Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Mạch lạc trong văn bản nghị luận tiếng Việt (LA Tiến sỹ ngôn ngữ học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 167 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------------------

TỐNG THỊ HƯỜNG

MẠCH LẠC TRONG
VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9 22 90 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM VĂN TÌNH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận án là trung thực, chưa từng được một ai công bố ở đâu và trong bất
kì công trình nào khác.
Tác giả luận án

Tống Thị Hường


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận án xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Học viện Khoa học xã


hội, lãnh đạo khoa Ngôn ngữ học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập, triển khai đề tài nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phạm Văn
Tình, người hướng dẫn khoa học đã luôn tận tình hướng dẫn cho tôi trong quá
trình quá trình học tập, nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Trường Đại học Hải Phòng, Ban
chủ nhiệm khoa Ngữ văn - Địa lí đã luôn tạo điều kiện thuận lợi để tôi trong học
tập và hoàn thành luận án.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và
tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận án này.
Tác giả luận án
Tống Thị Hường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN .............. 6
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu................................................................................................ 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về mạch lạc trong văn bản......................................................... 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trong văn bản nghị luận tiếng Việt ......................... 12
1.2. Cơ sở lí thuyết ....................................................................................................................... 13
1.2.1. Văn bản và một số vấn đề liên quan ............................................................................ 13
1.2.2. Cơ sở lí thuyết về mạch lạc .......................................................................................... 33
1.2.3. Văn bản nghị luận ......................................................................................................... 41
1.3. Tiểu kết................................................................................................................................... 51
CHƯƠNG 2. MẠCH LẠC TRONG SỰ THỐNG NHẤT ĐỀ TÀI - CHỦ ĐỀ Ở VĂN
BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT .......................................................................................... 53
2.1. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị luận thể hiện qua kết cấu văn
bản .................................................................................................................................................. 53
2.1.1. Đảm bảo kết cấu rõ ràng, hợp lí ...................................................................................... 53

2.1.2. Sử dụng kiểu quan hệ kết cấu phù hợp ........................................................................ 57
2.2. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị luận thể hiện qua các phép
liên kết ........................................................................................................................................... 61
2.2.1. Các phép liên kết duy trì đề tài-chủ đề tạo mạch lạc trong văn bản nghị luận
tiếng Việt. ............................................................................................................. 62
2.2.2. Các phép liên kết phát triển đề tài-chủ đề tạo mạch lạc cho văn bản nghị luận tiếng
Việt ........................................................................................................................................... 81
2.3. Phân tích trường hợp: Mạch lạc trong thống nhất đề tài-chủ đề qua một số văn
bản cụ thể .................................................................................................................. 89
2.4. Tiểu kết................................................................................................................................. 101
CHƯƠNG 3 MẠCH LẠC TRONG QUAN HỆ LẬP LUẬN Ở VĂN BẢN NGHỊ
LUẬN TIẾNG VIỆT ............................................................................................................... 103
3.1. Mạch lạc biểu hiện qua việc sử dụng kiểu lập luận phù hợp .......................................... 103
3.1.1. Lập luận theo logic hình thức của luận cứ và kết luận ........................................... 103
3.1.2. Lập luận tường minh và lập luận hàm ẩn ................................................................. 112
3.1.3. Lập luận phức ............................................................................................................. 115
3.2. Mạch lạc biểu hiện qua đặc điểm của các thành lập luận ............................................... 117


3.2.1. Đặc điểm của luận cứ ................................................................................................. 118
3.2.2. Đặc điểm của kết luận trong lập luận của văn bản nghị luận ................................. 121
3.3. Mạch lạc biểu hiện qua các yếu tố có giá trị lập luận ở văn bản nghị luận ................... 126
3.3.1. Kết tử lập luận trong văn bản nghị luận ................................................................... 126

3.3.2. Một số biện pháp tu từ có giá trị lập luận trong văn bản nghị luậnError! Bookmark not defined
3.3.3. Các từ ngữ xưng hô .................................................................................................... 130
3.4. Hiện tượng đa thanh trong lập luận ở văn bản nghị luận ................................................ 132
3.4.1. Hiện tượng đa thanh trong lập luận đồng hướng ..................................................... 132
3.4.2. Hiện tượng đa thanh trong lập luận nghịch hướng .................................................. 138
3.5. Tiểu kết................................................................................................................................. 139

KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU, MÔ HÌNH

Bảng 2.1. Thống kê kiểu kết cấu văn bản nghị luận ..................................................... 54
Bảng 2.2. Thống kê về kiểu quan hệ kết cấu ở cấp độ văn bản trong VBNL. .............. 57
Bảng 2.3. Thống kê về tần suất xuất hiện của các phép liên kết trong VBNL ............. 61
Bảng 2.4. Thống kê về tần suất xuất hiện phép lặp từ vựng trong văn bản nghị luận
tiếng Việt ....................................................................................................................... 62
Bảng 2.5. Thống kê về tần suất xuất hiện phép thế trong văn bản nghị luận tiếng Việt66
Bảng 2.6. Thống kê về tần suất xuất hiện phép tỉnh lược trong VBNL tiếng Việt ....... 68
Bảng 2.7. Thống kê về tần suất xuất hiện phép dùng từ ngữ đồng nghĩa trong VBNL
tiếng Việt ....................................................................................................................... 72
Bảng 2. 8. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép quy chiếu trong VBNL tiếng Việt75
Bảng 2.9. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép phối hợp từ ngữ trong văn bản nghị
luận tiếng Việt ................................................................................................................ 81
Bảng 2.10. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép dùng từ ngữ trái nghĩa trong
VBNL tiếng Việt ........................................................................................................... 85
Bảng 3.1. Thống kê về tần suất xuất hiện kiểu lập luận.........................................103
Mô hình 2.1. Mô hình kết cấu của văn bản nghị luận ................................................... 54
Mô hình 2.2. Mô hình kết cấu của văn bản Tuyên ngôn độc lập ..................................91
Mô hình 2.3. Mô hình kết cấu của văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong
văn nghệ của dân tộc ....................................................................................................95
Mô hình 2.4. Mô hình kết cấu của văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới .........99
Mô hình 3.1. Mô hình cấu trúc lập luận của văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao

sáng trong văn nghệ của dân tộc ................................................................................ 145


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
1.1. Liên kết (cohesion) và mạch lạc (coherence) là hai vấn đề liên quan tới đặc
trưng của mọi loại thể văn bản. Một văn bản "chính danh" muốn đạt được hiệu quả
giao tiếp tốt nhất phải có mạch lạc. Mạch lạc có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định
“chất văn bản” của văn bản. Mạch lạc là yếu tố quyết định việc tạo thành văn bản,
trong đó nổi rõ lên việc tạo thành tính thống nhất chủ đề của văn bản. Trước đây, các
nhà nghiên cứu ngữ pháp văn bản thường xem mạch lạc là một mặt biểu hiện của liên
kết nội dung. Gần đây, khi ngữ pháp chức năng ra đời, mạch lạc được nghiên cứu và
được xem như một bộ phận quan trọng cấu thành văn bản. Diệp Quang Ban đã tiếp thu
quan điểm, tinh thần của ngữ pháp chức năng vào nghiên cứu văn bản tiếng Việt trong
[7], [8], [11], [12]. Trong các công trình này, Diệp Quang Ban đã nhắc tới vai trò của
mạch lạc trong văn bản: “chính mạch lạc là cái làm cho văn bản là một văn bản. (...)
và mạch lạc cũng là yếu tố có mặt trong văn bản lập luận như một yếu tố bắt buộc”[8,
tr. 293]. Mạch lạc tuy là yếu tố khó xác định rạch ròi nhưng việc thể hiện nó ở những
loại hình văn bản khác nhau có những điểm đặc trưng đáng chú ý. Vì thế, việc hiểu rõ
về mạch lạc (về vai trò và những biểu hiện) gắn với đặc trưng loại hình là vô cùng cần
thiết khi tạo lập hay tiếp nhận một văn bản nào đó.
1.2. Văn bản nghị luận (VBNL) là loại văn bản dùng để trình bày, bình luận,
đánh giá theo một quan điểm nhất định các vấn đề trong các lĩnh vực chính trị - xã hội,
thực hiện chức năng thuyết phục, lôi cuốn, động viên. VBNL thể hiện quan điểm, “bản
lĩnh” của người viết khi trình bày, bình giá về một sự kiện, một vấn đề chính trị - xã
hội cụ thể. VBNL thể hiện rất rõ ràng tính bình giá công khai, tính lập luận chặt chẽ và
tính truyền cảm mạnh mẽ. VBNL là loại văn bản quan trọng trong xã hội xưa (với các
thể loại như hịch, cáo, chiếu, biểu) và thường gặp trong cuộc sống hàng ngày ở xã hội
nay (các bài bình luận, xã luận trên các phương tiện thông tin đại chúng). Hơn nữa,
trong nhà trường, VBNL có một vị trí quan trọng, được giới thiệu và giảng dạy từ bậc

