luôn dựa trên một nền khoa học và công nghệ
tiên tiến và ngược lại, công nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện
cho khoa học và công nghệ phát triển…
Khẳng định vai trò then chốt
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt
từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, Đảng và Nhà
nước đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí,
vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) đối với phát triển
25

(1),(2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam


×