Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

CƠ sở lý LUẬN về GIÁO dục ý THỨC bảo vệ môi TRƯỜNG CHO hội VIÊN PHỤ nữ NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.64 KB, 46 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC Ý
THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO
HỘI VIÊN PHỤ NỮ NÔNG THÔN

1


TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tác động của ô nhiễm môi trường
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên & Môi trường
(TN&MT) năm 2016 (tại lễ công bố báo cáo hiện trạng môi
trường Quốc gia năm 2016, ngày 20/7/2016) môi trường nước
ta đang chịu nhiều áp lực lớn từ các hoạt động phát triển kinh
tế - xã hội trong nước, sức ép cạnh tranh của quá trình hội
nhập quốc tế cùng các tác động xuyên biên giới. Theo đó:
Hàng năm, có hơn 2.000 dự án đầu tư thuộc đối tượng
phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (TĐMT) nếu
không được đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và thực hiện
các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát hiệu quả thì sẽ là những
nguy cơ rất lớn đến môi trường. Các vấn đề môi trường theo
dòng chảy sông Mê Công, sông Hồng, các sông xuyên biên
giới ngày càng phức tạp. Việc xây dựng các dự án thủy điện
của một số quốc gia trên dòng chính sông Mê Công đã và
đang có những tác động, ảnh hưởng lớn đến vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Bên cạnh đó, trên cả nước hiện có 283 khu
công nghiệp với hơn 550.000m3 nước thải/ngày đêm; 615
cụm công nghiệp (CCN) trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ

2



thống xử lý nước thải tập trung; các CCN còn lại, hoặc các cơ
sở sản xuất tự xử lý nước thải hoặc xả trực tiếp ra môi trường.
Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản
xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu; hơn
13.500 cơ sở y tế hàng ngày phát sinh hơn 47 tấn chất thải
nguy hại và 125.000 m3 nước thải y tế. Cùng với đó, với 787
đô thị môi trường của chúng ta đang hứng chịu 3.000.000 m3
nước thải ngày/đêm nhưng hầu hết chưa được xử lý; lưu hành
gần 43 triệu mô tô và trên 2 triệu ô tô tạo ra nguồn phát thải
lớn đến môi trường không khí.
Cũng theo Bộ TN&MT, hàng năm, có 100.000 tấn hoá
chất bảo vệ thực vật được sử dụng. Trong đó, khoảng 80%
lượng thuốc bảo vệ thực vật đang được sử dụng không đúng
quy định; hiệu suất sử dụng chỉ đạt 25-60%; công tác thu
gom, lưu giữ và xử lý bao bì chưa được quan tâm, nhiều nơi
thải bỏ ngay tại đồng ruộng gây phát sinh mùi, khí thải. Hơn
23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, 7 triệu tấn chất thải rắn công
nghiệp, hơn 630 nghìn tấn chất thải nguy hại; hiện có 458 bãi
chôn lấp rác thải, trong đó có 337 bãi chôn lấp không hợp vệ
sinh; có hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt công suất nhỏ, có nguy
cơ phát sinh khí dioxin, furan...

3


Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với hàng loạt các
vấn đề môi trường bức xúc trên phạm vi toàn cầu, bao gồm:
sự biến đổi khí hậu (BĐKH), suy thoái đa dạng sinh học
(ĐDSH), suy thoái tài nguyên nước ngọt, suy thoái tầng ôzôn,
suy thoái đất và hoang mạc hóa, ô nhiễm các chất hữu cơ độc

hại khó phân hủy…
Những vấn đề này có mối tương tác lẫn nhau và đều ảnh
hưởng trực tiếp tới cuộc sống con người cũng như sự phát
triển của xã hội. Trong đó, dù ở mức độ quốc gia hay toàn cầu
thì BĐKH luôn được xem là vấn đề môi trường nóng bỏng
nhất và hơn thế nữa còn được coi là một vấn đề quan trọng tác
động tới tiến trình phát triển bền vững hiện nay trên toàn thế
giới.
Bức tranh chung toàn cầu
Theo dự đoán, nhiều thành phố của các quốc gia ven
biển đang đứng trước nguy cơ bị nước biển nhấn chìm do
mực nước biển dâng - hậu quả trực tiếp của sự tan băng ở Bắc
và Nam cực. Trong số 33 thành phố có quy mô dân số 8 triệu
người vào năm 2015, ít nhất 21 thành phố có nguy cơ cao bị
nước biển nhấn chìm toàn bộ hoặc một phần và khoảng 332