trung học cơ sở đến bậc trung học phổ thông (lớp 7 - lớp 12). Văn nghị luận trong nhà
trường là thể loại giúp học sinh rèn luyện tư duy, lập luận một cách logic, chặt chẽ, thể
hiện được cách nhìn nhận, đánh giá mang tính thuyết phục một vấn đề nào đó về hai
lĩnh vực xã hội và văn học. VBNL có mạch lạc mới đạt được mục đích và thực hiện
được chức năng của nó. Vậy một VBNL mạch lạc là một văn bản như thế nào và
những biểu hiện nào của mạch lạc gắn với đặc trưng thể loại mà khi tiếp nhận hoặc tạo
1


lập VBNL cần chú ý? Đây là câu hỏi mà chúng tôi mong muốn có được câu trả lời khi
chọn đề tài nghiên cứu, bởi vì, theo sự tìm hiểu của chúng tôi, đến nay, chưa có ai đi
sâu vào nghiên cứu mạch lạc trong VBNL (những nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở hai
hoặc ba văn bản hoặc là nghiên cứu riêng về một tác giả nghị luận nào đó). Do đó, việc
tìm hiểu mạch lạc và những biểu hiện của nó gắn với đặc trưng thể loại trong VBNL,
theo chúng tôi, là một việc làm hết sức cần thiết cho những ai quan tâm đến VBNL,
đặc biệt là giáo viên, học sinh và sinh viên.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Mạch lạc trong văn bản nghị
luận tiếng Việt” nhằm góp phần khẳng định vai trò, tầm quan trọng của mạch lạc
trong các loại văn bản nói chung và VBNL nói riêng, đồng thời khẳng định những biểu
hiện “đậm nét” mang tính đặc trưng của mạch lạc trong VBNL, từ đó giúp cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy và tạo lập VBNL trong nhà trường đạt được hiệu quả
như mong muốn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là mạch lạc và
biểu hiện của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt.
2.2. Phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
2.2.1. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án được xác định là mạch lạc và một số biểu hiện
của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt, cụ thể là hai biểu hiện: Mạch lạc trong sự thống
nhất đề tài-chủ đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận. Lí do lựa chọn hai biểu hiện

này của mạch lạc để nghiên cứu trong VBNL được luận án trình bày cụ thể ở mục
1.2.2.3. (Các biểu hiện của mạch lạc).
2.2.2. Phạm vi về nguồn ngữ liệu
Văn bản nghị luận tiếng Việt rất phong phú về kiểu loại, đồ sộ về số lượng, cho
nên để đảm bảo tính đại diện, tính chọn lọc và độ tin cậy, luận án xác định ngữ liệu
nghiên cứu là 326 VBNL được lấy từ các nguồn sau:
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2


7. Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc (2000), tập I + II + III + IV +
V + VI, Đỗ Quang Lưu tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Hà Nội.
8. Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh, (1997), Lữ Huy Nguyên tuyển chọn
và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Văn chính luận - quyển V) (2003), Mai Quốc
Liên - Nguyễn Văn Lưu (chủ biên), Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Xã luận báo Nhân dân, từ số thứ sáu, ngày 18/11/2013 đến số thứ bảy, ngày
13/6/2017.
Sở dĩ luận án chọn ngữ liệu từ các nguồn trên vì một số lí do: thứ nhất, các
VBNL tiếng Việt trong sách giáo khoa là những văn bản tiêu biểu, đã được chọn lọc
theo các giai đoạn từ văn học trung đại đến văn học hiện đại (chỉ chọn những VBNL
hoàn chỉnh); thứ hai, các VBNL xã hội ở các nguồn như Văn học Việt Nam thế kỉ XX
(Văn chính luận - quyển V, Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh là những văn bản
tiêu biểu của Hồ Chí Minh, của một số cây bút nghị luận tiêu biểu đầu thế kỉ XX như

Phan Kế Bính, Nguyễn An Ninh, Phan Khôi, Phạm Quỳnh,...và một số VBNL xã hội
đương thời trên Xã luận báo Nhân dân; thứ ba là các VBNL văn học trong Tập nghiên
cứu và bình luận văn học chọn lọc (bộ 6 tập) là những văn bản được tuyển chọn của
các nhà phê bình văn học nổi tiếng như Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình
Thi, Nguyễn Hoành Khung, Phạm Văn Đồng,... Từ các VBNL chọn lọc, tiêu biểu ở
các nguồn ngữ liệu này, luận án có cơ sở để phân tích, đánh giá về biểu hiện của mạch
lạc mang tính đặc trưng thể loại của VBNL, từ đó giúp cho việc tiếp nhận và tạo lập
loại văn bản này đạt hiệu quả giao tiếp như mong muốn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc khảo sát, thống kê, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
VBNL tiếng Việt, luận án nhằm mục đích làm rõ một số biểu hiện nổi trội của mạch
lạc gắn với đặc trưng thể loại VBNL tiếng Việt, qua đó góp phần khẳng định vai trò
của mạch lạc trong việc tiếp nhận và tạo lập loại văn bản này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu đã được xác định, luận án đặt ra
các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Một là hệ thống lại một cách khái quát những vấn đề lí thuyết liên quan đến nội dung
của đề tài luận án.

3


Hai là khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
sự thống nhất đề tài-chủ đề ở phương diện kết cấu và các phép liên kết ở VBNL tiếng Việt.
Ba là khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
quan hệ lập luận ở phương diện: kiểu lập luận, đặc điểm các thành phần lập luận, tính đa
thanh trong lập luận ở VBNL tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên

cứu là phương pháp phân tích diễn ngôn, phương pháp miêu tả và phương pháp phân
tích ngữ nghĩa.
Phương pháp phân tích diễn ngôn: là phương pháp chủ đạo của luận án. Phương
pháp này nhằm thực hiện việc miêu tả, tìm hiểu và giải thích các biểu hiện mang tính
đặc trưng nổi trội của mạch lạc trong VBNL.
Phương pháp miêu tả: được sử dụng để miêu tả cấu trúc văn bản, các phép liên
kết, các kiểu lập luận, ngôn ngữ lập luận,... trong vai trò thể hiện mạch lạc ở VBNL.
Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: được vận dụng để phân tích nội dung văn
bản, nội dung của lập luận, từ đó có cơ sở đánh giá mạch lạc trong sự thống nhất đề
tài-chủ đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận ở VBNL.
Bên cạnh đó, luận án đã sử dụng một số thủ pháp sau:
Thủ pháp thống kê, phân loại: được vận dụng để thống kê các kiểu cấu trúc của
VBNL các phép liên kết đề tài-chủ đề, các kiểu lập luận,...
Thủ pháp so sánh: được dùng để đối chiếu, so sánh việc sử dụng kiểu cấu trúc,
các phép liên kết tạo mạch lạc và lập luận trong ngữ liệu và trong một số loại văn bản
khác để từ đó đánh giá được mạch lạc trong VBNL.
Thủ pháp phân tích, tổng hợp: được vận dụng để phân tích số liệu, ngữ liệu
từ đó có sơ sở khái quát những biểu hiện nổi bật mang tính đặc trưng của mạch lạc
trong VBNL.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thông qua việc vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào nghiên cứu biểu hiện của mạch
lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề và trong quan hệ lập luận ở VBNL tiếng Việt, luận án
góp phần khẳng định vai trò quan trong của mạch lạc trong văn bản.
Khảo sát, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong quan hệ lập luận qua kết
cấu và các phép liên kết,... ở VBNL và chỉ ra được những điểm nổi bật của mạch lạc trong
loại văn bản này.
4


