Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh bị hội chứng tăng động trong trường học VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 18 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến
Như chúng ta đã biết bậc học ở Tiểu học rất quan trọng vì nó là cơ sở ban
đầu, là nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người
Việt Nam. Ngoài việc học chữ, học kiến thức, học sinh còn được học các kỹ
năng sống, học cách làm người ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Nhiệm vụ
và quyền hạn của trường tiểu học là: Tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động
giáo dục đạt chất lượng theo mục tiêu, chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu
học do Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo ban hành. Huy động trẻ em đi học
đúng độ tuổi, vận động trẻ em khuyết tật, trẻ em đã bỏ học đến trường ,thực hiện
phổ cập giáo dục và chống mù chữ trong cộng đồng [3].
Vì vậy mà việc giúp đỡ hướng dẫn để học sinh trong lớp hoàn thành mục
tiêu giáo dục phụ thuộc chủ yếu vào giáo viên chủ nhiệm. Trong cuộc sống hiện
nay, có một số học sinh có biểu hiện tự kỷ, tăng động do môi trường sống, do
hoàn cảnh,… tác động lên. Đặc biệt là học sinh tăng động. Đây là một chứng mà
hiện nay xuất hiện khá nhiều ở một số trường học. Với những học sinh này công
tác giáo dục trẻ tăng động gặp rất nhiều khó khăn. Bởi những em học sinh đó
không bình thường như những trẻ khác. Mấy năm gần đây, khi dự giờ thăm lớp
cũng như dạy thay tôi đã bắt gặp những đối tượng học sinh như vậy. Những học
sinh đó đã làm xáo trộn nề nếp của lớp, gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ
nhiệm.Trao đổi cùng đồng nghiệp có học sinh này tôi thấy ai cũng thấy lo lắng ,
băn khoăn trước những học sinh có biểu hiện tăng động. Làm sao để giúp các
em học hòa nhập đã đặt ra trong đầu tôi sự tran trở từ rất lâu. Năm học 20182019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4C. Trong lớp có một học sinh tăng
động là em Lê Khúc Hải Nam. Với những học sinh này sẽ làm ảnh hưởng không
ít đến tình trạng học tập của lớp và của chính em học sinh đó. Giáo viên chủ
nhiệm là người hết sức quan trọng trong việc giúp đỡ, dìu dắt và hướng dẫn em
học sinh đó hòa nhập và hoàn thành các mục tiêu giáo dục.
Tôi đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp giúp đỡ học sinh tăng động với
mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giáo dục, phát triển nhân
cách cho học sinh,góp phần nâng cao chất lượng học tập của các em đồng thời
nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân. Đến giữa học kỳ II tôi đã thấy có hiệu


quả rõ rệt. Chính vì vậy mà tôi mạnh dạn chia sẻ “Một số biện pháp giúp học
sinh tăng động học hòa nhập trong trường học VNEN” trước đồng nghiệp hi
vọng các đồng nghiệp có thể ứng dụng vào dạy lớp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến trẻ bị tăng động.
- Đưa ra các biện pháp giúp học sinh tăng động hòa nhập và mang lại kết quả
cao trong học tập.
- Giúp các giáo viên chủ nhiệm có học sinh tăng động làm tốt công tác chuyên
môn, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn và nâng cao hiệu quả dạy học.
- Ghi lại những việc làm đi đến thành công để đúc rút kinh nghiệm của bản thân.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống biện pháp giúp đỡ học sinh bị hội chứng tăng động.
1