4


triệu người sống ở vùng ven biển và đất trũng sẽ bị mất nhà
cửa vì ngập lụt.
Nước biển dâng còn kèm theo hiện tượng xâm nhập
mặn vào sâu trong nội địa và sự nhiễm mặn của nước ngầm,
tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và tài nguyên nước
ngọt. Theo dự đoán, đến năm 2080, sẽ có thêm khoảng 1,8 tỷ
người phải đối mặt với sự khan hiếm nước, khoảng 600 triệu
người sẽ phải đối mặt với nạn suy dinh dưỡng do nguy cơ
năng suất trong sản xuất nông nghiệp giảm.
Bên cạnh đó còn có khuynh hướng làm giảm chất lượng
nước, sản lượng sinh học và số lượng các loài động, thực vật

trong các hệ sinh thái nước ngọt, làm gia tăng bệnh tật, nhất là
các bệnh mùa hè do vectơ truyền (IPCC 1998). Trong thời
gian 20 - 25 năm trở lại đây, có thêm khoảng 30 bệnh mới
xuất hiện. Tỷ lệ bệnh nhân, tỷ lệ tử vong của nhiều bệnh
truyền nhiễm gia tăng, trong đó sẽ có thêm khoảng 400 triệu
người phải đối mặt với nguy cơ bị bệnh sốt rét.1

1 Bài Những thách thức trong ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triền bền vững vùng ven
biển. Tg: Trương Quang Học GS. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trưởng Ban Biến đổi Khí hậu,
VACNE- website Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt nam

5


Theo Nicolas Stern (2007) - nguyên chuyên gia kinh tế
hàng đầu của Ngân hàng Thế giới, thì trong vòng 10 năm tới,
chi phí thiệt hại do BĐKH gây ra cho toàn thế giới ước tính
khoảng 7.000 tỷ USD; nếu chúng ta không làm gì để ứng phó
thì thiệt hại mỗi năm sẽ chiếm khoảng 5-20% GDP, còn nếu
chúng ta có những ứng phó tích cực để ổn định khí nhà kính ở
mức 550 ppm tới năm 2030 thì chi phí chỉ còn khoảng 1%
GDP.
Tuy nhiên, BĐKH, ở những mức độ nhất định và những
khu vực nhất định cũng có những tác động tích cực đó là tạo
cơ hội để thúc đẩy các nước đổi mới công nghệ, phát triển
các công nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi trường;
Phát triển trồng rừng để hấp thu CO 2 giảm phát thải khí nhà
kính; Ở một số nước ôn đới, khi nhiệt độ tăng lên sẽ thuận
lợi hơn để phát triển nông nghiệp; Năng lượng để sưởi ấm
cũng được tiết kiệm hơn.

Tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) ở Việt Nam
Tác động của BĐKH tới lĩnh vực nông nghiệp:
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống
bằng nông nghiệp và 70% lãnh thổ là nông thôn với cuộc

6


sống người dân còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và
tài nguyên thiên nhiên. Trong nhiều năm qua sản xuất nông
nghiệp ở nông thôn chiếm 25-40% tổng sản phẩm trong nước
và đạt trên 40% tổng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên nước ta là 1
trong 5 nước chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu do:
Là một đất nước nằm ở vùng Châu Á Thái bình dương,
một trong năm vùng bão của thế giới, chịu ảnh hưởng của khí
hậu nhiệt đới gió mùa. Có bờ biển dài 3260 km. Việt nam là
một nước đang phát triển, dân số tăng ngày một nhanh; đồng
thời còn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hiện tượng băng tan ở
Hymalay.
Tác động của BĐKH tới tài nguyên rừng:
Việt Nam có ĐDSH cao, có các hệ sinh thái (HST) đa
dạng. Tuy nhiên trong thời gian qua, do những nguyên nhân
khác nhau, ĐDSH, các HST, đặc biệt là các HST rừng - HST
có ĐDSH cao nhất bị suy thoái trầm trọng. Diện tích rừng
giảm rừng ngập mặn ven biển cũng bị suy thoái nghiêm trọng
(giảm 80% diện tích) do bị chuyển đổi thành các ao đầm nuôi
trồng thủy hải sản thiếu quy hoạch. Trong những năm gần
đây, rừng tuy có tăng lên về diện tích, nhưng tỷ lệ rừng

