Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Đánh giá tính tổn thương và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của đất nuôi trồng thủy sản trên địa bàn một số xã huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
KHOA TÀI NGUYÊN ĐẤT VÀ MÔI TRƯỜNG NÔNG NGHIỆP

BÁO CÁO KẾT QUẢ
ĐỀ TÀI NCKH SINH VIÊN NĂM 2016
TÊN ĐỀ TÀI:

Đánh giá tính tổn thương và khả năng thích ứng với biến đổi khí
hậu của đất nuôi trồng thủy sản trên địa bàn một số xã huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Huế (NT)
Lê Duy Thịnh
Lê Thị Thu Thảo
Phan Văn Phúc
Nguyễn Thị Quyên

Huế, tháng 11 năm 2016


THÔNG TIN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
 Tên đề tài: “Đánh giá tính tổn thương và khả năng thích ứng với biến đổi
khí hậu của đất nuôi trồng thủy sản trên địa bàn một số xã huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế”
 Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Huế
 Danh sách sinh viên tham gia chính
ST
Tên
Học vị
Chức danh
Đơn vị công tác


T
1
Nguyễn Thị Huế
Sinh viên Nhóm trưởng Trường ĐH Nông Lâm Huế
2
Lê Duy Thịnh
Sinh viên Thành viên
Trường ĐH Nông Lâm Huế
3
Nguyễn Thị Quyên Sinh viên Thành viên
Trường ĐH Nông Lâm Huế
4
Lê Thị Thu Thảo
Sinh viên Thành viên
Trường ĐH Nông Lâm Huế
5
Phan Văn Phúc
Sinh viên Thành viên
Trường ĐH Nông Lâm Huế
 Nội dung đăng kí của đề tài:
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Phú Vang.
- Diễn biến khí hậu của huyện Phú Vang.
- Ảnh hưởng của BĐKH đến đất NTTS của thị trấn Thuận An và xã Phú An.
- Đánh giá khả năng thích ứng với BĐKH của người dân và chính quyền địa phương
trong NTTS.
- Đề xuất một số giải pháp thích ứng với BĐKH đối với đất NTTS.






Thời gian nghiên cứu: Từ 1/2016 đến 12/2016
Thời gian kết thúc thực tế:
Kinh phí được duyệt trong năm: 2.100.000
Chữ ký chủ trì đề tài, BCN Khoa, Phòng KHCN&HTQT

TRƯỞNG KHOA

Huế, ngày…tháng …năm 2016
NHÓM TRƯỞNG KÝ

Huế, ngày….tháng….năm 2016
PHÒNG KHCN&HTQT KÝ


Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu khoa học xin được chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu
nhà trường, Ban chủ nhiệm Khoa Tài nguyên và Môi trường Nông Nghiệp đã tạo điều
kiện cho chúng em được thực hiện đề tài nghiên cứu bổ ích này.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến ThS Lê Ngọc Đoàn đã hết sức giúp đỡ nhóm trong
các vấn đề về chuyên môn và các vấn đề khác để thực hiện hoàn thành đề tài.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Phòng Tài nguyên-Môi trường, chuyên viên phòng
Tài nguyên và Môi Trường huyện Phú Vang, cán bộ địa chính xã Phú An và thị trấn
Thuận An đã hết sức cung cấp số liệu, các quan sát thực địa và hổ trợ nhóm trong công
tác điều tra phục vu cho nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài : “ Đánh giá tính tổn thương và
khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của đất nuôi trồng thủy sản trên địa bàn
một số xã huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế ” do có nhiều hạn chế về mặt kinh
nghiệm và kiến thức nên có nhiều sai sót xảy ra. Vì vậy, chúng em xin mong nhận
được sự thông cảm đến từ các quý giáo viên, hội đồng và các bạn đã quan tâm theo dõi

lắng nghe đề tài. Đồng thời có những đóng góp về vấn đề chuyên môn cũng như các
vấn đề khác để nhóm có thể rút kinh nghiệm, thực hiện các đề tài sau có thể tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Nhóm nghiên cứu khoa học!

DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 2.1. Xu hướng gia tăng nhiệt độ trung bình năm trên toàn cầu và ở Việt Nam
Hình 2.2. Diễn biến của mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dấu
Hình 4.1. Bản đồ huyện Phú Vang

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Mức tăng nhiệt độ và mức thay đổi lượng mưa theo xu thế trong 50 năm qua
ở các vùng khí hậu và trung bình cho cả nước
Bảng 2.2. Bão đổ bộ vào Việt Nam theo tháng và năm 1950 – 1999
Bảng 2.3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (ºC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải thấp (B1)


Bảng 2.4. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (ºC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải trung bình (B2)
Bảng 2.5. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (ºC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải cao (A2)
Bảng 2.6. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải thấp (B1)
Bảng 2.7. Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản phát
thải trung bình (B2)
Bảng 2.8. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải cao (A2)

Bảng 2.9. Mực nước biển dâng (cm) so với thời kỳ 1980-1999
Bảng 4.1. Hiện trạng sử dụng đất năm 2015 của huyện Phú Vang
Bảng 4.4. Số cơn bão đổ bộ vào khu vực Quảng Bình-Thừa Thiên Huế.
Bảng 4.5. Tần suất (%) số cơn bão ảnh hưởng tới Thừa Thiên Huế.
Bảng 4.6. Thời vụ nuôi trồng của thị trấn Thuận An và xã Phú An năm 2011-2015
Bảng 4.7. Sản lượng nuôi trồng của thị trấn Thuận An và xã Phú An năm 2011-2015
Bảng 4.8. Giá thành sản phẩm các năm 2011-2015
Bảng 4.9. Tổng thu nhập bình quân/hộ/năm giai đoạn 2011- 2015
Bảng 4.10. Khả năng thích ứng với BĐKH của các hộ dân xã Phú An và thị trấn
Thuận An

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Biểu đồ thể hiện nhiệt độ trung bình năm giai đoạn 2000-2015
Biểu đồ 4.2. Biểu đồ thể hiện tổng lượng mưa năm giai đoạn 2000-2015
Biểu đồ 4.3. Xâm nhập mặn ở Phú Vang từ năm 2007-2012


Biểu đồ 4.4. Biểu đồ thể hiện sự thay đổi diện tích NTTS qua các năm 2011-2015

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐKH
NTTS
NN&PTNT
UBND

Biến đổi khí hậu
Nuôi trồng thủy sản
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Ủy ban nhân dân