Khảo sát, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở kiểu

lập luận, đặc điểm các thành phần lập luận, tính đa thanh... ở VBNL và chỉ ra đặc điểm nổi
bật mang tính đặc trưng của mạch lạc ở loại văn bản này.
6. Ý nghĩa và đóng góp của luận án
6.1. Đóng góp về phương diện lí luận
Luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lí luận của ngôn ngữ học văn bản
và lí thuyết phân tích diễn ngôn dựa vào kết quả nghiên cứu về mạch lạc trong VBNL
tiếng Việt, từ đó khẳng định tầm quan trọng của mạch lạc trong việc tạo lập và phân
tích văn bản nói chung và VBNL nói riêng.
6.2. Đóng góp về phương diện thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần chỉ ra một số biểu hiện quan trọng,
nổi bật của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt là mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ
đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận, từ đó mong muốn góp phần vào việc làm cho
quá trình tiếp nhận và tạo lập VBNL đạt hiệu quả giao tiếp tốt nhất.
Luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, phân tích
VBNL về phương diện ngôn ngữ.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Phần tổng quan vấn đề nghiên cứu, luận án hệ thống lại các công trình, quan
điểm nghiên cứu về mạch lạc và mạch lạc trong văn bản nghị luận. Phần cơ sở lí
thuyết, luận án đề cập đến các vấn đề là văn bản và một số vấn đề liên quan, mạch lạc
và văn bản nghị luận.
Chương 2. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị
luận tiếng Việt
Chương này làm nhiệm vụ phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
sự thống nhất đề tài-chủ đề ở ở VBNL trên hai phương diện là kết cấu văn bản và
các phép liên kết.
Chương 3. Mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận Việt
Chương này làm nhiệm vụ phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong

quan hệ lập luận ở VBNL trên các phương diện: kiểu lập luận, đặc điểm của các
thành phần lập luận, tính đa thanh trong lập luận.

5


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về mạch lạc trong văn bản
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trên thế giới
Mạch lạc là vấn đề được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đề cập đến từ giữa thế kỉ
XX. Do sự phức tạp và tính chất “mơ hồ” khó nhận diện nên mạch lạc đã nhận được
sự quan tâm nghiên cứu của không ít nhà ngôn ngữ học.
Trên thế giới, mạch lạc được nghiên cứu trong các công trình của T. Todorov,
V. Dijk, M.A.K. Halliday & R. Hasan, H.G Widdowson, G. Llian Brown & George
Yule, G.M. Green, D. Nunan, … Dưới đây, luận án điểm lại những công trình tiêu
biểu đã đề cập đến mạch lạc ở các phương diện như quan niệm, vai trò và sự thể hiện
của mạch lạc trong văn bản/diễn ngôn.
Trước tiên, phải nói đến cuốn Cohesion in English (Liên kết trong tiếng Anh)
xuất bản năm 1976 của M.A.K. Halliday & R. Hasan. Trong cuốn sách này, mạch lạc
tuy không được nghiên cứu một cách trực tiếp nhưng những kết quả nghiên cứu,
những phát biểu của các tác giả lại khơi gợi cho các nghiên cứu về mạch lạc sau này.
Trong cuốn sách này, mạch lạc đã được phát biểu như sau: “Mạch lạc là tập hợp
những quan hệ có ý nghĩa dùng chung cho mọi văn bản, phân biệt văn bản với phi văn
bản”. Các tác giả nhấn mạnh: “Mạch lạc không nêu văn bản thông báo gì mà nêu văn
bản được tổ chức thành chỉnh thể ngữ nghĩa như thế nào”. Và “…Chất văn bản bao
gồm nhiều hơn, không chỉ là sự có mặt của những quan hệ nghĩa thuộc loại mà chúng
tôi quy về quan hệ liên kết - sự phụ thuộc của yếu tố này vào yếu tố khác để giải thích

được nó. Nó bao gồm một chừng mực nào đó của mạch lạc trong các ý nghĩa được
diễn đạt: không chỉ hoặc không phải chủ yếu là ở nội dung, mà ở sự lựa chọn toàn bộ
các nguồn ý nghĩa của ngôn ngữ đó, bao gồm cả các thành tố liên nhân khác nhau, các
thức, các tình thái, các độ mạnh và những hình thái khác nữa mà người nói nhồi nhét
vào trong các tình huống nói”. Các tác giả M.A.K. Halliday & R. Hasan đã chỉ ra hai
điều kiện để đảm bảo cho một văn bản mạch lạc là văn bản phải phù hợp với ngữ cảnh
và phải có sự liên kết.
Tiếp theo là cuốn Văn bản và ngữ cảnh (Text and Context) xuất bản năm 1977
của T.A. Van Dijk. Trong cuốn sách, tác giả đã dành riêng một chương để viết về
mạch lạc (Chapter 4: Coherence). Trong đó, mạch lạc được quan niệm “là một thuộc
6


tính ngữ nghĩa của diễn ngôn, dựa trên việc giải thích các câu riêng lẻ trong mối tương
quan với các câu khác trong văn bản” [109, tr. 93] . T.A. Van Dijk cho rằng trong mỗi
diễn ngôn chứa một cấu trúc vĩ mô (cấu trúc ngữ nghĩa tổng thể) thể hiện ngữ nghĩa của
diễn ngôn và cấu trúc ngữ nghĩa của một diễn ngôn được tổ chức phân cấp ở nhiều cấp độ
phân tích (cấu trúc vĩ mô của một diễn ngôn chi phối, kéo theo các cấu trúc vĩ mô khác
chi phối toàn bộ diễn ngôn và chính cấu trúc vĩ mô quyết định tính mạch lạc tổng thể của
một diễn ngôn). Bên cạnh đó, các yếu tố như thứ tự thực tế và thứ tự trình tự, nghĩa tường
minh và nghĩa hàm ẩn, chủ đề, bình luận,.. và vai trò của chúng trong diễn ngôn cũng là
những yếu tố quan trọng cần chú ý khi phân tích mạch lạc trong diễn ngôn.
Năm 1981, I. R. Gal'perin viết Văn bản với tư cách là đối tượng nghiên cứu của
ngôn ngữ học (Bản dịch tiếng Việt của Hoàng Lộc năm 1987). Trong cuốn sách này,
tác giả quan niệm: “Mạch lạc là những hình thức liên kết riêng biệt đảm bảo thể liên
tục (về thời gian hoặc không gian), sự lệ thuộc lẫn nhau giữa các thông báo, sự kiện,
hành động cụ thể” [31, tr.148]. I. R. Gal'perin còn khẳng định mạch lạc chính là đặc
trưng của văn bản, là những hình thức liên kết ngữ pháp, ngữ nghĩa, từ vựng giữa
những phần cụ thể của văn bản định ra bước chuyển tiếp từ cách phân chia biến thể
ngữ cảnh này sang cách phân chia khác.

Năm 1983, trong Phân tích diễn ngôn (Bản dịch tiếng Việt của Trần Thuần,
2002), Gillian Brown & George Yulle đã dành hẳn một chương (chương 7: Tính mạch
lạc trong việc giải thuyết diễn ngôn) để nghiên cứu về mạch lạc. Các tác giả đã nhận
định: “Giả định về tính mạch lạc sẽ chỉ tạo ra một giải thuyết nhất định trong đó các
yếu tố của thông điệp được xem như nối kết với nhau, có hoặc không có các nối kết
ngôn ngữ công khai giữa các yếu tố ấy. (…) Cái quan trọng nhất trong số đó là nỗ lực
của người đọc (hay người nghe) nhằm đạt đến ý định giao tiếp của người viết hay
người nói khi tạo ra một thông điệp ngôn ngữ.” [10, tr. 348]. Các nhà nghiên cứu này
cho rằng người tiếp nhận muốn giải thuyết ý định giao tiếp của người viết phải dựa
vào mạch lạc, nguyên lý loại suy, giải thuyết cục bộ, các đặc điểm chung của ngữ
cảnh, các quy tắc kết cấu diễn ngôn và các đặc điểm theo quy tắc của tổ chức kết cấu
thông tin. Gillian Brown & George Yulle cũng đã phân định ba bình diện của tiến trình
giải thuyết ý nghĩa theo dự định của người nói/ người viết khi tạo ra diễn ngôn, bao
gồm “giải thuật chức năng giao tiếp (tiếp nhận thông điệp như thế nào), sử dụng kiến
thức văn hóa xã hội nói chung (sự kiện về thế giới) và xác định luận suy nào cần phải
thực hiện” [10, tr. 349]. Như vậy mạch lạc là yếu tố quan trọng, phải được xem xét đến
trong quá trình tiếp nhận, phân tích diễn ngôn (giải thuyết diễn ngôn).
7