- Công tác chủ nhiệm đối với các học sinh tăng động ở trường Tiểu học Thành
Vân.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Giáo viên tìm đọc các tài liệu có liên quan
đến học sinh tăng động.
- Phương pháp quan sát: Quan sát đối tượng học sinh tăng động.
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với học sinh, cha mẹ học sinh và đồng
nghiệp về các biểu hiện của học sinh tăng động để có thêm kinh nghiệm.
- Phương pháp điều tra khảo sát: Thu thập thông tin để tìm ra cái tốt, cái chưa tốt
của học sinh tăng động.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
* Vị trí vai trò của giáo viên chủ nhiệm :
Là một giáo viên đứng lớp lại làm công tác chủ nhiệm nên tôi luôn coi

trọng đến việc hình thành và phát triển nhân cách của các em. Chính vì vậy tôi
luôn tìm hiểu, nghiên cứu các thông tư và điều lệ trường Tiểu học. Từ đó tôi đã
xác định rõ vai trò nhiệm vụ của người giáo viên Tiểu học.
Chương IV, Điều 34 trong Điều lệ trường tiểu học quy định rõ nhiệm vụ
của giáo viên: Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo
dục, kế hoạch dạy học; soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh;
quản lí học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia
các hoạt động chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giảng dạy
và giáo dục. Trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất,
danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, thương yêu, đối xử
công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền lợi chính đáng
của học sinh. Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, gia đình
học sinh và các tổ chức xã hội liên quan để tổ chức hoạt động giáo dục[2].
Giáo viên chủ nhiệm là người rất quan trọng trong việc hình thành và phát
triển nhân cách người học. Bởi giáo viên chủ nhiệm chính là người mẹ thứ 2 dìu
dắt và giúp đỡ học sinh. Các em luôn tin tưởng và tin vào từng cử chỉ của người
giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm nắm vai trò then chốt trong việc hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ một cách toàn diện. Đối với trẻ tăng động
việc giúp trẻ học hòa nhập và lĩnh hội được kiến thức thì vai trò của người giáo
viên chủ nhiệm càng quan trọng hơn.
Luật giáo dục đã ghi rõ “giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên Trung học
cơ sở”. Giúp học sinh nghĩa là thầy cô giáo không áp đặt, phải coi học sinh là
chủ thể của quá trình tiếp thu kinh nghiệm sống, tiếp nhận tích cực những kiến
thức và rèn luyện kỹ năng để phát triển nhân cách. Trong nhà trường, thầy cô
giáo phải tôn trọng, giúp đỡ, động viên để các em chủ động trong học tập, rèn
luyện [3].
Học sinh Tiểu học tư duy cảm xúc chiếm ưu thế, vì vậy cần sử dụng, tận
dụng và kết hợp các phương pháp, hình thức dạy học, giáo dục, các điều kiện,

2


các yếu tố, các sự kiện, hiện tượng của tự nhiên và xã hội xảy ra xung quanh các
em… để các em phát triển óc tưởng tượng, rèn luyện hành vi, bộc lộ cảm xúc,
tình cảm [3].
Phát triển đúng đắn còn có nghĩa là những kiến thức cung cấp cho trẻ phải
chính xác, khoa học, đơn giản, dễ hiểu. Những kỹ năng, thói quen hành vi giáo
dục cho trẻ phải chính xác. Phải hướng dẫn trẻ rèn luyện những hành vi, thói
quen đúng mục tiêu giáo dục nhân cách. Giáo dục rèn luyện cho trẻ hiểu đúng,
làm đúng những quy định chung của truyền thống đạo lý, biết tôn trọng nguyên
tắc sống và quy định của pháp luật là nền tảng hình thành các năng lực sau này
[3].
* Đối với trẻ tăng động chúng ta cần nắm rõ khái niệm vể tăng động và trẻ bị
tăng động.
Theo thống kê cứ 100 trẻ thì có 3 đến 5 trẻ mắc chứng tăng động giảm chú
ý với một số triệu chứng bắt đầu trước tuổi lên 7. Thực tế không ít trẻ mắc rối
loạn tăng động giảm chú ý ở mức độ nặng mới được các bậc cha mẹ phát hiện
và đưa đi khám. Nguyên nhân là do cha mẹ dành ít thời gian cho con, giao hẵn
trẻ cho ông bà hoặc người giúp việc chăm sóc hoặc cha mẹ chưa được trang bị
đầy đủ kiến thức, tâm lí về trường hợp này để có những phương pháp can thiệp
giúp con hiệu quả [2].
Vậy trẻ thế nào thì được xác định là tăng động giảm chú ý. Trẻ chỉ được
xác định tăng động giảm chú ý khi có tối thiểu 6 triệu chứng (hoặc hơn) trong
thời gian tối thiểu 6 tháng với ít nhất hai môi trường thể hiện (đa phần là trẻ có
biểu hiện ở nhà và lớp học) cụ thể sau:
+ Biểu hiện của trẻ kém tập trung:
- Không chú ý chi tiết và hay phạm lỗi do lơ đễnh.
- Khó tập trung khi chú ý học và chơi.
- Thường có vẻ không nghe khi được hỏi trực tiếp.