MỤC LỤC


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Biến đổi khí hậu (BĐKH) mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và mực nước
biển dâng là một vấn đề thách thức lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 21. BĐKH ảnh
hưởng mạnh mẽ đến tài nguyên nước, năng lượng, nông nghiệp, an ninh lương thực và
sức khỏe con người ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, BĐKH không
còn đơn thuần là vấn đề về môi trường nữa mà nó đã trở thành vấn đề gắn liền với sự
phát triển, là yếu tố quan trọng có tác động toàn diện đến sự phát triển bền vững của cả
thế giới.
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động lớn nhất do BĐKH gây ra
và dâng cao của nước biển. Theo các nhà khoa học, cường độ mưa lớn làm cho nồng
độ muối giảm đi trong một thời gian ngắn dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt
là loài nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò) bị chết hàng loạt do không chống chịu nổi
với nồng độ muối thay đổi. Các loại cá nhiệt đới kém giá trị kinh tế tăng, ngược lại các
loại cá cận nhiệt đới có giá trị kinh tế cao bị giảm hoặc mất hẳn. Thay đổi nhiệt độ còn
làm dịch bệnh xảy ra cho nhiều loại cây trồng, vật nuôi, cùng với môi trường nước xấu
đi, là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài vi sinh vật gây hại ảnh hưởng
xấu đến quá trình sản xuất nông nghiệp nhất là NTTS.
Phú Vang là huyện đồng bằng ven biển và đầm phá của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Phía Bắc giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Hương Trà và thành phố Huế, phía
Nam giáp huyện Hương Thủy, phía Đông giáp huyện Phú Lộc. Phú Vang có tiềm năng
lớn về đánh bắt và NTTS. Có bờ biển dài trên 35km, có cửa biển Thuận An và nhiều
đầm phá như đầm Sam, đầm Chuồn, đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung, đầm Thủy Tú
nằm trong hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với diện tích trên 6.800 ha mặt
nước, là tiềm năng lớn để phát triển đánh bắt và NTTS. Đây là ngành kinh tế mũi
nhọn, là thế mạnh, lợi thế so sánh để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Các hoạt động NTTS ở huyện Phú Vang phát triển rất nhanh và chuyên hóa
mạnh từ nuôi tự nhiên, nuôi quảng canh, nuôi với mật độ thấp sang nuôi công nghiệp,
nuôi thâm canh, nuôi với mật độ cao,… Diện tích NTTS tăng lên nhanh chóng từ các
hoạt động khai hoang lấn phá, chuyển đổi đất nông nghiệp có hiệu quả sang nuôi trồng
thủy sản... Do NTTS là một hoạt động đem lại hiệu quả kinh tế cao nên bà con tiến
hành một cách ồ ạt, không theo quy hoạch.
Xuất phát từ những vấn đề trên, đồng thời được sự đồng ý của khoa Tài nguyên
đất và Môi trường nông nghiệp, trường Đại học Nông lâm Huế và sự hướng dẫn của
thầy giáo ThS. Lê Ngọc Đoàn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá tính
tổn thương và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của đất nuôi trồng thủy
sản trên địa bàn một số xã huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế ”.

8


1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá tính tổn thương do BĐKH đến người dân có đất NTTS tại thị trấn
Thuận An và xã Phú An, huyện Phú Vang.
- Đánh giá khả năng thích ứng với BĐKH của chính quyền và người dân tại thị
trấn Thuận An và xã Phú An đối với đất NTTS.
- Đề xuất một số giải pháp thích ứng với BĐKH cho đất NTTS trong thời gian
tới nhằm đảm bảo người dân có đời sống bền vững.
1.3. Yêu cầu, nhiệm vụ
- Thu thập đầy đủ các tài liệu, số liệu liên quan đến đề tài đảm bảo độ chính xác
và độ tin cậy cao.
- Số lượng mẫu điều tra phải đủ đáp ứng yêu cầu nghiên cứu. Thông tin trong
mẫu phải rõ ràng, đầy đủ, đảm bảo độ tin cậy và có tính khách quan, tính đại diện cao.
- Các giải pháp đưa ra phải phù hợp với tình hình của địa phương và phải có
tính khả thi.
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

1.4.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung cơ sở lý luận về ảnh hưởng của
BĐKH đối với đất nuôi trồng thủy sản. Đồng thời, còn là tài liệu có giá trị cho việc
học tập, đào tạo và nghiên cứu khoa học của ngành Quản lý đất đai và một số ngành
khác có liên quan.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu đề tài chỉ ra được những tác động của BĐKH đối với đất
nuôi trồng thủy sản từ đó đề xuất các giải pháp thích ứng với BĐKH phù hợp với thực
tiễn của địa phương.
- Ngoài ra, còn là tài liệu tham khảo cho các cán bộ thuộc Sở Tài nguyên và
Môi trường, Sở NN&PTNT, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng NN&PTNT đưa
ra các chính sách, phương án và mô hình nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của BĐKH tại
huyện Phú Vang.

9


PHẦN 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận của các vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Khái niệm, biểu hiện và nguyên nhân của biến đổi khí hậu
2.1.1.1. Khái niệm
a. Thời tiết – khí hậu
Thời tiết là trạng thái của các điều kiện trong khí quyển như nhiệt độ không khí,
độ che phủ của mây, mưa và gió trong một thời gian ngắn, tại một vùng cụ thể. Thời
tiết phản ánh các điều kiện thịnh hành của các khối không khí nằm trên biển và đất liền
trên toàn cầu. Bởi vậy, các kiểu thời tiết qua một khoảng thời gian thể hiện bức tranh
về khí hậu.
Khí hậu là trạng thái trung bình của thời tiết trong khoảng thời gian dài (thường
là 30 năm) .
Nói cách khác, khí hâu là bức tranh tổng thể về thời tiết trong một khoảng thời

gian các mùa hoặc một năm. Những ghi nhận trong lịch sử (bao gồm địa lý và lích sử)
thấy rằng khí hậu trên trái đất đã và đang biến đổi như thế nào trong lịch sử nhân loại.
b. Biến đổi khí hậu
Theo Khoản 2, Điều 1 của Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi
Khí hậu (UNFCCC) năm 1992, BĐKH là sự biến đổi của khí hậu do hoạt động của
con người gây ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi thành phần của khí
quyển toàn cầu và do sự biến động tự nhiên của khí hậu quan sát được trong thời kỳ có
thể so sánh được. BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình
và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài
thập kỷ hoặc dài hơn. BĐKH là do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần
của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất.
2.1.1.2. Biểu hiện biến đổi khí hậu
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu bao gồm:
- Nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng lên do dự nóng lên của bầu khí quyển toàn
cầu.
- Sự dâng cao của mực nước biển do giãn nở vì nhiệt và băng tan.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu trên các vùng khác nhau của trái đất.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình
tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần
của thủy quyển, sinh quyển, địa quyển.
10