7



nguyên sinh cũng vẫn chỉ khoảng 8% (so với 50% của các
nước trong khu vực).
Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam để ứng phó
với BĐKH trong các hoạt động thực hiện mục tiêu năm 2020
của Công ước ĐDSH nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn và
dịch vụ của các HST rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo vệ
tài nguyên nước và giảm phát thải CO2.
Nhiệt độ trung bình tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố
và cấu trúc quần xã sinh vật của nhiều HST. Các loài nhiệt đới
sẽ giảm đi trong các HST ven biển và có xu hướng chuyển
dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn trong các HST trên cạn.
Nhiệt độ tăng, còn làm gia tăng khả năng cháy rừng,
nhất là các khu rừng trên đất than bùn, vừa gây thiệt hại tài
nguyên sinh vật, vừa tăng lượng phát thải khí nhà kính và làm
gia tăng BĐKH.
Tác động của BĐKH tới tài nguyên đất:
Trong thời gian gần đây, diện tích đất nông nghiệp bị thu
hẹp do sức ép dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa và bị
chuyển đổi mục đích sử dụng. Hiện tượng xói mòn, rửa trôi,

8


hoang mạc hóa và ô nhiễm do hóa chất nông nghiệp ngày
càng gia tăng.
Dưới tác động của BĐKH, nhất là nước biển dâng làm
mất đi nơi ở của cư dân và phần đất màu mỡ nhất cho sản
xuất nông nghiệp sẽ là thách thức lớn cho ngành nông nghiệp.

Thiên tai, bão, lũ gia tăng sẽ làm tăng hiện tượng xói mòn, rửa
trôi, sạt lở bờ sông, bờ biển, bồi lắng lòng dẫn ảnh hưởng
nghiêm trọng tới tài nguyên đất. Hiện tượng thiếu nước và
hạn hán sẽ dẫn tới hoang mạc hóa, đặc biệt là các tỉnh miền
Trung.
Tác động của BĐKH tới sức khỏe:
Báo cáo gần đây nhất của Ủy ban liên quốc gia về
BĐKH đã khẳng định, BĐKH gây ra tử vong và bệnh tật
thông qua hậu quả của các dạng thiên tai như sóng nhiệt/nóng,
bão, lũ lụt, hạn hán… Do nhiều bệnh sẽ gia tăng dưới tác
động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh, nhất là các bệnh
truyền qua vật trung gian như sốt rét (do muỗi truyền), sốt
xuất huyết (muỗi), viêm não (muỗi) qua môi trường nước (các
bệnh đường ruột), và các bệnh khác (suy dinh dưỡng, bệnh về

9


phổi…). Những bệnh này đặc biệt ảnh hưởng lớn tới các vùng
kém phát triển, đông dân và có tỷ lệ đói nghèo cao.
Đặc biệt, ở Việt Nam, trong thời gian qua cũng xuất hiện
một số bệnh mới ở người và động vật (tả, cúm gia cầm, bệnh
tai xanh…) nhiều bệnh có diễn biến phức tạp và bất thường
hơn (sốt xuất huyết) và gây ra những thiệt hại đáng kể.
Tác động của BĐKH tới vùng ven biển (VVB):
VVB cũng sẽ là nơi chịu tác động nặng nề nhất của thiên
tai mà trước hết là bão, sóng thần, lũ lụt gây những tổn thất
năng nề về nguời và tài sản. Chỉ tính riêng năm 2006, thiệt hại
do bão gây ra ở Việt Nam lên tới 1,2 tỷ USD.
Nước biển dâng gây hiện tượng ngập lụt, mất nơi ở và

diện tích sản xuất (nông nghiệp, thủy sản và làm muối), gây
nhiễu loạn các HST truyền thống. Hiện tượng xâm nhập mặn
sẽ gia tăng, các HST đất ngập nước ven biển, nhất là rừng
ngập mặn, môi trường sống của các loài thủy hải sản, bức
tường chắn sóng và giảm tác động của sóng, bão, nguồn sống
hàng ngày của cộng đồng địa phương sẽ bị thu hẹp nhanh
chóng. Các cơ sở hạ tầng nhất là các cảng, khu công nghiệp,