- Không theo kịp và hoàn thành các việc được yêu cầu.
- Tránh né, không thích làm những việc cần tập trung trí tuệ.
- Thường làm mất đồ.
- Thường bị phân tâm do kích thích bên ngoài.
+ Biểu hiện của trẻ khi bị tăng động:
- Cựa quậy bàn tay, chân hoặc ngọ nguậy trên ghế.
- Không thể ngồi yên một chỗ.
- Thường đứng lên bỏ ghế lúc đang học tập.
- Chạy hoặc leo trèo khắp nơi không thích hợp.
- Khó chơi một cách yên ắng.
- Thường đi hoặc làm như đang ngồi trên lò xo.
- Thường nói quá nhiều [2].
Trẻ mắc tăng động giảm chú ý (ADHD) là viết tắt của AttentionDeficit/Hyperactivity Disorder, dịch ra là rối loạn tăng động giảm chú ý. Có
nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này, nhìn chung nó là một rối loạn sức
khỏe tâm thần ảnh hưởng đến các mối quan hệ và sự thành công của người bị
chứng này [1].
3


ADHD không phải là bệnh, nó chỉ là một tình trạng sức khỏe, chủ yếu gặp
ở trẻ em. Các triệu chứng có xu hướng giảm dần khi trưởng thành nhưng cũng
có nhiều trường hợp không biến mất hoàn toàn, thậm chí tồi tệ hơn [1].
Các triệu chứng đặc trưng của ADHD là: khó tập trung, bồn chồn và có hành vi
bốc đồng. Ở mỗi người các triệu chứng là không giống nhau [1].
Vậy rối loạn tăng động giảm chú ý là gì ?
Ở chứng rối loạn tăng động giảm chú ý, vấn để xoay quanh rối loạn phát
triển hành động thiếu tự chủ. Xuất hiện các vấn đề liên quan đếnm sự chú ý,
Kiểm soát sự kích thích và về sự tăng động, thế nhưng còn hơn thế, nó còn liên
quan đến sự hạn chế khả năng những đứa trẻ này, các mục tiêu tương lai và hệ
quả ứng xử của chúng [1]