Tuy nhiên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu và mực nước biển dâng
thường được coi là hai biểu hiện chính của BĐKH.
2.1.1.3. Nguyên nhân biến đổi khí hậu
Nguyên nhân của BĐKH được các nhà khoa học nhận định chủ yếu là do
những hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đã làm tăng nồng độ các khí gây hiệu ứng

nhà kính (N2O, CH4, H2S, các khí CFCs và nhất là CO 2) trong khí quyển, làm Trái
đất nóng lên, làm biến đổi hệ thống khí hậu và ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu.
2.1.2. Tính dễ bị tổn thương do BĐKH
2.1.2.1. Khái niệm tính dễ bị tổn thương
Tính dễ bị tổn thương do BĐKH là mức độ mà hệ thống dễ bị tác động và
không có khả năng chống chịu trước những tác động bất lợi. “Tình trạng dễ bị tổn
thương do BĐKH là mức độ mà ở đó một hệ thống (sinh thái, kinh tế-xã hội, sản
xuất…) dễ bị ảnh hưởng và không thể ứng phó với các tác động tiêu cực của BĐKH,
gồm các dao động theo quy luật và các thay đổi cực đoan của khí hậu. Tình trạng dễ bị
tổn thương là hàm số của tính chất, cường độ và mức độ (phạm vi) của các biến đổi và
dao động khí hậu, mức độ nhạy cảm và khả năng thích ứng của hệ thống [6].
2.1.2.2. Biểu hiện của tổn thương.
Tính dễ bị tổn thương đã được nghiên cứu ở rất nhiều quy mô khác nhau như
đối với một vùng lãnh thổ/khu vực (đối với ven biển, hệ thống đảo…), một hệ sinh
thái, một hệ thống tự nhiên hay một cộng đồng người…. được thể hiện trên nhiều lĩnh
vực như xã hội, môi trường, tự nhiên, thiên tai và đặc biệt quan tâm tới lĩnh vực
BĐKH.
Các yếu tố quan trọng khi đánh giá tính dễ bị tổn thương:
- Cường độ tác động;
- Thời gian tác động;
- Mức độ dai dẳng và tính thuận nghịch của tác động;
- Mức độ tin cậy trong đánh giá tác động và tính dễ bị tổn thương;
- Tầm quan trọng của hệ thống khi gặp nguy hiểm.
Các yếu tố này có thể được sử dụng kết hợp với việc đánh giá những hệ thống
có mức độ nhạy cảm cao với các điều kiện khí hậu như đới ven biển, hệ sinh thái, các
chuỗi thức ăn.. Kết quả của nghiên cứu này có giá trị rất cao trong điều kiện hiện nay
do phù hợp với xu thế BĐKH đang diễn ra trên toàn cầu [4].
2.1.2.3. Đối tượng của tổn thương
Ở Việt Nam, những lĩnh vực và đối tượng được đánh giá là dễ bị tổn thương do
BĐKH bao gồm: Nông nghiệp và an ninh lương thực, tài nguyên nước, sức khỏe, nơi

cư trú, nhất là ven biển và miền núi.
11


Các khu vực dễ bị tổn thương bao gồm: dải ven biển (kể cả những đồng bằng,
đặc biệt là những vùng hàng năm thường chịu ảnh hưởng của bão, nước dâng do bão,
lũ lụt), vùng núi, nhất là những nơi thường xãy ra lũ quét, sạt lỡ đất.
Các cộng đồng dễ bị tổn thương bao gồm: Nông dân, ngư dân (nhất là ở những
khu vực dễ bị tổn thương), các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, phụ nữ, trẻ em
và các tầng lớp nghèo nhất ở các đô thị là những đối tượng ít có cơ hội lựa chọn [2].
2.1.3. Thích ứng với biến đổi khí hậu
2.1.3.1. Khái niệm của thích ứng
Để có thể giảm tình trạng dễ bị tổn thương do BĐKH, con người chúng ta phải
tập trung xây dựng năng lực thích ứng, đặc biệt của những người dễ bị tổn thương
nhất; và trong một số trường hợp phải tập trung làm giảm sự hứng chịu hay tính nhạy
cảm đối với tác động khí hậu. Chúng ta phải đảm bảo rằng những sáng kiến phát triển
không vô tình làm tăng tình trạng dễ bị tổn thương. Chúng ta gọi quy trình này là sự
thích ứng.
Thích ứng được định nghĩa như sau: “Là sự điều chỉnh của hệ thống tự nhiên hay
xã hội để ứng phó với các kích thích do BĐKH đang hoặc được dự báo sẽ xảy ra hay
các tác động của chúng ta để từ đó, giảm nhẹ sự thiệt hại, hoặc khai thác những cơ hội
thuận lợi mà nó mang lại”. [1]
2.1.3.2. Các biện pháp thích ứng với BĐKH
Có nhiều biện pháp thích ứng có thể được thực hiện trong việc ứng phó với
BĐKH. Báo cáo đánh giá lần thứ 2 của Ban liên chính phủ về BĐKH đã đề cập và
miêu tả 228 phương pháp thích ứng khác nhau. Cách phân loại phổ biến là chia các
phương pháp thích ứng ra làm 8 nhóm:
Chấp nhận tổn thất: Các phương pháp thích ứng khác có thể được so sánh với
cách phản ứng cơ bản là “không làm gì cả”, ngoại trừ chịu đựng hay chấp nhận những
tổn thất. Trên lý thuyết, chấp nhận tổn thất xảy ra khi bên chịu tác động không có khả

năng chống chọi lại bằng bất kỳ cách nào.
Chia sẻ tổn thất: Loại phản ứng thích ứng này liên quan đến việc chia sẻ những
tổn thất giữa một cộng đồng dân cư lớn. Cách thích ứng này thường xảy ra trong một
cộng đồng truyền thống và trong xã hội công nghệ cao, phức tạp. Trong xã hội truyền
thống, nhiều cơ chế tồn tại để chia sẻ những tổn thất giữa cộng đồng mở rộng, như là
giữa các hộ gia đình, họ hàng, làng mạc hay là các cộng đồng nhỏ tương tự. Mặt khác,
các cộng đồng lớn phát triển cao chia sẻ những tổn thất thông qua cứu trợ cộng đồng,
phục hồi và tái thiết bằng các quỹ công cộng. Chia sẻ tổn thất cũng có thể được thực
hiện thông qua bảo hiểm.
Làm thay đổi nguy cơ: Ở một mức độ nào đó người ta có thể kiểm soát được
những mối nguy hiểm từ môi trường. Đối với một số hiện tượng “tự nhiên” như là lũ
lụt hay hạn hán, những biện pháp thích hợp là công tác kiểm soát lũ lụt (đập, mương,
12


