Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

tiểu luận triết cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.66 KB, 8 trang )

Đề bài: Trình bày một cách khái quát nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Từ
lĩnh vực công tác và vị trí công việc của bản thân giải thích tại sao phải dựa vào quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng để xây dựng thế giới quan cho mình.
Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua tất cả các quan điểm quan niệm
của nó song có thể nhận thức nội dung này qua quan điểm duy vật về thế giới nói chung
và quan điểm duy vật về xã hội nói riêng.
a. Quan điểm duy vật về thế giới.
Trong lịch sử triết học các nhà triết học trước hết phải giải đáp vấn đề bản chất thế
giới là gì? là vật chất hay tinh thần các nhà triết học duy vật cho rằng bản chất thế
giới là vật chất ngược lại các nhà triết học duy tâm cho rằng bản chất thế giới là
tinh thần. Quan điểm của các nhà triết học duy vật cũng khong ngừng được bổ
sung và phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Kế thừa tư
tưởng của các nhà triết học duy vật và căn cứ vào các thành tựu của khoa học tự
nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đi đến khẳng định: Bản chất của thế giới là
vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất và chật chất là thực tại khách quan, tồn
tại độc lập đối với ý thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh. Tính thống
nhất của thế giới được thể hiện ở:
- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất.Thế giới vật
chất tồn tại khách quan, tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra và cũng
không mất đi
- Tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới đều là những dạng tồn tại cụ thể của
vật chất hay là thuộc tính của vật chất. Thế giới không có gì khác ngoài vật
chất đang hoạt động
- Các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất thống nhất chặt chẽ với nhau, vận
động và phát triển theo những quy luật khách quan, chuyển hóa lẫn nhau , là
nguồn gốc là nguyên nhân và kết quả của nhau
Chuyển hóa: + thường xuyên tăng cường tích lũy về lượng để tạo điều kiện cho
thay sổi về chất, chóng chủ nghĩa chủ quan duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn
+ khi lượng được tích lũy đến giới hạn độ phải đẩy mạnh
- Ý thức là một đặc tính của bộ não người, là sự phản ánh hiện thực khách quan
của bộ não người.


Những nội dung trên không phải sáng tạo thuần túy từ tư duy của các nhà duy vật
biện chứng mà nó là sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên.
Từ phỏng đoán thiên tài về bảo toàn vật chất và bảo toàn vận động của
Lômônôxốp; từ việc chứng minh được bằng thực nghiệm sự bảo toàn khối lượng
trong các phản ứng hóa học của ông Lômônôxốp và Lavoadie đến định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng của Mâyơ và hệ thống các định luật bảo toàn của


vật lý học sau này là nền tảng khoa học cho kết luận về tính bất sinh, bất diệt của
thế giới vật chất.
Từ phát hiện ra tế bào hữu cơ,với tư cách là đơn vị sống của Svannơ và Slaiđen
mà cấu tạo và mọi quá trình phát sinh phát triển của các cơ thể đã hiện ra theo quy
luật.
Từ phát hiện của Đacuyn về chuỗi tiễn hóa của giới hữu sinh cùng một loạt các
phát hiện khác trong vật lý học, hóa học, sinh học, thiên văn học đã dẫn đến phát
hiện về các hình thức vận động của Ph.Anghen với tư cách là luận cứ khoa học về
các mói liên hệ phổ biến của vật chất đang biến đổi, đang chuyển hóa, đang là
nguyên nhân, kết quả của nhau.
Như vậy, đúng như các nhà duy vật biện chứng đã tổng kết, bản chất vật chất và
tính thống nhất vật chất của thế giới được chứng minh không phải bằng vài ba lời
của kẻ làm trò ảo thuật mà bằng một sự phát triển lâu dài khó khăn của triết học và
khoa học tự nhiên.
b) Quan điểm duy vật về xã hội
Xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, là tổng hợp những con
người hiện thực cùng tất cả các hoạt động, quan hệ của họ.
Đối với quá trình hình thành quan điểm duy vật về xã hội và cơ sơ để xác định
quan điểm duy vật về xã hội, V.I.Lênin viết: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát
triền chủ nghĩa duy vật triết học Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở
rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức thé giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội
loài người”. C.Mác và Ph.Angghen nhận thấy rằng, cũng như mọi hiện tượng

trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã hội loài
người cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định.
Nội dung cơ bản quan điểm duy vật về xã hội thể hiện:
-