10


giao thông sẽ bị tác động mạnh, thậm chí phải cải tạo, nâng
cấp hoặc di dời.
Nước biển dâng và nhiệt độ tăng sẽ làm ảnh hưởng lớn tới
các rạn san hô, HST có tính đa dạng cao và có ý nghĩa quan
trọng đối với tự nhiên và đời sống con người, lá chắn hiệu quả
chống xói mòn bờ biển và rừng ngập mặn. San hô là các động
vật rất nhạy cảm với các yếu tố sinh thái, nhất là nhiệt độ và chất
lượng nước. Nhiệt độ nước biển chỉ cần tăng một vài độ, san hô
có thể chết hàng loạt. Hiện nay đã có khoảng 30 quốc gia báo
cáo có nguy cơ bị mất san hô.
Tác động của BĐKH tới an ninh môi trường/an ninh
quốc gia:
BĐKH còn có thể ảnh hưởng tới an ninh môi trường nói
riêng, an ninh quốc gia nói chung, tập trung ở những vấn đề
sau:
Sử dụng chung nguồn nước: Việt Nam có khoảng 2/3
tổng lượng nước là từ bên ngoài lãnh thổ chảy vào. Việc sử
dụng nước phía thượng nguồn, việc xây dựng các công trình
thủy lợi, thủy điện của các quốc gia trên thượng nguồn các

sông lớn (sông Hồng, sông Cửu Long) sẽ là một khó khăn rất

11


lớn cho chúng ta trong sử dụng nguồn nước và bảo vệ môi
trường. BĐKH sẽ làm suy thoái tài nguyên nước, trong khi
nhu cầu dùng nước của các quốc gia đều tăng lên, làm tăng
các bất đồng và xung đột có thể có trong sử dụng chung
nguồn nước.
Tị nạn môi trường/ khí hậu (trong nước và quốc tế) do
mất nơi ở hoặc do bệnh tật và nghèo đói. Có những cảnh báo
cho rằng, vấn đề tị nạn khí hậu không chỉ đơn thuần là vấn
đề xã hội, kinh tế mà có thể còn là vấn đề chính trị, chiến
tranh.
An ninh sinh thái do sự nhiễu loạn của nhiều HST, sự
xâm lấn của các sinh vật lạ và sinh vật biến đổi gen.
Tác động của BĐKH tới cơ sở hạ tầng…
Cơ sở hạ tầng ở đây được hiểu là những công trình xây
dựng thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống và sản xuất như
xây dựng, năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, nông
nghiệp, du lịch - dịch vụ. Đặc trưng của những đối tượng này
là thời gian tồn tại tương đối dài, có thể hàng thế kỷ và chịu
tác động trực tiếp và liên tục của khí hậu, thời tiết, và hiện nay
là BĐKH với xu hướng ngày càng gia tăng.

12


BĐKH sẽ tác động tới tính tiện nghi, tính hữu dụng, sức

chịu tải, độ bền, độ an toàn của các công trình được thiết kế. 2
Vì vậy, cần đánh giá tác động của BĐKH cho từng loại
cơ sở hạ tầng trong từng địa phương cụ thể để có các giải
pháp thích ứng phù hợp là điều quan trọng. Từ đó, đưa ra các
giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững.
Vai trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi
trường
Sự tham gia của cộng đồng vào công tác bảo vệ môi
trường vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ vừa là quyền lợi. Đây
cũng là một giải pháp cơ bản trong bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Thực tế cho thấy, sự tham gia của cộng đồng
trong hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, ứng
phó với biến đổi khí hậu là rất quan trọng.
Để phòng ngừa, ứng phó với vấn đề trên, các quốc gia đã
thảo luận, thống nhất đưa ra những quy định chung làm căn
cứ để mỗi nước có nghĩa vụ chấp hành, tuân thủ. Căn cứ vào
luật pháp quốc tế và điều kiện thực tế về tự nhiên, kinh tế - xã
2. Bài: Tác động của biến đổi khí hậu đến tự nhiên và xã hội. Tg GS.TSKH. Trương Quang Học
(website Môi trường việt Nam)

13


hội, phong tục tập quán riêng… mỗi nước đã xây dựng, ban
hành Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để điều chỉnh
hành vi của mỗi cá nhân, tổ chức.
Công tác nâng cao vai trò cộng đồng bảo vệ môi trường
phục vụ phát triển bền vững đất nước đã được nhấn mạnh
trong nhiều chính sách, chủ trương, đường lối, nghị quyết và

các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của
Đảng và Nhà nước ta, chẳng hạn như:
Huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế, các tổ
chức khoa học, chính trị - xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức
phi chính phủ trong ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng
cộng đồng thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động
qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước;
là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh
xã hội. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ của các