đê). Đối với BĐKH, có thể điều chỉnh thích hợp làm chậm tốc độ BĐKH bằng cách
giảm phát thải khí nhà kính và cuối cùng là ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí
quyển.
Ngăn ngừa các tác động: Là một hệ thống các phương pháp thường dùng để
thích ứng từng bước và ngăn chặn các tác động của biến đổi và bất ổn của khí hậu.
Thay đổi cách sử dụng: Khi những rủi ro của BĐKH làm cho không thể tiếp tục
các hoạt động kinh tế hoặc rất mạo hiểm, người ta có thể thay đổi cách sử dụng.
Thay đổi/chuyển địa điểm: Một sự đối phó mạnh mẽ hơn là thay đổi/chuyển địa
điểm của các hoạt động kinh tế. Có thể tính toán thiệt hơn.
Nghiên cứu: Quá trình thích ứng có thể được phát triển bằng cách nghiên cứu
trong lĩnh vực công nghệ mới và phương pháp mới về thích ứng.
Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: Một kiểu hoạt động thích
ứng khác là sự phổ biến kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và
giáo dục, dẫn đến việc thay đổi hành vi. Những hoạt động đó trước đây ít được để ý
đến và ít được ưu tiên, nhưng tầm quan trọng của chúng tăng lên do cần có sự hợp tác

của nhiều cộng đồng, lĩnh vực, khu vực trong việc thích ứng với BĐKH.[1]
2.1.3.3. Một số khái niệm liên quan
a. Khái niệm nuôi trồng thủy sản
Theo FAO (2008) thì NTTS (aquaculture) là: nuôi các thủy sinh vật trong môi
trường nước ngọt và lợ/mặn, bao gồm áp dụng các kỹ thuật vào quy trình nuôi nhằm
nâng cao năng suất; thuộc sở hữu của cá nhân hay tập thể.
Hay theo 1 số tác giả khác khái niệm NTTS đơn giản hơn đó là nuôi hay canh
tác động hay thực vật dưới nước từ thuật ngữ aqua (nước) + culture (nuôi).
b. Khái niệm thiên tai
Thiên tai là hiệu ứng của một tai biến tự nhiên (ví dụ lũ lụt, (bão) phun trào núi
lửa, động đất, hay lở đất) có thể ảnh hưởng tới môi trường, và dẫn tới những thiệt hại
về tài chính, môi trường và/hay con người.
Núi lửa, lũ lụt, động đất, sóng thần, hạn hán… là những thiên tai thường xuyên
xảy ra đối với con người, gây ra những hậu quả trực tiếp như tàn phá nhà cửa, hủy
hoại tài sản, công trình, đe dọa tính mạng con người và gây nên dịch bệnh, ô nhiễm
môi trường….
2.2. Cơ sở thực tiễn của các vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Vai trò nuôi trồng thủy sản
NTTS có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của quốc dân, đem lại nguồn
thu nhập chính cho những hộ gia đình và thúc đẩy phát triển đất nước:
- Cung cấp thực phẩm, duy trì, tái tạo nguồn lợi thủy sản.
13


- Đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho địa phương nói riêng và cả nước
nói chung.
- Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thủy sản, là nguồn xuất khẩu
quan trọng.
- Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người dân.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.

- Tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
2.2.2. Ảnh hưởng của BĐKH đến NTTS ở Việt Nam
BĐKH là một trong những thách thức lớn nhất đối với NTTS của Việt Nam.
Theo ước tính của Bộ NN&PTNT, BĐKH có thể gây thiệt hại về sản lượng NTTS lên
tới 40%/năm, kéo theo sự thất nghiệp của gần 3 triệu lao động trong ngành chế biến
thủy sản.
2.2.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng cho quá trình sinh trưởng và phát triển của
sinh vật nói chung và các loài NTTS nói riêng. Mỗi loài có khoảng nhiệt độ thích ứng
riêng. Khả năng chống chịu của chúng nằm trong khoảng giới hạn nhất định.
Nhiệt độ nước trong các ao hồ phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết và từng địa
phương. Khi nhiệt độ không khí tăng lên làm cho nước nóng lên, tuy nhiên biến động
nhiệt độ nước trong các ao hồ chậm hơn so với không khí.
Sự tăng nhiệt độ có thể làm suy giảm sản lượng thủy sản trong các ao hồ. Nhiều
nghiên cứu cho thấy rằng khi nhiệt độ tăng lên làm cho hàm lượng oxi trong nước
giảm mạnh vào ban đêm, do sự tiêu thụ quá mức của các loài thực vật thủy sinh, hoặc
quá trình phân hợp chất hữu cơ. Sự suy giảm hàm lượng oxi làm ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng và phát triển của loài nuôi, tôm có thể bị chết hoặc chậm lớn.
Thay đổi nhiệt độ còn là điều kiện phát sinh của nhiều loài dịch bệnh xảy ra cho
các loài nuôi. Nhiệt độ tăng cao làm cho sức khỏe của các loài nuôi, môi trường nước
bị xấu đi, là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài vi sinh vật gây hại. Trong
những năm gần đây do môi trường nuôi bị suy thoái kết hợp với sự thay đổi khắc
nghiệt của thời tiết đã gây ra hiện tượng tôm sú chết hàng loạt ở hầu hết các tỉnh, như
bệnh do nhóm vi khuẩn Vibrio gây ra, bệnh do virus. Các bệnh này thông thường xảy
ra và lan truyền rất nhanh và rộng, khó chữa nên mức độ gây rủi ro rất lớn.
Bên cạnh những ảnh hưởng bất lợi, tăng nhiệt độ cũng là điều kiện thuận lợi
cho nuôi trồng thủy sản. Sự tăng lên của nhiệt trong khoảng cho phép tăng năng suất
sơ cấp cho các ao nuôi, tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của các loài thủy sinh là
nguồn thức ăn quan trọng cho các loài nuôi. Nhiệt độ nước tăng vào xuân thúc đẩy sự
phát triển của sinh khối thủy vực, người dân có thể thả con giống sớm hơn, cho nên có

thể tránh được rủi ro tôm cá chết do độ mặn của nước giảm đột ngột [7].
14


2.2.2.2. Ảnh hưởng của hạn hán và lũ lụt
Nguồn nước là một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công cho phát
triển nuôi trồng thủy sản. Hiện tượng nắng nóng kéo dài đã làm cạn kiệt nguồn nước
ngọt, làm tăng mức độ bốc hơi nước trong các ao nuôi. Đối với các ao nuôi gần nguồn
cung cấp nước hoặc nuôi lồng bè trong vực nước lớn (sông suối, biển) thì ảnh hưởng
này không lớn, nhưng đối với ao nuôi cách xa nguồn nước thì nuôi trồng thủy sản bị
ảnh hưởng rất nghiêm trong. Miền Trung là nơi có số ngày nắng, mức độ bốc hơi nước
lớn nhất cả nước, cho nên hạn hán xảy ra nghiêm trọng nhất. Nhiều ao nuôi tôm cá đã
bị bỏ hoang vì không có nước để cung cấp trong quá trình nuôi. Một số ao nuôi chưa
đến thời gian thu hoạch đã bị cạn kiệt nguồn nước trong ao, nên người dân phải thu
hoạch sớm hoặc bỏ nuôi. Tôm cá chưa đến kích thước thương phẩm bán với giá quá rẻ
hoặc làm thức ăn cho gia súc và gia cầm.
Nắng lắm ắt phải mưa nhiều, gây ra hiện tượng lũ lụt ở nhiều nơi. Lượng mưa
trung bình khác nhau ở mỗi vùng. Lũ lụt đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng ở nhiều địa
phương trong cả nước. Nhiều nơi có thể được xem là nơi thuận lợi phát triển nếu hiện
tượng khô hạn xảy ra, nhưng chính nơi đây là nơi dễ bị rủi ro nhất nếu lũ lụt xảy ra.
Khô hạn có thể cung cấp nước, nhưng lũ lụt thì rất khó chống. Nhiều ao nuôi đã được
chuẩn bị bao đê kiên cố, cao để chống nước dân cao vào mùa mưa, nhưng không thể
chống được lũ lụt. Đối với nghề nuôi thủy sản mặn lợ, độ mặn lại là yếu tố ảnh hưởng
rất lớn đến sinh trưởng và phát triển của loài nuôi. Khi xảy ra mưa lớn, độ mặn trong
các ao nuôi giảm xuống đột ngột vượt ra khỏi ngưỡng chịu đựng làm cho tôm cá bị
sốc, chết hoặc chậm lớn. Lũ xãy ra còn làm cho độ mặn các vực nước gần bờ như các
cửa sông giảm xuống, nghề nuôi nhuyễn thể, tôm, cá, rong đều bị ảnh hưởng nghiêm
trọng [7].
2.2.2.3. Hiện tượng dông bão
Do nằm trong vành đai nhiệt đới nên Việt Nam phải chịu ảnh hưởng của hiện