-

Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên
Quán triệt quan điểm duy vật vào lĩnh vực xã hội, chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Chính sự
phát triển lâu dài của giới tự nhiên đã dẫn đến sự ra đời của con người và xã
hội loài người. Xã hội là sản phẩm phát triển cao nhất và là một bộ phận của
giới tự nhiên. Tính đặc thù của xã hội thể hiện ở chỗ xã hội có những quy luật
vận động, phát triển riêng và sự vận động phát triển của xã hội phải thông qua
hoạt động có ý thức của con người đang theo đuổi những mục đích nhất định
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quyết
định quá trình sinh hoạt xã hôi, chính trị và tinh thần nói chung, tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội.


-

-

Triết học Mác đã khẳng định rằng, chỗ khác nhau căn bản giữa con người và
động vật là con người không chỉ dựa vào những cái đã có sẵn trong tự nhiên
mà bằng lao động sản xuất tác động tích cực vào tự nhiên cải tạo tự nhiên
nhằm tạo ra của cải vật chất cho đơi sống của mình. Sản xuất vật chất là cơ sở
của đời sống xã hội. Lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội gắn liền với lịch sử
phát triển của sản xuất ra của cải vật chất

Sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử lại được tiến hành bằng một
phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất ấy quyết định sinh hoạt
xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Sự thay đổi phương thức sản xuất sớm
muộn cũng làm thay đổi các mặt khác của đời sống xã hội
Trong quá trình tồn tại và phát triền, con người không chỉ gắn liền với một
phương thức sản xuất nhất định mà còn gắn liền với điều kiện tự nhiên, dân số
và những điều kiện sinh hoạt vật chất khác. Toàn bộ những điều kiện sinh hoạt
vật chất ấy tạo thành tồn tại xã hội. Triết học Mác khẳng định: “Không phải ý
thức của con người quyết định sự tồn tại của họ trái lại sự tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ”
Sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, một xã hội trọn vẹn trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể la một hình thái kinh tế xã hội; mỗi hình thái kinh
tế xã hội gồm những mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng.
Trong quá trình sản xuất lực lượng sản xuất thường xuyên phát triển. Khi lực
lượng sản xuất phát triển đến một mức nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay
đổi cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Lúc này kết cấu kinh
tế tức cơ sở hạ tầng của xã hôi thay đổi. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng sẽ đẫn
đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Đến đây tất cả các mặt cơ bản cấu
thành một hình thái kinh tế xã hội đã thay đổi. Hình thái kinh tế xã hội này đã
chuyển sang một hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn.
Như vậy với tư cách là một bộ phận đặc thù của thế giới vật chất, sự vận động,
phát triển của xã hội vừa chịu sự chi phối của các quy luật chung nhất chi phối
toàn bộ thế giới vật chất vừa chịu sự chi phối của các quy luật riêng của mình;
trước hết và quan trọng nhất là quy luật về lực lượng sản xuất - quan hệ sản
xuất, quy luật về cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng. Những quy luật này
làm sự vận động và sự phát triển của xã hội loài người biểu hiện là một quá
trình lịch sử tự nhiên trên nền tảng sản xuất ra của cải vật chất.
Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử.