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Về Nhà trường
2.1.1. Thuận lợi
Thành Vân là một xã từ lâu có truyền thống hiếu học. Các ban ngành
đoàn thể ở địa phương luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Trường được đặt
ngay trung tâm xã nên có nhiều điều kiện thuận lợi.
Nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên vận dụng đổi mới
phương pháp dạy học đạt kết quả tốt. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, yêu nghề,
mến trẻ, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
Nhà trường được công nhận là trường chuẩn quốc gia và nhiều năm liền
đạt trường Tiên tiến cấp huyện, Lao động Xuất sắc cấp tỉnh.
Học sinh được học hai buổi trên ngày và đã quen với cách học của mô
hình trường học Việt Nam mới VNEN nên các em đã biết cách lĩnh hội kiến
thức và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
2.1.2. Khó khăn
Thành Vân là một xã trung du miền núi. Phần lớn dân trong xã làm nông
nghiệp nên điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài giờ lên lớp các em
còn phải phụ giúp gia đình, thời gian đầu tư vào việc học tập còn ít.
Học sinh dân tộc chiếm tỉ 48% nên còn một số em hạn chế trong giao tiếp
xã hội, thường nhút nhát, rụt rè chưa dám bộc lộ mình.
Bên cạnh đó một bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em
mình. Nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn xa, gửi con cho ông bà, cô, dì, chú ,bác
nên việc học tập cũng gặp nhiều khó khăn.
Qua tìm hiểu, trao đổi với các đồng nghiệp trong trường tôi được biết:
hiện nay trong Nhà trường vẫn có một số lớp học sinh có biểu hiện trầm cảm,
tăng động gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm và một số giáo viên
đứng lớp. Cụ thể năm học 2018-2019 trường có 16 lớp thì 3 lớp có học sinh tăng
động. Đó là lớp 1A có em Hòa, lớp 3B có em Trinh, lớp 4C có em Hải Nam.
2.2. Về tình hình thực tế của lớp 4C
Năm học 2018-2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4C với 28 học

sinh. Trong đó có 14 học sinh nữ và 14 học sinh nam. Học sinh trong lớp chủ
yếu nằm trong địa bàn xã Thành Vân nên thuận tiện cho việc đi lại. Qua tìm hiểu
tôi được biết các em chủ yếu là con nhà nông nghiệp, điều kiện kinh tế một số
gia đình còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều gia đình phải gửi con cho ông bà, cô dì,
4


chú bác để đi làm ăn xa. Nhiều gia đình còn có quan điểm trăm sự nhờ nhà
trường và nhờ cô nên giáo viên cũng gặp không ít khó khăn trong vấn đề dạy
học và giáo dục. Trong lớp có một học sinh có biểu hiện tăng động là em Lê
Khúc Hải Nam. Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm cũ tôi được biết Hải Nam có
biểu hiện tăng động từ khi vào lớp 1. Trên thực tế em có những biểu hiện tăn
động như:
- Không tập trung chú ý khi nghe cô giảng bài.
- Hay làm ồn ào mất trật tự trong giờ học.
- Nói tự do trong lớp.
- Nổi khùng khi không vừa ý.
- Hay chọc ghẹo bạn bè.
- Đánh bạn một cách vô lý.
- Khó khăn khi để ý vào một việc gì đó.
- Không hợp tác nhóm với bạn bè.
- Thường xuyên quên hoặc mất đồ dùng.
- Hay xé sách vở, vẽ bậy ra vở.
Từ những thực trạng trên tôi luôn suy nghĩ và đặt ra cho mình câu hỏi:
Làm thế nào để giúp em học sinh tăng động hòa nhập và làm tốt nhiệm vụ học
tập cũng đồng thời giúp học sinh lớp 4C đạt được mục tiêu, kế hoạch Nhà
trường đã giao.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trên cơ sở của mục đích nghiên cứu và cơ sở lí luận tôi mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp nhằm giúp học sinh tăng động hòa nhập và thực hiện tốt nhiệm