tượng bão và áp thấp nhiệt đới. Bão và áp thấp nhiệt đới gây ra mưa to gió lớn. Bão đã
gây ra những cơn sóng giữ dội có thể tàn phá hoàn toàn hệ thống đê bao của các ao
nuôi, lồng bè trên biển, vì vậy tổn thất là điều khó tránh khỏi. Sự tàn phá của bão và áp
thấp nhiệt đới còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái của vùng nuôi – cần thời gian dài mới
có thể phục hồi. So với sự thay đổi nhiệt độ, bão và áp thấp nhiệt đới thưởng khó có
thể dự đoán, ngược lại mức độ ảnh hưởng của nó ảnh hưởng nghiêm trọng hơn rất
nhiều. Có thể nói rằng, hiện tượng khắc nghiệt của BĐKH này ảnh hưởng rất lớn đến
mọi vấn đề không chỉ riêng nuôi trồng thủy sản. Đối với vùng ven biển, nơi mà cộng
đồng cư dân sống chủ yếu dựa vào hoạt động nuôi trồng thủy sản, nếu bão xảy ra thì
thiệt hại về kinh tế là điều khó tránh khỏi, sinh kế của họ sẽ bị mất [8].

15


2.2.3. Tình hình BĐKH ở VN trong thời gian qua
2.2.3.1. Biến đổi nhiệt độ không khí trung bình
Quy luật diễn biến khí hậu trong quá khứ sẽ là căn cứ quan trọng để xác định
mức độ phù hợp với khí hậu địa phương của các kịch bản BĐKH trong tương lai,
chính vì vậy chúng tôi đã tiến hành xác định xu thế diễn biến khí hậu trên từng vùng
khí hậu của nước ta và trung bình cho cả nước. Số liệu khí hậu của 161 trạm trên đất
liền và 10 trạm trên các đảo đã được sử dụng nhằm xác định xu thế diễn biến khí hậu ở
Việt Nam trong 50 năm qua (1958 - 2007). Đây là các trạm có độ dài năm quan trắc ít
nhất là quá nửa tổng số năm trong thời kỳ nêu trên. Đối với nhiệt độ, xu thế diễn biến
được xác định trên cơ sở chuỗi số liệu chuẩn sai ( OC) và xu thế diễn biến lượng mưa
được xác định thông qua biến suất tương đối (%).
Tại Việt Nam, nhiệt độ trung bình hàng năm không có gia tăng trong khoảng
thời gian từ 1895 (khi bắt đầu có sở khí tượng) đến 1970, tuy nhiên nhiệt độ trung bình
hàng năm ở Việt Nam gia tăng đáng kể trong ba thập niên qua, gia tăng khoảng 0.32 oC
kể từ 1970.


Hình 2.1. Xu hướng gia tăng nhiệt độ trung bình năm trên toàn cầu và ở Việt Nam
Nghiên cứu dữ liệu khí tượng chi tiết của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc
gia cho thấy trong vòng 30 năm qua, ở Việt Nam nhiệt độ có xu huớng gia tăng đáng
kể, các tỉnh Miền Bắc gia tăng nhiều hơn Miền Nam, đặc biệt trong những tháng mùa
hè với biên độ lớn hơn. Nhiệt độ trung bình trong mùa hè không tăng mấy. Riêng tại
thành phố Hồ Chí Minh, nhiệt độ trung bình từ năm 1984 đến 2004 cho thấy càng
ngày càng tăng lên.
Bảng 2.1. Mức tăng nhiệt độ và mức thay đổi lượng mưa theo xu thế trong 50 năm
qua ở các vùng khí hậu và trung bình cho cả nước
16


Nhiệt độ (OC)
Vùng khí hậu

Số
lượng Tháng Tháng
I
VII
trạm

Trung
bình
năm

Lượng mưa (%)
Thời
Thời Tổng
kỳ
kỳ

lượng
XIV-X
năm
IV
6
-6
-2
0
-9
-7
0
-13
-11
4
-5
-3
20
20
20
19
9
11
27
6
9

Tây Bắc
19
1,4
0,3

0,5
Đông Bắc Bộ
33
1,5
0,5
0,6
Đồng bằng Bắc Bộ
42
1,4
0,5
0,6
Bắc Trung Bộ
26
1,3
0,5
0,5
Nam Trung Bộ
11
0,6
0,4
0,3
Tây Nguyên
12
0,9
0,4
0,6
Nam Bộ
18
0,8
0,4

0,6
Trung bình cả
161
1,2
0,4
0,56
7
-5
-2
nước
(Nguồn: Chương trình hành động thích ứng với BĐKH ngành NN&PTNT)
Có thể nhận thấy nhiệt độ tháng I (tháng đặc trưng cho mùa đông), nhiệt độ
tháng VII (tháng đặc trưng cho mùa hè) và nhiệt độ trung bình năm tăng trên phạm vi
cả nước trong 50 năm qua. Nhiệt độ vào mùa đông tăng nhanh hơn so với vào mùa hè
và các vùng có nhiệt độ tăng nhanh hơn là Tây Bắc, Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ,
Bắc Trung Bộ (khoảng 1,3 - 1,5 OC/50năm). Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ
có nhiệt độ tháng I tăng chậm hơn so với các vùng khí hậu phía Bắc (khoảng 0,6 0,9OC/50năm). Tính trung bình cho cả nước, nhiệt độ mùa đông ở nước ta tăng lên
1,2OC trong 50 năm qua. Nhiệt độ tháng VII tăng khoảng 0,3 - 0,5 OC/50năm trên tất cả
các vùng khí hậu của cả nước. Nhiệt độ trung bình năm tăng 0,5 - 0,6 OC/50năm ở Tây
Bắc, Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, còn
mức tăng nhiệt độ trung bình năm ở Nam Trung Bộ thấp hơn, chỉ vào khoảng
0,3OC/50năm. Tính trung bình cho cả nước, nhiệt độ trung bình năm đã tăng lên
khoảng 0,56OC trong 50 năm qua.
2.2.3.2. Biến đổi của số giờ nắng
Số giờ nắng là một yếu tố quan trọng đối với quá trình quang hợp của thực vật.
Do vậy để xem xét biến đổi của số giờ nắng đã nghiên cứu sự biến đổi của số giờ nắng
tháng I, tháng VII, số giờ nắng năm và theo mùa vụ (đông xuân và mùa).
- Đối với miền núi và Trung du Bắc Bộ: tháng I số giờ nắng có xu thế giảm so
với TBNN 20 giờ, tháng VII giảm khoảng 10 giờ, cả năm giảm 45 giờ. Tổng số giờ
nắng vụ đông xuân giảm 40 giờ, vụ mùa giảm khoảng 1 giờ.