Năm 1993, cuốn Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của D. Nunan được xuất bản
(Bản dịch tiếng Việt của Hồ Mĩ Huyền và Trúc Thanh, 1997). Trong cuốn sách này, D.
Nunan khẳng định: “Mạch lạc (coherence) là cái tầm rộng mà ở đó các lời nói được
tiếp nhận là có mắc vào nhau chứ không phải là một tập hợp câu nói không có liên
quan với nhau”. Cách hiểu này về mạch lạc của Nunan được Diệp Quang Ban cho là
cách phát biểu dung dị và bao quát về mạch lạc, được sử dụng phổ biến trong nhà
trường bởi tính chất tiện dụng của nó. D. Nunan đã phân biệt văn bản mạch lạc với
chuỗi câu ngẫu nhiên, tình cờ đứng cạnh nhau có sử dụng phương tiện liên kết hình
thức. Theo Nunan, đối với văn bản, cần phải xác định được sự liên kết giữa các câu
ngoài việc hiểu biết về ngữ pháp và từ vựng của văn bản. Một văn bản mạch lạc phụ

thuộc phần lớn vào phương tiện tạo văn bản cách sắp xếp trật tự câu và sử dụng từ
ngữ. Và ngữ cảnh là yếu tố quan trọng trong việc giải thích mạch lạc khi coi diễn ngôn
là “giao tiếp trong ngữ cảnh”.
Có thể nói khái quát rằng, các công trình tiêu biểu nói trên của một số nhà ngôn
ngữ học nước ngoài, mạch lạc được đề cập một cách gián tiếp hoặc trực tiếp thông qua
việc nghiên cứu về liên kết, về cấu trúc, khung truyện, về nội dung ngữ nghĩa văn bản
và các thành tố liên quan đến tình huống nói, về khả năng dung hợp nhau giữa các
hành động nói… Tuy không phải là những công trình nghiên cứu riêng biệt về mạch
lạc song đây là những cuốn sách thể hiện quan điểm của các tác giả về vai trò và các
biểu hiện của mạch lạc trong văn bản/diễn ngôn. Điểm đồng nhất giữa các nhà nghiên
cứu là đều khẳng định vai trò quan trọng, tính chất quyết định của mạch lạc trong việc
làm cho một chuỗi câu thành một thể thống nhất - văn bản. Có thể nói, những công
trình nghiên cứu trên đây là cơ sở lí thuyết quan trọng, tin cậy cho các thế hệ sau tiếp
tục làm sáng rõ hơn về vấn đề được coi là mơ hồ, khó nhận diện - mạch lạc.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, mạch lạc được nghiên cứu muộn hơn. Có thể xem công trình đầu
tiên nghiên cứu về mạch lạc ra đời năm 1985 là Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt
của Trần Ngọc Thêm. Trong công trình này, ở cấp độ phân tích văn bản, Trần Ngọc
Thêm nghiên cứu và chỉ ra vai trò của liên kết và hệ thống liên kết trong văn bản tiếng
Việt, trong đó liên kết nội dung được đề cập chi tiết trong việc phân tích biểu hiện ở
liên kết chủ đề và liên kết logic. Tuy không đề cập và gọi tên một cách trực tiếp nhưng
có thể coi liên kết nội dung trong công trình này là biểu hiện cho tính mạch lạc của văn
bản. Đây cũng là hướng đề cập đến tính mạch lạc của văn bản thông qua liên kết nội
dung của tác giả Đỗ Hữu Châu (1996) trong [14] và [17].
8


Trong các nghiên cứu về mạch lạc, không thể không kể đến các công trình của
tác giả Diệp Quang Ban. Đây là nhà nghiên cứu có nhiều công trình đề cập đến mạch
lạc nhất. Năm 1998, trong [6], mạch lạc được gọi tên và nghiên cứu khá cụ thể từ khái

niệm đến phạm vi biểu hiện của nó dựa trên các kết quả nghiên cứu của các nhà ngôn
ngữ học khác trên thế giới. Các phạm vi biểu hiện của mạch lạc trong công trình là:
mạch lạc trong triển khai mệnh đề, mạch lạc trong chức năng và mạch lạc theo nguyên
tắc cộng tác. Trong các công trình tiếp theo [5], [6], [8], mạch lạc tiếp tục được Diệp
Quang Ban nghiên cứu, bổ sung, nhấn mạnh về vai trò và biểu hiện của nó trong quá
trình tạo lập văn bản. Mạch lạc được tác giả khẳng định là cái làm cho văn bản là một
văn bản. Qua các công trình nói trên của Diệp Quang Ban, mạch lạc được trình bày rõ
ràng, chi tiết từ khái niệm đến các biểu hiện của nó trong văn bản, đồng thời mạch lạc
cũng được phân biệt với liên kết hình thức. Mạch lạc đã được Diệp Quang Ban định
nghĩa như sau: Mạch lạc là sự nối kết có tính chất hợp lí về mặt nghĩa và về mặt chức
năng, được trình bày trong quá trình triển khai một văn bản (như một truyện kể, một
cuộc thoại, một bài nói hay bài viết…) nhằm tạo ra những sự kiện nối kết với nhau
hơn là sự kiện liên kết câu với câu [8, tr. 297]. Diệp Quang Ban cũng đã chỉ ra 8 biểu
hiện của mạch lạc để người đọc có thể nắm bắt được một cách thuận lợi hơn vấn đề
vốn được xem là có ngoại diên rất rộng và mơ hồ này. Diệp Quang Ban cũng đã công
bố kết quả nghiên cứu về của mạch lạc trên một số tạp chí chuyên ngành như các bài
[4], [7]. Có thể nói, những kết quả nghiên cứu của Diệp Quang Ban về mạch lạc được
vận dụng rộng rãi vào việc tiếp nhận và tạo lập văn bản (diễn ngôn).
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến mạch lạc như [22]
(1998) của Nguyễn Đức Dân, [33] (2000), [34] (2008) và [36] (2016) của Nguyễn
Thiện Giáp, [85] (2001) của Nguyễn Thị Việt Thanh, [50] (2002) của Nguyễn Hoà.
Trong các công trình nghiên cứu này, mạch lạc được các nhà nghiên cứu tiếp tục
khẳng định vai trò và cách thể hiện, nhận diện nó trong văn bản.
Trong [33] và [34] và [36], Nguyễn Thiện Giáp đề cập đến vai trò quan trọng
của mạch lạc trong văn bản. Ông khẳng định: Cái quyết định để một sản phẩm ngôn
ngữ trở thành một diễn ngôn hay văn bản chính là mạch lạc. Một diễn ngôn hoặc một
văn bản gồm các câu có quan hệ về nghĩa với nhau, cùng hướng vào một chủ đề nhất
định là một diễn ngôn hoặc một văn bản có mạch lạc [36, tr.270].
Năm 2002, trong [50], Nguyễn Hoà cho rằng trong phân tích diễn ngôn, cần
phải phân tích những tính chất của diễn ngôn như tính giao tiếp, tính tương thích, tính

mạch lạc và tính quan yếu. Nguyễn Hoà khẳng định mạch lạc là vấn đề cốt yếu của lí
9