14


cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, trong đó
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
tham gia, giám sát của toàn xã hội. Chủ động ứng phó với biến
đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống
nhất, liên ngành, liên vùng. Vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt,
vừa bảo đảm lợi ích lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản.
Vừa bảo đảm toàn diện, vừa phải có trọng tâm, trọng điểm; có
bước đi phù hợp trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là
chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh
nghiệm quốc tế.
Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ

Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xác định, giải pháp quan
trọng để bảo vệ môi trường đó là “Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ
môi trường”. Mới đây nhất, tại Nghị quyết số 24-NQ/TW
ngày 3/6/2013 về Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được Hội nghị lần
thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI thông qua,
đã nhấn mạnh nhóm giải pháp chính để bảo vệ môi trường là:

15


“Tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng
cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với
BĐKH, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường”.
Theo khoản 1, Điều 6 Luật bảo vệ môi trường ban hành
ngày 23/6/2014 thì những hoạt động bảo vệ môi trường được
khuyến khích, cụ thể:
+ Truyền thông, giáo dục và vận động mọi người tham
gia bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học.
+ Hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển, sử
dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; giảm thiểu phát
thải khí gây hiệu ứng nhà kính, phá hủy tầng ô-dôn.
+ Bảo vệ, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên.
+ Giảm thiểu, thu gom, tái sử dụng và tái chế chất thải.
+ Đăng ký cơ sở, sản phẩm thân thiện với môi trường;
sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi

trường.

16


+ Nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công
nghệ xử lý, tái chế chất thải, công nghệ thân thiện với môi
trường.
+ Đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo
vệ môi trường; cung cấp dịch vụ bảo vệ môi trường; thực hiện
kiểm toán môi trường; tín dụng xanh; đầu tư xanh.
+ Bảo tồn và phát triển nguồn gen bản địa; lai tạo, nhập
nội các nguồn gen có giá trị kinh tế và có lợi cho môi trường.
+ Xây dựng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, khu
dân cư thân thiện với môi trường.
+ Phát triển các hình thức tự quản và tổ chức hoạt động
dịch vụ giữ gìn vệ sinh môi trường của cộng đồng dân cư.
+ Hình thành nếp sống, thói quen giữ gìn vệ sinh môi
trường, xóa bỏ hủ tục gây hại đến môi trường.
+ Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động
bảo vệ môi trường; thực hiện hợp tác công tư về bảo vệ môi
trường.
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
17


Giáo dục
Theo từ điển Tiếng Anh giáo dục là “Education”, gốc
latinh “Educatio” theo nghĩa chung là hình thức học tập theo

đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người được
trao quyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng
dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự
hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự
học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách
mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể
được xem là có tính giáo dục.
Theo từ điển gốc Hán - Việt “Giáo” có nghĩa là dạy
“dục” có nghĩa là nuôi “Giáo dục” là dạy dỗ nuôi nấng đủ cả
về trí - dục, đức - dục , thể - dục.
Giáo dục (theo nghĩa rộng): Là sự hình thành nhân cách
được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các
hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục với người được
giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những
kinh nghiệm xã hội của loài người.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp): là một bộ phận của quá trình
sư phạm, là quá trình hình thành những cơ sở khoa học của

18


thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ,
những tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn
trong xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực.
Tóm lại, ở đây Giáo dục có thể hiểu là quá trình nhằm
hình thành động cơ, tình cảm, thái độ, hành vi, thói quen cư
xử đúng đắn trong xã hội... là mục đích mà người làm công
tác GDMT hướng đến.
Ý thức
Trong quá trình tiến hóa của sinh vật, mốc phân biệt rõ

ràng nhất giữa con vật và con người đó là ý thức. Ý thức là
một cấp độ phản ánh tâm lý đặc trưng cao cấp chỉ ở con
người mới có.
Một quá trình nhận thức nào đó tạo ra trong não một
hình ảnh tâm lý, như có ngôn ngữ, chính hình ảnh tâm lý đó
được khách quan hóa và trở thành đối tượng để ta tiếp tục
phản ánh, làm cho kết quả phản ánh sâu sắc hơn, chất lượng
hơn, tinh vi hơn. Quá trình phản ánh cấp hai như vậy được gọi
là ý thức. Vì thế, có thể hiểu ý thức là phản ánh của phản ánh.