- Đồng bằng Bắc Bộ: Trạm Hà Nội, trạm Hải Dương, trạm Nam Định: đều có
xu thế giảm vào tháng I từ 10 - 20 giờ, tháng VII giảm 20 - 30 giờ. Vụ đông xuân và
vụ mùa giảm 50 - 70 giờ.
- Bắc Trung Bộ: Trạm Vinh số giờ nắng giảm 5 - 10 giờ đối với tháng I, tháng
VII, cả năm và mùa vụ.
17


- Nam Trung Bộ: Trạm Nha Trang số giờ nắng tăng vào tháng I, tháng VII, cả
năm và mùa vụ.
- Tây Nguyên: Cả 2 trạm Pleiku và Buôn Ma Thuột số giờ nắng tăng dần so
với TBNN.
- Đối với Nam bộ số giờ nắng giảm giống như ở Bắc Bộ.
2.2.3.3. Biến đổi của lượng mưa
Để xem xét đánh giá xu thế biến đổi của lượng mưa các tác giả cũng nghiên cứu
biến đổi của lượng mưa tháng I, tháng VII, năm và theo mùa vụ. Kết quả tính toán cho
thấy:
- Trung du miền núi Bắc Bộ: lượng mưa tháng I hầu như không thay đổi so với
TBNN, lượng mưa tháng VII có xu thế tăng, lượng mưa năm, vụ có xu thế tăng.
- Đồng bằng Bắc Bộ: Tại Hà Nội lượng mưa tháng I, tháng VII có xu thế tăng,
lượng mưa năm tăng không đáng kể, lượng mưa vụ đông xuân tăng nhưng lượng mưa
vụ mùa có xu thế giảm.
- Đối với Bắc Trung Bộ: Trạm Vinh lượng mưa tháng I, tháng VII, năm, vụ
mùa có xu thế giảm, vụ đông xuân có xu thế tăng nhưng không đáng kể.
- Nam Trung Bộ: Trạm Đà Nẵng lượng mưa có xu thế tăng là mưa năm, vụ
mùa, vụ đông xuân còn tháng VII lượng mưa giảm, tháng I lượng mưa không thay đổi.
- Tây Nguyên: Trạm Pleiku lượng mưa có xu thế giảm vào tháng I, tháng VII,
lượng mưa năm và các vụ có xu thế tăng. Tại trạm Buôn Ma Thuột lượng mưa năm, vụ
có xu thế tăng, tháng VII lượng mưa có xu thế giảm.
- Đông Nam Bộ: Tháng I, vụ mùa lượng mưa có xu thế giảm, lượng mưa vụ

đông xuân có xu thế tăng.
- Đồng bằng sông Cửu Long: Trạm Cần Thơ lượng mưa tháng I, vụ đông xuân
có xu thế giảm, lượng mưa tháng VII có xu thế tăng, lượng mưa năm, vụ mùa hầu như
không đổi. Tại trạm Bạc Liêu lượng mưa tháng VII có xu thế tăng còn lại đều có xu
thế giảm.
2.2.3.4. Bão đổ bộ vào Việt Nam
Số cơn bão có xu thế tăng dần từ 1950 đến 1980. Số cơn bão giảm trong thập kỷ
1990. Có thể thấy bão có xu thế dịch chuyển dần vào phía nam và xuất hiện muộn hơn
so với trước.
Bảng 2.2. Bão đổ bộ vào Việt Nam theo tháng và năm 1950 – 1999
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9 10 11 12 Năm
1950 – 1959
0
0
0
1
1
4
5
11
9

9
7
3 50
1960 – 1969
0
1
0
1
1
5
11 13 19 12
8
1 72
1970 – 1979
0
0
0
0
2
9
7 13 18 15 10
4 78
1980 – 1989
0
0
2
0
1
9 10 9
9 24 11

2 77
18


1990 - 1999
0
0
0
1
0
6
8 10 12 14 15
5 71
Trung bình
0 0,02 0,04 0,06 0,1 0,66 0,82 1,12 1,34 1,48 1,02 0,3 6,96
năm
(Nguồn: Chương trình hành động thích ứng với BĐKH ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn)
2.2.3.6. Sự biến đổi của các hiện tượng khí hậu khác
- Số ngày mưa phùn ở miền Bắc giảm một nửa, từ trung bình 30 ngày mỗi năm
trong thập kỷ 1961 - 1970 xuống còn 15 ngày mỗi năm trong thập kỷ 1991 – 2000.
- Hạn hán có xu hướng mở rộng ở hầu hết các vùng, đặc biệt là ở các tỉnh Nam
Trung Bộ, dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa.
- Mực nước biển trung bình đã tăng 25 - 30 cm trong khoảng 50 năm qua.
- Hiện tượng El Nino và La Nina ảnh hưởng đến Việt Nam mạnh mẽ hơn trong
vài thập kỷ gần đây, gây ra nhiều dị thường về thời tiết như nhiệt độ cực đại, nắng
nóng và hạn hán gay gắt trên diện rộng, cháy rừng khi có El Nino, điển hình là năm
1997 - 1998; mưa lớn, lũ lụt và rét hại khi có La Nina như năm 2007.
Mực nước biển: Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn dọc ven biển Việt Nam
cho thấy tốc độ dâng lên của mực nước biển trung bình ở Việt Nam hiện nay là khoảng

3mm/năm (giai đoạn 1993 - 2008), tương đương với tốc độ tăng trung bình trên thế
giới. Trong khoảng 50 năm qua, mực nước biển tại Trạm hải văn Hòn Dấu dâng lên
khoảng 20cm.[5]

Hình 2.2. Diễn biến của mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dấu
(Nguồn: Chương trình hành động thích ứng với BĐKH ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn)
2.2.4. Kịch bản BĐKH ở Việt Nam
2.2.4.1. Kịch bản BĐKH
Các kịch bản phát thải khí nhà kính được chọn để tính toán xây dựng kịch bản
BĐKH cho Việt Nam là ba kịch bản (B1, B2, A2). Các kịch bản BĐKH đối với nhiệt
19