luận phân tích diễn ngôn. Theo tác giả, những phương thức chính tạo mạch lạc trong
diễn ngôn là mạch lạc trong liên kết, mạch lạc trong cấu trúc và mạch lạc trong quan
yếu. Vấn đề này được giải thích như sau: trong một diễn ngôn, nếu thiếu liên kết hình
thức thì sự nối kết về mặt nghĩa và về mặt chức năng giữa các câu trong văn bản sẽ mờ
nhạt, không rõ ràng, chặt chẽ; nếu giữa các câu thiếu sự tổ chức chặt chẽ, logic thì diễn
ngôn sẽ trở nên lộn xộn, mất đi tính mạch lạc; nếu thiếu yếu tố quan yếu thì cấu trúc
quan yếu lỏng lẻo và diễn ngôn sẽ thiếu tính mạch lạc. Để chứng minh cho vấn đề lí
luận và phương pháp của mình, Nguyễn Hoà đã vận dụng lý thuyết phân tích diễn
ngôn, trong đó có mạch lạc để phân tích cụ thể một số thể loại diễn ngôn trong tiếng
Anh và tiếng Việt.
Có thể nói, mạch lạc đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong và ngoài
nước quan tâm và đã có những kết quả nghiên cứu về các mặt của mạch lạc từ khái
niệm đến vai trò và biểu hiện của nó trong văn bản. Điều này càng chứng tỏ vai trò của
mạch lạc trong nghiên cứu ngôn ngữ, trong tạo lập và phân tích văn bản/diễn ngôn.
Những nghiên cứu về mạch lạc nói trên là cơ sở lí thuyết quan trọng để chúng tôi vận
dụng vào đề tài nghiên cứu.
Mạch lạc tuy là yếu tố khá mơ hồ, khó nhận diện nhưng lại có vai trò quan
trọng đối với văn bản/diễn ngôn. Vì thế, ở trong nước, đã có những luận văn tốt
nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào việc nghiên
cứu, phân tích văn bản. Đồng thời, việc vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào việc
nghiên cứu các đề tài cụ thể cũng làm cho mạch lạc được biểu hiện rõ ràng, sâu sắc
hơn, khẳng định được vai trò của nó trong văn bản.
Nghiên cứu về mạch lạc được các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ vận dụng
nghiên cứu ở các thể loại văn bản nghệ thuật, văn bản hành chính, văn bản báo chí,…
Các đề tài nghiên cứu thường tìm hiểu mạch lạc trong một loại văn bản/một văn bản
cụ thể nào đó (phóng sự, truyện ngắn, kịch,…); hoặc đi sâu vào nghiên cứu những biểu

hiện tiêu biểu của mạch lạc trong văn bản của một tác giả cụ thể (quan hệ nguyên nhân
trong truyện ngắn Nam Cao, theo ngữ pháp truyện một số truyện ngắn trào phúng của
Nguyễn Công Hoan, …), từ đó khẳng định vai trò quan trọng của mạch lạc trong việc tạo
lập và phân tích diễn ngôn.
Trong việc vận dụng lí thuyết mạch lạc vào nghiên cứu thuộc mảng này, đáng
chú ý là luận án tiến sĩ của Trần Thị Vân Anh [3], Nguyễn Thị Hường [58], Phan Thị
Ai [1] và Nguyễn Hương Giang [32].

10


Luận án [3] Mạch lạc trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du tìm hiểu tính hệ
thống trong mạch lạc của truyện, do đó, mạch lạc được tập trung nghiên cứu ở một số
tuyến mạch lạc trong truyện (tuyến quan hệ nguyên nhân, tuyến quan hệ thời gian)
nhằm làm sáng tỏ bố cục và triển khai truyện với tư cách là tài tổ chức truyện kể. Kết
quả nghiên cứu của luận án đã khẳng định vai trò của mạch lạc đối với việc tạo lập và
giải mã nội dung truyện, qua đó, tác giả luận án đã đề xuất một số cách khai thác và
ứng dụng lí thuyết về mạch lạc như là một bộ phận của phân tích diễn ngôn vào việc
tiếp nhận văn bản.
Luận án [58] (2010) của Nguyễn Thị Hường đi sâu vào khảo sát và phân tích biểu
hiện mang tính đặc thù của mạch lạc trong văn bản hành chính ở hai tiểu loại là báo cáo
và tờ trình qua một số loại quan hệ: quan hệ nguyên nhân - hệ quả trong văn bản báo cáo,
quan hệ lập luận trong văn bản tờ trình. Tác giả luận án đã chỉ ra được lỗi thường gặp về
mạch lạc và đề xuất một số giải pháp khắc phục khiếm khuyết về mạch lạc khi soạn thảo
các loại văn bản này. Những kết quả nghiên cứu trong luận án của Nguyễn Thị Hường
góp phần quan trọng trong việc quy phạm hóa văn bản báo cáo và tờ trình.
Trong luận án [1], Nguyễn Thị Ai đã trình bày một cách có hệ thống những vấn
đề về mạch lạc trong bài làm văn của học sinh, các lỗi về mạch lạc ở các đơn vị câu,
đoạn văn, văn bản và bước đầu xác định những yếu tố tạo mạch lạc cho văn bản tập
làm văn của học sinh phổ thông. Những kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham

khảo hữu ích cho giáo viên và học sinh trong việc dạy và học tốt phân môn Tập làm
văn trong nhà trường.
Năm 2017, trong [32], Nguyễn Hương Giang đã hệ thống hóa được lí thuyết về
mạch lạc của các nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước, từ đó vận dụng vào việc nghiên
cứu mạch lạc qua các phép liên kết và qua các mối quan hệ trong văn bản như: quan hệ
giữa các từ ngữ trong một câu, quan hệ về chủ đề giữa các câu, quan hệ thời gian, quan
hệ lập luận, quan hệ nhân quả, quan hệ điều kiện và quan hệ ngoại chiếu. Luận án
khẳng định: do đặc điểm diễn ngôn của thể loại văn bản hợp đồng kinh tế đòi hỏi tính
chính xác, rõ ràng nên mạch lạc tuy được thể hiện qua tất cả các phép liên kết nhưng tần
suất xuất hiện nhiều nhất là phép lặp, phép nối và phép thế (đối chiếu văn bản tiếng Anh
và tiếng Việt). Trong văn bản hợp đồng kinh tế tiếng Anh và tiếng Việt, các mối quan hệ
tạo mạch lạc có điểm giống và khác nhau, đặc biệt như: mạch lạc trong quan hệ ngoại
chiếu được thể hiện ở những vị trí khác nhau trong văn bản, mạch lạc qua quan hệ lập
luận không được thể hiện trong văn bản tiếng Anh nhưng lại được thể hiện trong văn bản
tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng rõ hơn phương diện lí
11


thuyết về mạch lạc trong văn bản hợp đồng kinh tế tiếng Anh và tiếng Việt, đặc biệt nhằm
ứng dụng vào thực tiễn soạn thảo và biên dịch các hợp đồng kinh tế.
Có thể nói, mạch lạc trong văn bản được rất nhiều người nghiên cứu quan tâm,
dù là chuyên sâu hay chỉ là một phần trong công trình nghiên cứu. Điều này đã chứng
tỏ vai trò quan trọng của mạch lạc trong văn bản.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trong văn bản nghị luận
Ngoài việc được vận dụng nghiên cứu, tìm hiểu trong các loại văn bản nghệ
thuật, báo chí, hành chính (đã đề cập đến ở mục 1.1.1.2), mạch lạc cũng đã được xem
xét, nghiên cứu trong VBNL. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy việc nghiên cứu mạch lạc
trong VBNL được triển khai trong các đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ và luận án
tiến sĩ.
Các đề tài thạc sĩ chủ yếu tập trung nghiên cứu biểu hiện của mạch lạc qua quan

hệ lập luận. Các đề tài luận văn thạc sĩ của Trương Công Nghị (2006): Mạch lạc theo
quan hệ lập luận trong một số văn bản chính luận, của Nguyễn Mai Lan (2009): Mạch
lạc theo quan hệ lập luận qua ba văn bản “Tái dụ Vương Thông”, “Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia”, “Một thời đại trong thi ca”, của Nguyễn Anh Tuấn (2010): Khảo
sát mạch lạc theo quan hệ lập luận qua ba văn bản “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ”
và “Đại cáo bình ngô”, của Phạm Thị Huệ (2011): Mạch lạc theo quan hệ lập luận
qua ba văn bản chính luận của Trường Chinh, của Vũ Như Nguyệt (2011): Mạch lạc
theo quan hệ lập luận qua hai văn bản: “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Phạm
Văn Đồng), “Tiếng Việt – một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc” (Đặng Thai
Mai),... đều nghiên cứu mạch lạc trong quan hệ lập luận ở 2 hoặc 3 VBNL cụ thể nào
đó theo hướng phân tích cấu trúc nội dung và cấu trúc lập luận của toàn văn bản. Các
đề tài nghiên cứu đều nhận định rằng trong các VBNL, lập luận là một biểu hiện rõ rệt
của mạch lạc và có vai trò vô cùng quan trọng trong loại văn bản này. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, việc tìm hiểu mạch lạc theo hướng này chỉ phù hợp với đề tài có số lượng
văn bản khiêm tốn (2 hoặc 3 văn bản).
Trong một số luận án tiến sĩ, mạch lạc được xem xét là một bộ phận trong việc
vận dụng lí thuyết phân tích diễn ngôn vào nghiên cứu VBNL. Đề tài "Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục" từ cách tiếp cận của phân tích diễn ngôn (2016) của Dương Thị
Bích Hạnh đề cập đến mạch lạc với tư cách là một vấn đề quan trọng của phân tích
diễn ngôn cùng với đặc trưng về trường và không khí. Theo đó, mạch lạc được nghiên
cứu tập trung qua quan hệ liên kết và quan hệ lập luận.