vụ học tập góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
*Giải pháp 1: Giáo viên phải nỗ lực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao
kiến thức về các bệnh lý học đường
Giáo viên phải tìm tòi các tài liệu liên quan đến các các bệnh học đường
trên nhiều kênh thông tin khác nhau.
Chẳng hạn để giúp được học sinh “tăng động”, trước hết người giáo viên
phải hiểu rõ thế nào là bệnh “tăng động”. Tôi đã tìm và mua được cuốn sách:
“Cẩm nang về chứng rối loạn tăng động giảm chú ý” của tác giả Ngụy Hữu
Tâm-Nhà xuất bản Y học. Cuốn sách đã mang lại cho tôi thêm nhiều hiểu biết về
chứng tăng động giảm chú ý ở học sinh. Ngoài ra tôi còn tìm hiểu trên mạng
Internet và đọc thêm các tài liệu khác. Từ đó tôi nắm bắt được nguyên nhân gây
ra ADHD. Có nhiều nguyên nhân. Chẳng hạn khi người mẹ mang bầu mà hút
thuốc thì có nguy cơ cao đứa trẻ sinh ra mắc ADHD. Thứ hai là do tổn thương
não gây ra. Thứ ba người mẹ khi mang thai uống rượu là yếu tố gây tăng động
hay ADHD [1].
Dùng rượu và thuốc lá khi mang bầu, đã chứng minh được rằng, rượu và
thuốc lá khi mang bầu ảnh hưởng đến sự phát triển của nhân cách và vùng não
trước của bào thai. Một khảo cứu lớn năm 1992 đi đến kết luận, khi mang thai
người mẹ hút thuốc thì trẻ sinh ra sẽ có nguy cơ lớn mắc chứng hành vi lập dị.
sau đó nhóm Sharon Milberger của bệnh viện Massachusetts xác định có mối
liên hệ đáng kể giữa lượng thuốc lá hút khi mang thai và nguy cơ mắc ADHD.
Người mẹ dùng thuốc lá khi mang bầu sẽ gia tăng nguy cơ cho con đẻ ra mắc
5


ADHD. Độc lập với vấn đề đó, những nghiên cứu trên động vật cho thấy một
cách đáng tin cậy rằng, thuốc lá và rượu thật sự tác động đến sự phát triển của
những vùng não nhất định và những sai trái qua đó xuất hiện có thể kéo theo
hành vi tăng động, bột phát và giảm chú ý. Nghi cơ này còn cao hơn nữa khi
ngoài ra, ngay người mẹ cũng mắc ADHD [1].

Từ nhiều năm nay đã có chứng minh rằng, họ hàng trẻ mắc ADHD thường
xuyên mắc các vấn đề tâm lý trước hết là chầm uất, nghiện rượu, bất thường
hành vi, hành vi phản xã hội và tăng động hơn họ hàng trẻ không mắc ADHD.
Các kết quả này cho thấy, có yếu tố di truyền cho rối loạn [1].
Tuy nhiên nghiên cứu được coi là nghiêm túc về nguyên nhân gây ADHD
coi những rối loạn trên não là đáng chú ý nhất. Từ 100 năm nay, các nhà khoa
học đã dự đoán, chứng bệnh mà nay ta gọi là ADHD, do tổn thương não gây ra.
Với những người bị tổn thương ở vùng trước não gọi là khu vực võ não trước ổ
mắt (ngay sau trán) nó phát triển ở người mạnh hơn ở vật nhiều và có lẽ chịu
trách nhiệm cho ức chế hành vi, tập trung, tự kiềm chế và kế hoạch tương lai [1].
*Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch riêng giáo dục trẻ tăng động (có phụ
lục kèm theo)
- Đối với tẻ bị hội chứng tăng động cũng giống như trẻ khuyết tật. Giáo viên chủ
nhiệm phải lập kế hoạch riêng để giúp đỡ trẻ.
- Xây dựng kế hoạch theo từng tháng, từng học kỳ.
- Xây dựng kế hoạch phối hợp cùng với gia đình để đưa trẻ thăm khám thường
xuyên và tuân theo các hướng dẫn của bác sỹ.
- Xây dựng kế hoạch phối hợp cùng với nhà trường cùng tham gia vào công tác
giáo dục.
- Cuối mỗi giai đoạn có tổng kết đánh giá để thấy được sự tiến bộ của trẻ.
*Giải pháp 3: Giáo viên chủ nhiệm phải luôn gần gũi, quan tâm đến trẻ.
Ngoài thời gian ở nhà thì thời gian còn lại là trẻ đến trường. Ở trường
ngoài học các môn của các thầy cô giáo bộ môn như: Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể
dục, Ngoại ngữ… các môn còn lại là học với giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên
chủ nhiệm chiếm thời gian chủ yếu ở trên lớp nên có thời gian gần gũi, quan tâm
chú đến học sinh nhiều hơn. Từ đó giáo viên luôn hỏi han, trò chuyện để tìm
hiểu xem trẻ đang cần gì. Giáo viên tạo mọi điều kiện tốt nhất cho trẻ tăng động
như ngồi ở vị trí trung tâm, gần vị trí mà giáo viên mà có thể quan sát dễ dàng.
Bằng việc quan tâm, bằng tình yêu thương của một người cô cũng như một
người mẹ, coi học sinh như chính con của mình để chăm sóc và bảo ban. Việc