19


Nếu cảm giác, tri giác, tư duy... mang lại cho con người
những tri thức. Trong thế giới khách quan thì ý thức là năng
lực hiểu biết tri thức đó. Vì vậy cũng có thể nói ý thức là tri
thức của tri thức, là hiểu biết của hiểu biết.
Như vậy, ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất
chỉ có ở người, là quá trình phản ánh bằng ngôn ngữ những gì
con người đã tiếp thu được trong quá trình quan hệ qua lại với
thế giới khách quan.
Môi trường
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về môi trường. Theo
khoản Điều 1, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam thì
“Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân
tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người
và sinh vật”[Error: Reference source not found-Tr1]. Môi
trường sống của con người dựa theo chức năng được chia
thành các loại:
Môi trường tự nhiên:

Bao gồm các yếu tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh
học, tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng cũng ít nhiều

20


chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi
sông, biển cả, không khí, động thực vật, đất, nước... Môi
trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà
cửa, trồng trọt, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài
nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa
đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh quang đẹp
để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
Môi trường xã hội :
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người và
người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước
định... ở các cấp khác nhau như: Liên hiệp quốc, Hiệp hội các
nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình,
tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức Hội phụ nữ thể... Môi
trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một
khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho
sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các
sinh vật khác.
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các yếu tố tự nhiên
và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người,

21


như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng,

cảnh quan, quan hệ, xã hội...
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên
thiên nhiên mà chỉ bao gồm các yếu tố tự nhiên và xã hội
trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người. Ví
dụ: Môi trường của học sinh gồm nhà trường với thầy giáo,
bạn bè, nội quy của nhà trường, lớp học, sân chơi, phòng thí
nghiệm, vườn trường, tổ chức xã hội như Hội phụ nữ, Đội
với các điều lệ hay gia đình, họ tộc, làng xóm với những quy
định không thành văn, chỉ truyền miệng nhưng vẫn được
công nhận, thi hành và các cơ quan hành chính các cấp với
luật pháp, nghị định, thông tư, quy định.
Theo UNESCO (1981) “MT con người bao gồm toàn
bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo
ra (các hệ sinh thái, những nhóm, hội, MT văn hóa), trong
đó con người sống và khai thác bằng lao động của mình các
tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn những
nhu cầu của con người. MT đối với con người không chỉ là
nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực tế sinh
vật là con người, mà còn là nơi lao động nghỉ ngơi. Với
phương diện đó, MT có ba chức năng cơ bản: là nơi cung
22


cấp tài nguyên, nơi thu nhận các hoạt động của con người
nhằm phục vụ cho các nhu cầu về đời sống vật chất và tinh
thần cho con người và là nơi đồng hóa các chất thải do kết
quả của các hoạt động đó”[15.Tr1].
Tóm lại, có thể nói môi trường là tất cả những gì có
xung quanh con người, cho con người nói riêng và các thực
thể sinh vật nói chung cơ sở để sống và phát triển và đó còn là

“khung cảnh của cuộc sống, của lao động và sự vui chơi giải
trí của con người”[15. Tr1].
Ô nhiễm môi trường
Các tác nhân gây ô nhiễm bao gồm chất thải có thể ở
dạng rắn, lỏng hoặc khí và các dạng năng lượng như nhiệt độ,
tiếng ồn. Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm
nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân
trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người,
sinh vật và vật liệu.
Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các
thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm
lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà

23


nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo
vệ môi trường.
Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số
lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với
con người và sinh vật.
Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá
trình hoạt động của con người hoặc biến đổi thất thường của
tự nhiên gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường
nghiêm trọng.
Chất gây ô nhiễm là chất hoặc yếu tố vật lý khi xuất hiện
trong môi trường thì làm cho môi trường bị ô nhiễm.
Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.
Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại,

phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ
độc hoặc đặc tính nguy hại khác.
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc
chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến
mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát

24


triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các
tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải),
lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác
nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ,
bức xạ.
Ở Việt Nam, theo khoản 8, Điều 3 Luật bảo vệ môi
trường ban hành ngày 23/6/2014 định nghĩa ô nhiễm môi
trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không
phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến
con người, sinh vật.
Bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi
trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo
cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do
con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử
dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi
cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Gắn kết hài hòa với
phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc
đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với


25


×