12


Những nội dung và kết quả nghiên cứu về mạch lạc nói chung và mạch lạc
trong một số VBNL nói riêng giúp chúng tôi có một cái nhìn hệ thống, toàn diện về
mạch lạc, đặc biệt là vai trò của nó trong văn bản, đồng thời gợi mở việc xác định
những nội dung nghiên cứu về mạch lạc trong luận án này.
1.2. Cơ sở lí thuyết
Để phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án đã xác định những

cơ sở lí thuyết cơ bản là văn bản, mạch lạc và văn bản nghị luận.
1.2.1. Văn bản và một số vấn đề liên quan
1.2.1.1. Văn bản và diễn ngôn. Phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn
a. Văn bản và diễn ngôn
Hiện nay, trong ngôn ngữ học tồn tại hai thuật ngữ văn bản và diễn ngôn. Vậy
văn bản và diễn ngôn được hiểu và sử dụng như thế nào? Trước hết, có thể thấy hai
thuật ngữ này được sử dụng khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể.
"Ở giai đoạn đầu, do trọng tâm nghiên cứu tập trung ở sản phẩm ngôn ngữ bằng
chữ viết nên tên gọi văn bản được dùng đại diện để chỉ chung những sự kiện nói viết
và sự kiện nói miệng có mạch lạc và liên kết.
Ở giai đoạn thứ hai, do ngôn ngữ nói được quan tâm nhiều hơn nên hai tên gọi
diễn ngôn và văn bản được sử dụng song song, văn bản được dùng để chỉ sản phẩm
ngôn ngữ bằng chữ viết còn diễn ngôn chỉ sản phẩm ngôn ngữ nói miệng. Giai đoạn
này phân biệt rõ hai tên gọi diễn ngôn và văn bản.
Ở giai đoạn hiện nay, tên gọi diễn ngôn được dùng để chỉ chung cả sản phẩm
ngôn ngữ bằng chữ viết và sản phẩm ngôn ngữ nói như tên gọi văn bản ở giai đoạn
đầu, có nghĩa thuật ngữ diễn ngôn đã bao hàm cả văn bản. Điều này ngụ ý rằng sự kiện
nói miệng là cái có tính nguyên cấp." [8, tr.199]
Các nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ văn bản hay diễn ngôn tuỳ theo quan
điểm. Có nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong quá trình nghiên cứu không nhắc đến tên
“văn bản”, có người lại không nhắc đến tên “diễn ngôn”. Có nhà nghiên cứu hiểu và
sử dụng thuật ngữ văn bản như diễn ngôn, chẳng hạn, Halliday và Hasan cho rằng văn
bản có thể là bất kỳ đoạn văn nào, viết hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một chỉnh thể
thống nhất hoàn chỉnh... Rồi Văn bản là một đơn vị ngôn ngữ hành chức. Cách hiểu
này về văn bản của Halliday và Hasan theo cách hiểu văn bản ở giai đoạn đầu.
Trong [8], Diệp Quang Ban đã dành hẳn một chương (chương 5) để bàn về văn
bản và các đặc trưng của văn bản. Ở chương này, trong mục 5.1, Diệp Quang Ban
thông qua việc tìm hiểu tên gọi diễn ngôn và văn bản trong lịch sử phân tích đơn vị
13



trên câu của các nhà ngôn ngữ trên thế giới đã phân biệt văn bản và diễn ngôn. Theo
Diệp Quang Ban, nhiều nhà nghiên cứu cố gắng phân biệt văn bản và diễn ngôn như
Barthes (1970), Ballert (1971), Cook (1989), Crystal (1992). Ballert (1971) quan niệm
tên gọi “diễn ngôn” bao gồm cả văn bản. Cook (1989) phân biệt: văn bản là bề mặt từ
ngữ, chưa tính đến ngữ cảnh và mục đích người sử dụng như ở diễn ngôn. Crystal
(1992) cho rằng: diễn ngôn là một chuỗi ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) liên tục
lớn hơn câu, thường tạo nên một đơn vị có mạch lạc, như bài truyền giáo, một lý lẽ,
một câu chuyện tiếu lâm hay một câu chuyện kể, còn văn bản là một đoạn diễn ngôn
nói hay viết, hoặc thể hiện ở dạng kí hiệu sử dụng tự nhiên, được xác định để phân
tích, thường là một đơn vị ngôn ngữ có một chức năng giao tiếp có thể xác định được
như một cuộc thoại hay tấm áp phích;... Cũng theo Diệp Quang Ban, khi định nghĩa về
văn bản/ diễn ngôn, nổi lên một cách định nghĩa khá đặc biệt là đối chiếu văn bản/diễn
ngôn như là hai thể trạng: một thể trạng trong hoạt động và một thể trạng tĩnh tại. Đó
là Hjelmsler (1953), Hausenblas (1966): diễn ngôn có thể hiểu hoặc như quá trình,
hoặc như kết quả; Brown và Yule (1983): diễn ngôn là quá trình, văn bản là sản phẩm;
Halliday (1985 và 1995): lấy quá trình (ngôn ngữ nói) làm xuất phát điểm và văn bản
viết là sản phẩm; Lyons (1995): diễn ngôn có dạng nói và dạng viết, cả hai dạng này
đều có ý-sản phẩm và ý-quá trình, văn bản là ý - sản phẩm của diễn ngôn viết, có
nghĩa là diễn ngôn bao hàm văn bản [8, tr 202-209]. Nhiều nhà phân tích diễn ngôn
sau này chủ yếu theo quan điểm của Brown & Yule (1983) và Lyons (1995) trong việc
phân biệt văn bản với diễn ngôn nhưng văn bản được hiểu giản dị hơn: “mặt từ ngữ
trong” trong tài liệu ngôn ngữ, và từ ngữ đó có thể được diễn đạt bằng chữ viết hoặc
bằng âm thanh. Ưu thế của cách hiểu như vậy trước hết là phân biệt được sự phân tích
diễn ngôn (nghĩa-logic và chức năng) với sự phân tích văn bản (từ ngữ với các nội
dung gắn liền với chúng) như là hai diện khác nhau tồn tại trong một tài liệu ngôn
ngữ; sau nữa là tránh được việc coi văn bản và diễn ngôn như là hai thực thể tách rời
khỏi nhau mà trên thực tế không bao giờ có thể phân biệt được với nhau [8, tr. 210].
Như vậy, cách hiểu, tên gọi, sự phân biệt và cách dùng hai thuật ngữ văn bản và
diễn ngôn của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã trải qua một quá trình khá dài, đến giai