làm đó sẽ giúp được học sinh thấy được sự gần gũi để sẻ chia những điều trong
tâm tư trẻ. Luôn nhắc nhở em mỗi khi em làm những việc không đúng, không
tốt. Ví dụ: Hỏi xem sáng nay em sáng bằng đồ gì? Em thích nhất là được ăn món
gì vào buổi sáng? Bài học ở nhà có gì cần cô giúp đỡ? Cứ như vậy trẻ sẽ bộc lộ
những điều mà học sinh không dám chia sẻ cùng ai.

6


Giáo viên hướng dẫn học sinh học bài
*Giái pháp 4: Tặng những lời khen, lời khuyến khích đối với trẻ.
Trẻ bị tăng động hay trẻ bình thường đều rất cần những lời khen từ phía
thầy cô. Đối với trẻ tăng động, được khen sẽ càng làm cho trẻ tự tin hơn. Cố tìm
ra những ưu điểm dù rất nhỏ để khen trẻ. Có thể trẻ chưa làm được nhiều nhưng
luôn khuyến khích động viên sẽ giúp trẻ có niềm tin hơn vào cuộc sống, vào
chính bản thân mình. Ví dụ: Các bạn trong lớp hãy dành cho bạn Hải Nam một
tràng pháo tay vì bạn đã trả lời được câu hỏi hoặc cố gắng lên cô tin là em sẽ
làm được hoặc nếu em cẩn thận chút nữa thì bài làm sẽ tốt hơn. Cứ như vậy trẻ
sẽ thấy tự tin hơn.
*Giái pháp 5: Trao đổi với học sinh trong lớp để phân công các bạn cùng
giúp đỡ.
Giáo viên có thể họp riêng lớp (không có mặt của Hải Nam) đưa ra một số
yêu cầu và phân công để cả lớp cùng giúp đỡ bạn.
Dựa trên sơ đồ cộng đồng xem những học sinh ở gần nhà Hải Nam như
Cường, Danh, Đạt để thường xuyên rủ bạn đi học cùng. Trước khi bạn ra khỏi
nhà hỏi xem bạn có nhớ hôm nay học những môn gì và kiểm tra luôn hộ bạn
xem đã đem đủ sách vở hay chưa.
7



- Phân công các bạn trai khi vui chơi phải cho bạn chơi cùng. Giúp đỡ bạn nếu
bạn chưa biết cách chơi. Không có thái độ kì thị hoặc chê cười bạn.
- Xếp các em hoàn thành tốt ngồi bên cạnh để các em nhắc nhở giúp đỡ bạn.
- Các bạn Giang, Nga, Cường giúp đỡ, kiểm tra nhắc nhở bạn hoàn thành bài tại
lớp nếu bạn chưa làm xong.
- Các bạn Việt Anh, Tùng Lâm, Thảo Anh sẽ giúp đỡ bạn trong việc bạn hay
quên đồ như quần áo, mũ xe máy, giày dép.