Khi khẳng định sản xuất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất
quyết định đời sống tinh thần nói chung, đời sống chính trị nói riêng, và khẳng
định sự phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử tự nhiên được bắt
đầu bằng sự phát triển của lực lượng sản xuất thì chủ nghĩa duy vật biện chứng
cũng đã khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch


sử. Vai trò ấy của quần chúng nhân dân được biểu hiện cụ thể ở chỗ quần
chúng nhân dân là lực lượng trược tiếp sản xuất ra của cải vật chất; quần chúng
nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội; quần chúng nhân
dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, chủ nghĩa duy vật biện chứng
đánh giá cao vai trò của lãnh tụ trong việc nắm bắt xu thế của thời đại; định
hướng chiến lược, sách lược cho hành động cách mạng; tổ chức giáo dục,
thuyết phục, thống nhất ý chí hành động của quần chúng nhằm giải quyết
những nhiệm vụ mà cách mạng đặt ra song suy cho cùng quần chungs nhân
dân vẫn là lực lượng quyết định sự tồn tại của lãnh tụ, quyết định uy tín và sức
mạnh của lãnh tụ. Lãnh tụ là người tổ chức, định hướng, dẫn dắt phong trào,
thúc đẩy sự phát triển của lịch sử còn quần chúng nhân dân là lực lượng quyết
định sự phát triển ấy.
Như vậy quan điểm duy vật về xã hội là một hệ thống quan điểm thống nhất
chặt chẽ với nhau, về sự ra đời, tồn tại, vận động phát triển của xã hội và các
lực lượng thực hiện những nhiệm vụ lịch sử đặt ra trong sự vận động và phát
triển ấy.
Liên hệ: Từ lĩnh vực công tác và vị trí công việc của bản thân giải thích tại
sao phải dựa vào quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng để xây dựng
thế giới quan cho mình.
“Thế giới quan là hệ thống quan niệm về thế giới, về bản thân con người và vị
trí của con người trong thế giới đó”. Như vậy, có thể hiểu thế giới quan là hệ
thống những quan điểm của một người hoặc một tập đoàn người, một giai cấp

hay toàn xã hội về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó,
về chính bản thân cuộc sống con người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng cho hoạt động nhận
thức, hoạt động cải tạo thế giới của họ, điều chỉnh hành vi của con người trong
cuộc sống hàng ngày.
Thế giới quan bao gồm những yếu tố cơ bản: tri thức, niềm tin và lý tưởng.
Trong ba yếu tố cấu thành thế giới quan, tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình
thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở
thành niềm tin của con người qua sự thể nghiệm lâu dài trong cuộc sống của họ
và sự hình thành lý tưởng là sự phát triển ở trình độ cao của thế giới quan.
Thế giới quan duy vật biện chứng là đỉnh cao của thế giới quan triết học và
cũng là đỉnh cao của thế giới quan đã có trong lịch sử. Có thể khẳng định rằng,
thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống những quan niệm khoa học chung
nhất về tự nhiên, xã hội và con người.
Thế giới quan duy vật biện chứng gồm ba yếu tố cơ bản quan hệ hữu cơ với
nhau: đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.
Tri thức trong thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm chủ nghĩa duy vật,


phép biện chứng, các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Những tri thức đó
góp phần định hướng cho con người trong hoạt động cải tạo hiện thực. Trong
đó, những tri thức của Triết học Mác - Lênin đóng vai trò nền tảng, là hạt nhân
lý luận của thế giới quan duy vật biện chứng.
Niềm tin khoa học có cơ sở từ những tri thức khoa học và gắn kết giữa tri
thức khoa học với hoạt động thực tiễn. Niềm tin khoa học giúp con người tin
tưởng vào những hành động hướng tới chân lý, xác định những mục tiêu cao cả
để vươn tới.
Lý tưởng cách mạng trong thế giới quan duy vật biện chứng là sự kết hợp
giữa tri thức khoa học và niềm tin khoa học. Đó là lý tưởng cao đẹp. Nó vừa là
mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, vừa là động lực thôi thúc con người