đoạn hiện nay đã đạt đến sự phân biệt rõ ràng: văn bản - bề mặt từ ngữ và diễn ngôn ngữ cảnh tình huống. Nguyễn Hoà [50] cho rằng sự phân biệt văn bản và diễn ngôn chỉ
là tương đối bởi trong thực tế rất khó phân biệt rạch ròi diễn ngôn và văn bản vì trong
văn bản sẽ có cái diễn ngôn và trong diễn ngôn sẽ có cái văn bản. Diễn ngôn và văn
bản không phải là hai thực thể tách biệt mà chỉ là một thực thể biểu hiện của ngôn ngữ
14


hành chức trong bối cảnh giao tiếp xã hội, do đó, việc sử dụng hai khái niệm này để
thay thế cho nhau mà thực sự không có sự phân biệt rạch ròi là điều dễ hiểu.
Từ những quan điểm nói trên, có thể hiểu diễn ngôn là thuật ngữ chỉ sự kiện
giao tiếp (nói hoặc viết) có mục đích, thống nhất, có mạch lạc được ghi lại bằng văn
bản. Cách hiểu này cho thấy rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa văn bản và diễn ngôn.
Trong luận án, chúng tôi sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ các sự kiện nói và
viết được ghi lại bằng chữ viết, như tên gọi của văn bản ở giai đoạn đầu và theo thói
quen hiện nay ở Việt Nam.
Trong [8], Diệp Quang Ban đã hệ thống lại các quan niệm về văn bản của các
nhà nghiên cứu như Hjelmslevf (1953), Nikolaeva, Loseva,... M.A.K Halliday và R.
Hasan (1976), cho rằng: Một văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng. Nó
không phải là một đơn vị ngữ pháp loại như một mệnh đề hay một câu mà nó cũng
không được xác định bằng kích cỡ của nó. [Dẫn theo 8, 194-197]. Ở Việt Nam, văn
bản được Trần Ngọc Thêm quan niệm: Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ
thống mà trong đó các câu nói mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong
hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và
những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn
văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy [91, tr.
19]. Đỗ Hữu Châu định nghĩa: Văn bản là một thể hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn
về nội dung, thống nhất về cấu trúc và độc lập về giao tiếp, là một biến thể dạng viết
liên tục của ngôn bản, thực hiện một hoặc một số đích nhất định, nhằm vào những
người giao tiếp nhất định thường là không có mặt khi văn bản được sản sinh [14,
tr.10]

Trong luận án, sau khi tham khảo các quan điểm khác nhau, chúng tôi đưa ra
định nghĩa về văn bản như sau: Văn bản là sản phẩm giao tiếp bằng ngôn ngữ được
ghi lại bằng chữ viết, có cấu trúc hoàn chỉnh và truyền tải một nội dung ngữ nghĩa
trọn vẹn.
b. Phân tích diễn ngôn và phân tích văn bản
Việc phân biệt văn bản với diễn ngôn của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ như đã
trình bày trên cũng nhằm mục đích tìm ra cách tiếp cận phương pháp luận tối ưu đối
với văn bản và diễn ngôn.
Theo Diệp Quang ban (2009), khi nói đến phân tích văn bản và phân tích diễn
ngôn cũng là đề cập đến hai giai đoạn hiểu, phân biệt và sử dụng hai thuật ngữ văn bản và
diễn ngôn.
15


Giai đoạn đầu, văn bản được hiểu như câu (dĩ nhiên lớn hơn câu) cho nên người
nghiên cứu sử dụng các phương pháp cũng như các công cụ lý thuyết của câu theo quan
điểm cấu trúc hình thức vào việc nghiên cứu văn bản và diễn ngôn, mặc dù tên gọi phân
tích diễn ngôn đã xuất hiện. Đây chính là giai đoạn xuất hiện các tên gọi: “cú pháp văn
bản”, “ngữ pháp văn bản”, “ngữ pháp liên câu”, “chỉnh thể cú pháp trên câu”.
Giai đoạn sau, văn bản được hiểu như đơn vị của nghĩa không phải là đơn vị
của ngữ pháp nên tên gọi diễn ngôn được sử dụng nhiều hơn và “phân tích diễn ngôn”
được chọn thay thế cho “ngữ pháp văn bản”. Thuật ngữ “văn bản” vẫn được dùng khi
phân tích bề mặt từ ngữ của sự kiện nói trong phân tích diễn ngôn. Việc giải thích các
từ ngữ bằng mối quan hệ của chúng với tình huống vật lý và xã hội bên ngoài văn bản
và ý định của người phát thuộc về diễn ngôn và là một phần quan trọng trong phân tích
diễn ngôn.
Trong quá trình hình thành tên gọi và xác định đối tượng, phương pháp tiếp cận
của “phân tích văn bản” và “phân tích diễn ngôn”, đáng chú ý là quan điểm của Brown
và Yule (1983), Guy Cook (1989) và Lyons (1995) về cách hiểu văn bản (mặt từ ngữ
lý giải được có thể được diễn đạt bằng chữ viết hoặc âm thanh của một tài liệu ngôn

ngữ) và diễn ngôn (nghĩa-logic và chức năng gắn liền với ngữ cảnh). Nunan phân biệt:
phân tích văn bản là xem xét các đặc điểm hình thức của văn bản tách rời ngữ cảnh
ngoài ngôn ngữ; phân tích diễn ngôn quan tâm tới mặt chức năng. Cách hiểu nói trên
của các nhà nghiên cứu đã phân biệt được phân tích văn bản (tìm hiểu, phân tích từ
ngữ với các nội dung gắn liền với chúng - văn bản là ý-sản phẩm) và phân tích diễn
ngôn (nghĩa-logic và chức năng: giải thích các từ ngữ đặt trong mối quan hệ với tình
huống vật lí, xã hội ngoài văn bản, mục đích của người phát - diễn ngôn là ý-quá trình,
tức là phải phân tích ngôn ngữ hành chức). Như vậy, phân tích văn bản cũng là một bộ
phận trong phân tích diễn ngôn.
Nguyễn Hoà (2002) cũng theo quan điểm của Nunan cho rằng phân tích văn
bản có thể đối lập với phân tích diễn ngôn. Tuy nhiên, Nguyễn Hoà cũng thấy rằng
khó có thể có sự phân tích hình thức thuần tuý tách ra khỏi chức năng và ngược lại,
nghĩa là khó có thể tách biệt phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn. Bởi, cũng
giống như mối quan hệ giữa diễn ngôn và văn bản, phân tích diễn ngôn và phân tích
văn bản không phải là hai bộ phận khác biệt, mà chỉ là hai mặt của ngôn ngữ hành
chức trong hoàn cảnh giao tiếp xã hội. [50, tr.34]. Theo đó, phân tích văn bản sẽ bao
gồm các yếu tố như liên kết, cấu trúc đề -thuyết, cấu trúc thông tin, kiểu loại diễn

16


ngôn; còn phân tích diễn ngôn sẽ bao gồm mạch lạc, các hành động nói, sử dụng kiến
thức nền trong quá trình sản sinh và hiểu diễn ngôn, cách xử lý từ trên xuống,…
Như vậy, qua hai giai đoạn của phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn, qua
quan điểm của các nhà nghiên cứu thì có thể thấy phân tích văn bản và phân tích diễn
ngôn có những điểm rõ ràng cần phân biệt. Nếu như phân tích văn bản chỉ phân tích bề
mặt từ ngữ tách rời ngữ cảnh (hình thức ngôn ngữ) thì phân tích diễn ngôn lại nhằm
làm nổi bật mối quan hệ giữa từ ngữ trong văn bản với những yếu tố ngoài văn bản
(mặt sử dụng của từ ngữ). Ở đây, do cách sử dụng thuật ngữ “văn bản” ở giai đoạn đầu
và theo thói quen ở Việt Nam nên mạch lạc mà chúng tôi nghiên cứu trong VBNL sẽ