Dựa trên sơ đồ cộng đồng giáo viên phân công học sinh giúp đỡ bạn
*Giải pháp 6: Có kế hoạch cụ thể để giúp đỡ em từng mảng kiến thức.
Vì học sinh học theo mô hình trường học mới VNEN nên các em hoạt
động theo nhóm là chủ yếu. Đối với học sinh bình thường học chậm đã khó theo
cùng các bạn, học sinh tăng động lại càng khó hơn.
- Đối với học sinh tăng động do các em không tập trung chú ý nên không nắm
vững kiến thức. Vì vậy mà các em hay ngại làm bài tập không hoàn thành các
yêu cầu mà giáo viên giao. Giáo viên chủ nhiệm lập kế hoạch cụ thể, giáo viên
chia nhỏ các câu hỏi, dành thời gian trong các tiết học và thời gian ở các buổi
tăng buổi để giúp đỡ hướng dẫn em đối với những kiến thức mà em còn bị hổng.
Ví dụ: Đối với môn Tiếng việt học sinh bắt đầu làm quen với văn miêu tả nên
học sinh thường lúng túng, nhất là đối với học sinh tăng động. Giáo viên hướng
dẫn cụ thể ngay những bài đầu tiên, từ cách lập dàn ý cho bài văn tả đồ vật. Chia
nhỏ vào gợi ý từng ý nhỏ để học sinh nắm được đặc điểm của đồ vật sau đó
hướng dẫn học sinh cách viết câu văn cho bài văn miêu tả; Đối với môn Toán:
Ví dụ Bài “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”, giáo viên hướng dẫn
8


tỉ mỉ để học sinh nhận ra đâu là Tổng, đâu là Hiệu. Gợi ý hướng dẫn học sinh
tăng động cách làm từ những bài đơn giản đến những bài khái quát cao hơn, từ
đơn giản dần nâng cao hơn.

*Giải pháp 7: Phối hợp với gia đình
- Gia đình là chỗ dựa vững chắc của các em. Đối với trẻ tăng động, gia đình vô
cùng quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm cần kết hợp trao đổi thông tin ở nhà, ở
trường để cùng phối hợp, giúp đỡ em.
- Đối với trường hợp của Hải Nam: Hải Nam ở nhà với mẹ, bố là bộ đội đi công
tác xa nhà. Bản thân khi mang thai tuổi của mẹ Hải Nam đã cao, lại có bệnh nên
đã ảnh hưởng tới bào thai. Đó cũng có thể là một nguyên nhân đẫn tới chứng
tăng động ở em. Gia đình chỉ có mình Hải Nam nên được mẹ hết sức chiều
chuộng. Đôi khi sự chiều chuộng đó có thể làm hư trẻ. Giáo viên cần trao đổi
với mẹ Hải Nam giúp mẹ học sinh có những nhận thức đúng đắn về trẻ tăng
động để giúp đỡ em một cách hiệu quả nhất. Tư vấn cho gia đình đưa em đi
thăm khám theo định kỳ, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ để có phương pháp tốt
nhất dành cho trẻ.
*Giải pháp 8: Phối hợp với giáo viên tổng phụ trách lôi cuốn học sinh
vào các hoạt động tập thể.
- Hoạt động tập thể là hoạt động mà trẻ tăng động rất ngại. Ở đó em phải tiếp
xúc với nhiều người. Giáo viên chủ nhiệm nên phối hợp với giáo viên tổng phụ
trách hướng trẻ tham gia để trẻ thấy được sức mạnh của tập thể, giúp trẻ hòa
đồng hơn. Cho trẻ tham gia các trò chơi như kéo co, đá bóng, đá cầu,… để trẻ có
sự phối hợp cùng các bạn, giúp trẻ tự tin hơn với chính mình. Giáo viên quan sát
các em chơi. Hướng dẫn các em chơi và tán dương khi các em chơi tốt.