độ và lượng mưa được xây dựng cho bảy vùng khí hậu của Việt Nam: Tây Bắc, Đông
Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ.
Thời kỳ dùng làm cơ sở để so sánh là 1980 - 1999.
a. Về nhiệt độ

Nhiệt độ mùa đông có thể tăng nhanh hơn so với nhiệt độ mùa hè ở tất cả các
vùng khí hậu của nước ta. Nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng nhanh hơn
so với các vùng khí hậu phía Nam.
Theo kịch bản phát thải thấp (B1): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm
ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980-1999 khoảng
từ 1,6 đến 1,9ºC và ở các vùng khí hậu phía Nam tăng ít hơn, chỉ khoảng từ 1,1 đến
1,4ºC (bảng 2.3).
Bảng 2.3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (ºC) so với thời kỳ 1980-1999
theo kịch bản phát thải thấp (B1)
Vùng


Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080
0,5
0,7
1,0
1,2
1,4
1,6
1,6
0,5
0,7
1,0
1,2
1,4
1,5
1,6
0,5
0,7
0,9
1,2
1,4
1,5
1,5

2090
1,7
1,7
1,6

2100

1,7
1,7
1,6

Tây Bắc
Đông Bắc
Đồng bằng Bắc
Bộ
Bắc Trung Bộ
0,6
0,8
1,1
1,4
1,6
1,7
1,8
1,9
1,9
Nam Trung Bộ
0,4
0,6
0,7
0,9
1,0
1,2
1,2
1,2
1,2
Tây Nguyên
0,3

0,5
0,6
0,8
0,9
1,0
1,0
1,1
1,1
Nam Bộ
0,4
0,6
0,8
1,0
1,1
1,3
1,3
1,4
1,4
(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt
Nam, 2009)

Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung
bình năm có thể tăng lên 2,6ºC ở Tây Bắc; 2,5ºC ở Đông Bắc; 2,4ºC ở Đồng bằng Bắc
Bộ; 2,8ºC ở Bắc Trung Bộ; 1,9ºC ở Nam Trung Bộ; 1,6ºC ở Tây Nguyên và 2,0ºC ở
Nam Bộ so với trung bình thời kỳ 1980 – 1999 (bảng 2.4).
Bảng 2.4. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (ºC) so với thời kỳ 1980 - 1999 theo
kịch bản phát thải trung bình (B2)

Vùng
Tây Bắc

Đông Bắc
Đồng bằng Bắc Bộ
Bắc Trung Bộ

202
0
0,5
0,5
0,5
0,5

203
0
0,7
0,7
0,7
0,8

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
204 205 206 207 208
0
0
0
0
0
1,0
1,3
1,6
1,9
2,1

1,0
1,2
1,6
1,8
2,1
0,9
1,2
1,5
1,8
2,0
1,1
1,5
1,8
2,1
2,4

209
0
2,4
2,3
2,2
2,6

2100
2,6
2,5
2,4
2,8
20



Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Nam Bộ

0,4
0,3
0,4

0,5
0,5
0,6

0,7
0,6
0,8

0,9
0,8
1,0

1,2
1,0
1,3

1,4
1,2
1,6

1,6

1,4
1,8

1,8
1,5
1,9

1,9
1,6
2,0

(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt
Nam, 2009)
Theo kịch bản phát thải cao (A2): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm
ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999 khoảng
3,1 đến 3,6ºC; trong đó Tây Bắc là 3,3ºC, Đông Bắc là 3,2ºC, Đồng bằng Bắc Bộ là
3,1ºC và Bắc Trung Bộ là 3,6ºC. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm của các vùng khí
hậu phía Nam là 2,4ºC ở Nam Trung Bộ, 2,1ºC ở Tây Nguyên và 2,6ºC ở Nam Bộ
(bảng 2.5).
Bảng 2.5. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (ºC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải cao (A2)
Vùng

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
202 203 204 205 206 207 208 209 210
0
0
0
0
0

0
0
0
0
Tây Bắc
0,5
0,8
1,0
1,3
1,7
2,0
2,4
2,8
3,3
Đông Bắc
0,5
0,7
1,0
1,3
1,6
1,9
2,3
2,7
3,2
Đồng bằng Bắc Bộ 0,5
0,7
1,0
1,3
1,6
1,9

2,3
2,6
3,1
Bắc Trung Bộ
0,6
0,9
1,2
1,5
1,8
2,2
2,6
3,1
3,6
Nam Trung Bộ
0,4
0,5
0,8
1,0
1,2
1,5
1,8
2,1
2,4
Tây Nguyên
0,3
0,5
0,7
0,8
1,0
1,3

1,5
1,8
2,1
Nam Bộ
0,4
0,6
0,8
1,0
1,3
1,6
1,9
2,3
2,6
(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt
Nam, 2009)
b. Về lượng mưa
Lượng mưa mùa khô có thể giảm ở hầu hết các vùng khí hậu của nước ta, đặc
biệt là các vùng khí hậu phía Nam. Lượng mưa mùa mưa và tổng lượng mưa năm có
thể tăng ở tất cả các vùng khí hậu.
Theo kịch bản phát thải thấp (B1): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có thể
tăng khoảng 5% ở Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và từ 1 - 2%
ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ so với trung bình thời kỳ 1980 – 1999 (bảng
2.6). Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ tăng từ 6 đến 10% ở cả bốn
vùng khí hậu phía Bắc và Nam Trung Bộ, còn ở Tây Nguyên và Nam Bộ chỉ tăng
khoảng 1% so với thời kỳ 1980 - 1999 .
Bảng 2.6. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo
kịch bản phát thải thấp (B1)
Vùng

202

0

203
0

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
204 205 206 207 208 209
0
0
0
0
0
0

210
0
21


Tây Bắc
Đông Bắc
Đồng bằng Bắc Bộ
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Nam Bộ

1,4
1,4
1,6

1,5
0,7
0,3
0,3

2,1
2,1
2,3
2,2
1,0
0,4
0,4

3,0
3,0
3,2
3,1
1,3
0,5
0,6

3,6
3,6
3,9
3,8
1,6
0,7
0,7

4,1

4,1
4,5
4,3
1,8
0,7
0,8

4,4
4,5
4,8
4,7
2,0
0,9
0,9

4,6
4,7
5,1
4,9
2,1
0,9
1,0

4,8
4,8
5,2
5,0
2,2
1,0
1,0


4,8
4,8
5,2
5,0
2,2
1,0
1,0

(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt
Nam, 2009)
Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có
thể tăng khoảng 7 - 8% ở Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và từ
2 - 3% ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999
(bảng 2.7). Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ tăng từ 10 đến 15% ở cả
bốn vùng khí hậu phía Bắc và Nam Trung Bộ, còn ở Tây Nguyên và Nam Bộ chỉ tăng
trên dưới 1%
Bảng 2.7. Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải trung bình (B2)
Vùng