thuộc về vấn đề cốt yếu của phân tích diễn ngôn.
1.2.1.2. Đặc trưng của văn bản
Cùng với việc đưa ra quan niệm về văn bản, các nhà nghiên cứu cũng đồng thời
chỉ ra những đặc trưng của văn bản - cái quyết định tính chất "là một văn bản" của văn
bản. Diệp Quang Ban đã hệ thống lại quan niệm của một số nhà nghiên cứu trên thế
giới như K. Hausenblas (1966), H. Isenberg 91974), M.A.K. Halliday và R. Hasan
(1994) về đặc trưng của văn bản trong [6]. Đáng chú ý là quan niệm về đặc trưng văn
bản của M.A.K. Halliday và R. Hasan. Hai nhà nghiên cứu cho rằng yếu tố làm nên
"chất văn bản" của một văn bản là phương diện nội tại (với hai thành tố liên kết và cấu
trúc văn bản nội tại) và phương diện ngoại tại (chính là "cấu trúc vĩ mô" của diễn ngôn
làm cho một văn bản thuộc về một loại riêng như hội thoại, truyện kể, trữ tình hay thư
tín,...) [6, tr 64-65]. Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu như Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh
Toán, Lê A, Diệp Quang Ban,... cũng đề cập đến đặc trưng của văn bản và đều chỉ ra
đặc trưng ở các phương diện cụ thể dễ nhận biết, xác định là đặc trưng về nội dung, về
hình thức, về liên kết và về lượng. Trong rất nhiều công trình nghiên cứu của mình về
văn bản, Diệp Quang Ban đều đề cập đến đặc trưng văn bản. Theo ông, văn bản có sáu
đặc trưng như sau:
Một là mục đích sử dụng văn bản. Mục đích sử dụng văn bản là mục tiêu hướng
tới của văn bản, trả lời cho câu hỏi: văn bản viết nhằm để làm gì? Mục đích của văn
bản có quan hệ với đề tài-chủ đề, lĩnh vực phản ánh, phương tiện truyền tải và chi phối
cách cấu tạo, tổ chức văn bản theo một cách thức nhất định (phong cách chức năng).
Hai là yếu tố nội dung. Yếu tố này thể hiện ở chỗ văn bản có đề tài - chủ đề xác
định, thống nhất, giúp phân biệt nó với chuỗi câu không phải là văn bản.
17


Ba là yếu tố cấu trúc. Yếu tố cấu trúc thể hiện ở cách tổ chức nội dung và hình
thức phù hợp với phong cách chức năng, thể loại và phương tiện truyền tải.
Bốn là mạch lạc và liên kết. Mạch lạc là yếu tố quyết định việc tạo thành văn
bản, trong đó nổi rõ lên việc tạo thành tính thống nhất đề tài-chủ đề văn bản. Mạch lạc

có thể sử dụng các phương tiện liên kết, giúp cho các quan hệ ngữ nghĩa trong văn bản
được thống nhất, mạch lạc, tường minh.
Năm là yếu tố chỉ lượng. Văn bản thường có nhiều câu-phát ngôn, cũng có
trường hợp văn bản chỉ có một câu.
Sáu là yếu tố định biên. Văn bản có biên giới đầu vào (phía trái) và biên giới
đầu ra (bên phải), tạo nên tính trọn vẹn tương đối cho văn bản.
Trong quá trình tìm hiểu, phân tích đặc trưng văn bản của các nhà nghiên cứu,
chúng tôi cho rằng quan niệm của Diệp Quang Ban về đặc trưng của văn bản là dễ tiếp
cận hơn cả. Sáu đặc trưng trên của văn bản giúp chúng ta xem xét, phân tích một cách
cụ thể, đa diện để xác định được một chuỗi câu nào đó có phải là văn bản hay không,
trong đó, yếu tố mạch lạc (đặc trưng thứ tư) được coi là đặc trưng quan trọng, quyết
định chất văn bản của một văn bản.
1.2.1.3. Đề tài-chủ đề và kết cấu của văn bản
a. Đề tài-chủ đề của văn bản
Theo Diệp Quang Ban, tên gọi đề tài và chủ đề trong ngôn ngữ học văn bản
không hoàn toàn trùng khớp với khái niệm chủ đề trong nghiên cứu văn học [6,
tr.114]. Đề tài của văn bản là phạm vi nội dung hiện thực được đề cập tới trong văn
bản đó. Có thể xác định đề tài văn bản bằng cách đặt và trả lời câu hỏi: Văn bản viết
về vấn đề gì? Hoặc có thể xác định bằng cách dựa vào một số yếu tố khác trong văn
bản như tên văn bản, các từ ngữ được lặp đi lặp lại trong văn bản, các từ ngữ đồng
nghĩa, những đại từ được dùng để thay thế, những từ ngữ tạo thành một hệ thống dựa
trên cơ sở liên tưởng nào đó, hay hiện tượng tỉnh lược.
Chủ đề của văn bản được hiểu là hiện thực được nói tới, thể hiện "ý đồ của
người viết hay đích hướng tới của văn bản " [93, tr.38]. Hay "chủ đề là hiện thực được
nói tới trong hoàn cảnh giao tiếp được phản ánh vào văn bản theo mục đích, một
hướng nào đó mà người viết đặt ra" [14, tr.18]. Theo Đỗ Hữu Châu, chủ đề văn bản
được coi là sợi chỉ đỏ, là hạt nhân ngữ nghĩa xâu chuỗi các câu tạo thành một mạng
lưới. Chủ đề văn bản là hệ quy chiếu lớn cho toàn bộ các thành tố ở các cấp độ khác
nhau trong văn bản như câu, đoạn, mục, chương, phần, tập,... chụm lại với nhau [14,


18


tr.19]. Như vậy, hiểu một cách khái quát, chủ đề là ý đồ, là quan điểm được bộc lộ qua
cách xử lí đề tài trong văn bản của tác giả.
Một văn bản có thể có một chủ đề chung và có nhiều chủ đề bộ phận. Chủ đề bộ
phận là chủ đề các chương, mục,... và cấp độ chứa chủ đề bộ phận nhỏ nhất là đoạn
văn (còn gọi là tiểu chủ đề).
Vai trò quan trọng của chủ đề khiến cho chúng ta khi tạo lập hay tiếp nhận văn
bản đều cần phải xác định rõ chủ đề của nó. Việc xác định chủ đề văn bản có thể dựa
vào từ khóa và hệ thống luận điểm được thể hiện ở hệ thống câu chủ đề của văn bản,
nghĩa là có thể xác định chủ đề văn bản qua kết cấu (cấu trúc) của văn bản đó. Theo
O.I.Moskal'skaja, sự thống nhất chủ đề của văn bản thường thể hiện ở tính truy hồi
(tính lặp lại thường xuyên) của các từ khóa có liên quan đến chủ đề. Đó có thể là sự
lặp lại nguyên văn của các từ khóa hoặc là việc sử dụng các từ gần về chủ đề và các từ
đồng nghĩa. Sự thống nhất chủ đề được đảm bảo bởi sự đồng nhất về quy chiếu của
các từ tương ứng [68; tr. 30-31] và kết cấu có chức năng bộc lộ chủ đề, tư tưởng của
tác phẩm [39, tr. 44]. Mỗi kiểu loại văn bản lại có kết cấu riêng (còn có kết cấu cụ thể
cho mỗi tiểu loại như: hịch, cáo, chiếu, bình luận, lời kêu gọi,... trong VBNL; tờ trình,
hợp đồng, đơn từ,... trong văn bản hành chính; thơ, kịch, kí, tiểu thuyết,... trong văn
bản văn chương,...), phù hợp với đặc trưng thể loại, do đó, cách thể hiện chủ đề văn bản
giữa các thể loại cũng không giống nhau. Có loại văn bản yêu cầu chủ đề của nó phải
tường minh (VBNL, văn bản khoa học, văn bản hành chính) nhưng có loại văn bản chủ đề
của nó có thể tường minh, có thể hàm ẩn (văn bản nghệ thuật). Chẳng hạn văn bản khoa
học thể hiện chủ đề qua mục đích nghiên cứu ở phần mở đầu, VBNL thể hiện chủ đề qua
phần nêu luận đề (phần mở) và phần kết luận. Các luận điểm ở các cấp độ khác nhau
chính là các chủ đề bộ phận. Có thể xác định chủ đề của văn bản thông qua kết cấu thể
loại văn bản, qua hệ thống luận điểm, hệ thống câu chủ đề trong văn bản.
Đề tài và chủ đề văn bản là hai khái niệm khác nhau, ở đây, luận án ghép hai
tên gọi này (đề tài-chủ đề) để thuận tiện cho việc sử dụng.

Trong một văn bản nếu các câu, các đoạn, các mục, các chương, các phần đều
có sự thống nhất về đề tài-chủ đề thì văn bản đó mạch lạc. Đồng thời, việc sử dụng các
phép liên kết hợp lí giữa các câu trong văn bản cũng có tác dụng tạo sự thống nhất đề
tài-chủ đề của văn bản.
1.2.1.4. Kết cấu của văn bản
Kết cấu (cấu trúc) của văn bản được hiểu là sự tổ chức, sắp xếp các phần, các
thành tố nội dung ở các cấp độ khác nhau (các luận điểm lớn nhỏ) trong văn bản để tạo
19


×