Hải Nam tham gia hoạt động vui chơi cùng các bạn.
9


*Giải pháp 9: Xây dựng nội quy lớp học.
Đây là một việc làm hết sức quan trọng bởi tự các em xây dựng cho mình
các nội quy, quy định. Vì đây là trường học VNEN nên ngay từ lớp dưới các em
đã biết làm công việc này. Đối với học sinh lớp 4, việc xây dựng nội quy đã

được làm quen ở lớp 2, lớp 3 nên cũng khá dễ dàng. Giáo viên để cho lớp tự xây
dựng, nên định hướng cho học sinh tăng động cũng được xây dựng ít nhất đưa ra
một nội quy và được cả lớp chấp nhận. Tự bản thân em xây dựng nội quy sẽ
giúp em nhớ lâu và làm tốt nội quy mà mình đã đưa ra. Ví dụ: Giáo viên gợi ý
cho Hải Nam và các bạn xây dựng nội quy đi học đúng giờ.

Nội quy lớp học
*Giải pháp 10: Xây dựng Hội đồng tự quản của lớp.
Đối với lớp học VNEN Hội đồng tự quản rất quan trọng. Bởi các em
chính là ban các sự lớp – là những người giúp cô giáo đắc lực trong việc theo
dõi, giám sát, kiểm tra các hoạt động của học sinh trên lớp. Ngay từ đầu năm
học bộ máy này đã được xây dựng. Học sinh sẽ tự bầu ra những thành viên xuất
sắc phù hợp với mỗi ban. Và tất nhiên là học sinh tăng động Lê Khúc Hải Nam
10


không được các bạn bầu vào bất cứ ban nào. Từ đây, giáo viên sẽ định hướng
cho cả lớp bầu cho Hải Nam vào một ban nào đó. Ví dụ như ban thể dục vệ sinh.
Ban này sẽ chịu trách nhiệm về việc kiểm tra nề nếp vệ sinh của các bạn trong
lớp, theo dõi việc tập thể dục giữa giờ của các bạn có nghiêm túc hay không.
Khi được đưa tên vào ban này tôi thấy Hải Nam rất vui. Em tích cực hơn và
gương mẫu hơn vì còn phải kiểm tra các bạn trong lớp. Bên cạnh đó tôi cũng
luôn phiên thay đổi nhóm trưởng trong nhóm học tập. Khi được giao làm nhóm
trưởng, Hải Nam cũng rất thích và phát huy hết khả năng của mình. Tuy nhiên
cũng cần có sự giúp đỡ của cô giáo và các bạn.
* Giải pháp 11: Xây dựng lớp học xanh, sạch, đẹp, an toàn
Tôi cho học sinh tự trang trí lớp học. Các em sẽ trình bày các sản phẩm
của mình vào các góc trang trí. Luôn tạo thói quen cho các em nhận thức lớp học
cũng như ngôi nhà của mình. Lớp học có gọn gàng sạch sẽ thì ngồi học mới
thoải mái. Ban cán sự sẽ luôn nhắc nhở các bạn làm nhiệm vụ của mình. Ví dụ

ban thư viện phải luôn sắp xếp sách vở gọn gàng. Ban thể dục vệ sinh kiểm tra
các góc lớp, các bàn xem đã kê ngay ngắn hay chưa, các bảng biểu luôn được
lau chùi và cái nào bong ra thì phải gắn lại ngay. Phát động cho các nhóm trồng
thêm các lọ cây xanh để ở góc lớp. bồn hoa trước lớp cũng phải được chăm sóc
hằng ngày. Phân công tưới, nhổ cỏ để quanh lớp học luôn có bầu không khí
trong lành. Bạn học sinh tăng động cũng được phân công làm cùng các bạn để
em thấy có trách nhiệm một phần với ngôi nhà chung của mình từ đó có ý thức
giữ gìn lớp sạch đẹp hơn (ngày đầu em thường hay xé giấy vứt ra hộc bàn, lớp
học). Khi tạo ra được một lớp học như vậy mọi thành viên trong lớp sẽ thấy lớp
học khang trang và trở nên thân thiện hơn.

11



×