202
0
Tây Bắc
1,4
Đông Bắc
1,4
Đồng bằng Bắc Bộ 1,6
Bắc Trung Bộ
1,5

Nam Trung Bộ
0,7
Tây Nguyên
0,3
Nam Bộ
0,3

203
0
2,1
2,1
2,3
2,2
1,0
0,4
0,4

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
204 205 206 207 208
0
0
0
0
0
3,0
3,8
4,6
5,4
6,1
3,0

3,8
4,7
5,4
6,1
3,2
4,1
5,0
5,9
6,6
3,1
4,0
4,9
5,7
6,4
1,3
1,7
2,1
2,4
2,7
0,5
0,7
0,9
1,0
1,2
0,6
0,8
1,0
1,1
1,2


209
0
6,7
6,8
7,3
7,1
3,0
1,3
1,4

210
0
7,4
7,3
7,9
7,7
3,2
1,4
1,5

(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt
Nam, 2009)
Theo kịch bản phát thải cao (A2): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có thể
tăng so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999, khoảng 9 - 10% ở Tây Bắc, Đông Bắc,
10% ở Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, 4 - 5% ở Nam Trung Bộ và khoảng 2% ở
Tây Nguyên, Nam Bộ (bảng 2.8). Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ
tăng từ 12 đến 19% ở cả bốn vùng khí hậu phía Bắc và Nam Trung Bộ, còn ở Tây
Nguyên và Nam Bộ chỉ vào khoảng 1 - 2%.
Bảng 2.8. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải cao (A2)

Vùng

202
0

203
0

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
204 205 206 207 208 209
0
0
0
0
0
0

210
0
22


Tây Bắc
1,6
2,1
2,8
3,7
4,5
5,6
6,8

8,0
9,3
Đông Bắc
1,7
2,2
2,8
2,8
4,6
5,7
6,8
8,0
9,3
Đồng bằng Bắc Bộ 1,6
2,3
3,0
3,8
5,0
6,1
7,4
8,7
10,1
Bắc Trung Bộ
1,8
2,3
3,0
3,7
4,8
5,9
7,1
8,4

9,7
Nam Trung Bộ
0,7
1,0
1,2
1,7
2,1
2,5
3,0
3,6
4,1
Tây Nguyên
0,3
0,4
0,5
0,7
0,9
1,1
1,3
1,5
1,8
Nam Bộ
0,3
0,4
0,6
0,7
1,0
1,2
1,4
1,6

1,9
(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt
Nam, 2009)
2.2.4.2. Kịch bản nước biển dâng
Báo cáo lần thứ tư của IPCC ước tính mực nước biển dâng khoảng 26-59 cm
vào năm 2100, tuy nhiên không loại trừ khả năng tốc độ cao hơn.
Nguyên nhân chính dẫn đến sự thiên thấp này là do các mô hình tính toán mà
IPCC sử dụng để phân tích đã chưa đánh giá đầy đủ các quá trình tan băng. Một số
nghiên cứu gần đây cho rằng mực nước biển toàn cầu có thể tăng 50-140 cm vào năm
2100.
Các kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam được tính toán theo kịch bản phát
thải thấp nhất (B1), kịch bản phát thải trung bình (B2) và kịch bản phát thải cao nhất
(A1FI).
Kết quả tính toán theo các kịch bản phát thải thấp, trung bình và cao cho thấy
vào giữa thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng thêm 28 đến 33 cm và đến cuối thế kỷ
21 mực nước biển dâng thêm từ 65 đến 100 cm so với thời kỳ 1980 – 1999.
Bảng 2.9. Mực nước biển dâng (cm) so với thời kỳ 1980-1999
Kịch bản
Thấp (B1)
Trung bình (B2)
Cao (A1FI)

Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080
11
17
23
28
35
42

50
12
17
23
30
37
46
54
12
17
24
33
44
57
71

2090
57
64
86

2100
65
75
100

(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt
Nam, 2009)
PHẦN 3.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tình hình thời tiết, khí hậu của thị trấn Thuận An và xã Phú An của huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Các hộ dân NTTS của thị trấn Thuận An và xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
23


3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài thực hiện trên địa bàn xã Phú An và Thị trấn
Thuận An huyện Phú Vang.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu được triển khai từ tháng 1 đến tháng 11
năm 2016.
- Phạm vi số liệu: Số liệu diễn biến thời tiết khí hậu từ năm 2000 đến năm 2015.
Số liệu thu thập đánh giá tính tổn thương và thích ứng của hoạt động NTTS với BĐKH
được thu thập trong thời gian 5 năm (2011-2015).
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
Chọn thị trấn Thuận An và xã Phú An làm nghiên cứu vì đây là địa bàn ven
biển, có diện tích NTTS khá lớn của huyện Phú Vang. Là những xã chịu ảnh hưởng
nhiều của BĐKH, đặc biệt là lũ lụt và nhiệt độ tăng cao vào mùa hè dẫn đến những
khó khăn nhất là trong những thời điểm NTTS của người dân ở đây.
Tiến hành khảo sát 60 hộ dân chuyên NTTS tại thị trấn Thuận An và xã Phú An,
mỗi địa điểm 30 hộ.
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập báo cáo về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, bản đồ hiện trạng sử dụng
đất, tại Phòng TN&MT huyện Phú Vang. Thu thập số liệu về nhiệt độ, lượng mưa, các
hiện tượng thời tiết cực đoan tại trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thu thập tình hình nuôi trồng thủy sản tại thị trấn Thuận An và xã Phú An.

3.3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Nghiên cứu phỏng vấn 02 nhóm đối tượng là cán bộ và người dân.
- Phỏng vấn cán bộ, bao gồm: chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường và
chuyên viên phòng Nông nghiệp huyện Phú Vang, chuyên viên Trung tâm khí tượng
thủy văn tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phỏng vấn hộ nông dân (phỏng vấn bằng bảng hỏi): Điều tra 60 hộ gồm thị trấn
Thuận An và xã Phú An, mỗi địa điểm 30 phiếu.
3.3.3. Phương pháp tổng hợp xử lý số liệu
Phương pháp phân tích và xử lý các số liệu thô đã thu thập được.
3.3.4. Phương pháp kế thừa tài liệu liên quan
Dựa trên cơ sở tìm hiểu thu thập và kế thừa các tài liệu có liên quan đến đề tài,
tiến hành chọc lọc, phân tích tổng hợp từ đó đánh giá chúng theo yêu cầu và mục đích

24


nghiên cứu. Nguồn số liệu từ: khóa luận đã có, sách báo, internet, cơ quan Tài nguyên
và Môi trường,..

PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của vùng nghiên cứu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý

Hình 4.1. Bản đồ huyện Phú Vang
Phú Vang là một huyện đồng bằng ven biển, nằm về phía Đông Bắc của tỉnh
Thừa Thiên Huế, có tọa độ địa lý: 107 034’20”- 107050’50” kinh độ Đông và 16020’13”
- 16034’30” vĩ độ Bắc. Huyện Phú Vang có ranh giới hành chính được xác định như
sau:

Phía Bắc giáp thị xã Hương Trà;
25


×