hành động, thiếu lý tưởng con người cảm thấy mất phương hướng, mất niềm
tin và cảm thấy cuộc đời tẻ nhạt. Chính lý tưởng khơi dậy sự nỗ lực nhận thức,
sự nồng nhiệt của tình cảm, sự mãnh liệt của ý chí và quyết tâm trong hành
động giúp con người vươn tới mục tiêu cao cả không quản gian khổ, hy sinh.
Lý tưởng cách mạng là sự thống nhất giữa tri thức, tình cảm, ý chí sẵn sàng
hoạt động, trong đó yếu tố tri thức khoa học đóng vai trò quan trọng nhất bởi lý
tưởng chỉ thật sự có tính hiện thực khi nó được xây dựng trên cơ sở niềm tin
vững chắc vào chân lý mà tri thức khoa học đem lại. Sống có lý tưởng, có hoài
bão ước mơ, con người sẽ nhân đôi ý nghĩa cuộc sống của chính mình, giúp
con người vươn lên làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân.
Tóm lại, thế giới quan duy vật biện chứng có ý nghĩa không chỉ thiên về mặt
lý luận nhận thức mà còn có một ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn. Sự thống
nhất biện chứng của những yếu tố tri thức, niềm tin, lý tưởng, giúp cho con
người nhận thức và cải tạo thế giới ngày càng hiệu quả hơn theo sự vận động
của quy luật khách quan.
Bởi vì, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ có phương
pháp nhận thức đúng đắn sự vật, đề ra kế hoạch, định hướng và biện pháp thực
hiện khoa học và hiệu quả. Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với
người cán bộ, công chức, viên chức thể hiện một số mặt cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho tôi nâng cao năng lực
nhận thức; vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong việc đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển ở địa
phương, đơn vị.
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho tôi có phương pháp biện chứng
trong nhìn nhận, đánh giá các sự vật hiện tượng. Nó tạo lập niềm tin vững chắc
cho lập trường của người cán bộ, bác bỏ những quan điểm sai lầm của thế giới
quan duy tâm và tôn giáo. Nó giúp cho tôi có khả năng phát hiện, đi sâu vào
các sự vật hiện tượng, nhất là các hiện tượng xã hội; thông qua nhiều hiện
tượng phức tạp bên ngoài, phát hiện các quy luật, xu hướng và phương thức



vận động biến đổi của các sự vật hiện tượng. Mặt khác, thế giới quan duy vật
biện chứng còn tạo cho tôi có khả năng phân tích và tổng hợp, trừu tượng hoá,
khái quát hoá. Nhờ đó, có thể thấy được cơ cấu bên trong, tính chất, chức năng
của các bộ phận, yếu tố của hiện thực khách quan, trên cơ sở đó, tôi có thể liên
kết, thống nhất các bộ phận, yếu tố đã phân tích nhằm vạch ra mối liên hệ giữa
chúng để nhận thức cái toàn thể trong tính muôn vẻ của chúng.
Bằng phương pháp phân tích và tổng hợp, giúp tôi nắm bắt sâu sắc bản chất,
quy luật của các sự vật hiện tượng, từ đó có được những chủ trương, nghị
quyết mang tính khoa học, phù hợp với hiện thực khách quan. Năng lực trừu
tượng hoá giúp tôi biết gạt bỏ những mặt, những yếu tố không cơ bản trong
tổng thể phong phú của sự vật để nắm cái bản chất có tính quy luật của nó, tìm
ra những vấn đề mới, những mâu thuẫn mới nảy sinh cần được giải quyết.
Năng lực khái quát giúp tôi nắm được đặc tính chung từ những vấn đề riêng,
tìm ra nguyên nhân cơ bản, chủ yếu. Việc nắm vững lý luận chung sẽ là tiền đề,
phương pháp tốt nhất để giải quyết những vấn đề cụ thể. V.I.Lê nin đã từng chỉ
ra rằng: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các
vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải”
những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những
vấn đề đó trong những trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của
mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc”
Thế giới quan duy vật biện chứng cũng nâng cao năng lực tư duy biện chứng
cho tôi, giúp tôi nắm bắt được tình hình một cách nhanh chóng, ra được những
quyết định kịp thời. Bởi vì người cán bộ, đảng viên mà chỉ dừng lại ở trình độ
tư duy kinh nghiệm, tuyệt đối hóa tri thức kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh
nghiệm và phương pháp tư duy siêu hình.
Thứ hai, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho tôi có được niềm tin vào
sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, tin vào đường lối chính trị của Đảng, tin vào
quần chúng nhân dân.
Niềm tin cộng sản là niềm tin có cơ sở khoa học, nó là yếu tố then chốt trong

việc hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa trong tôi. Trong tình hình phức tạp
hiện nay, thế giới quan duy vật biện chứng giúp tôi có cơ sở để nhận thức sự
phát triển tất yếu lịch sử, đồng thời thấy được bức tranh tổng quát về thế giới,
tính quy luật phổ quát của xã hội - quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Niềm tin tất thắng vào chủ nghĩa xã hội của tôi được biểu hiện ở sự tin
tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tính cách mạng
của thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở để hình thành và luận chứng cho
đường lối chính trị của Đảng ta. Từ đó, giúp tôi tiếp thu, vận dụng sáng tạo và
vạch ra đường lối, chiến lược, sách lược nhằm cải tạo hiện thực.
Thế giới quan duy vật biện chứng cũng giúp cho tôi tin vào vai trò to lớn của


giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Là lực lượng cách mạng tiến bộ nhất
có thể tạo ra những điều kiện tồn tại cho con người, phù hợp với quy luật phát
triển khách quan của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, thế
giới quan duy vật biện chứng nói riêng là biểu hiện về mặt lý luận vị trí, lợi ích
và nhu cầu cải tạo cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó
là vũ khí tư tưởng cho cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho tôi nâng cao năng lực
tổng kết thực tiễn, đúc rút bài học kinh nghiệm, định hướng cho hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo.
Sự thống nhất biện chứng giữa lí luận và thực tiễn, là nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới quan duy vật biện
chứng không chỉ định hướng cho nhận thức mà còn chỉ đạo hoạt động thực tiễn
trong cải tạo thế giới khách quan. Có thể nói, hoạt động của con người nói
chung và tôi là người cán bộ nói riêng rất cần tri thức kinh nghiệm. Tri thức
kinh nghiệm giúp cho người cán bộ giải quyết được nhiều vấn đề cụ thể.
Nhưng chỉ dừng lại ở tri thức kinh nghiệm thì sẽ lại khó tránh khỏi lúng túng,
bất lực thậm chí sai lầm khi giải quyết những vấn đề phức tạp trước yêu cầu

của thời kỳ mới. Muốn vậy, người cán bộ khi giải quyết công việc phối kết hợp
nhuần nhuyễn, hợp lý giữa kinh nghiệm với lý luận khoa học, đút rút ra bài học
kinh nghiệm kết hợp với tri thức lý luận khoa học nhằm giải quyết công việc
có hiệu quả. Chỉ trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng người cán bộ mới
tổng kết thực tiễn đút rút kinh nghiệm một cách khoa học, kịp thời phát hiện ra
cái mới, cái tiến bộ và tạo điều kiện cho chúng phát triển.
Thứ tư, thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho tôi trau dồi và nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng.
Thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ là phương thức định hướng con
người trong hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực, mà còn là phương thức giúp
con người tự ý thức được về bản thân mình. Thế giới quan duy vật biện chứng
giúp tôi xây dựng nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người. Luôn đặt lên hàng đầu lợi ích xã hội, nhưng phải tôn trong lợi ích của
mỗi một con người. Trong khó khăn, lập trường luôn vững vàng, không dao
động trước những tình huống bất ngờ. Không dễ bị bên ngoài lôi kéo, tránh
được thái độ cực đoan. Nhận thức, đánh giá sự vật, hiện tượng một cách khách
quan. Xác định đúng đắn hành vi, thái độ trách nhiệm đối với xã hội và với
chính bản thân mình. Xác định mục đích, động cơ học tập, góp phần tạo nên
nhân cách người cán bộ.
Việc thấm nhuần thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp tôi có được
những phẩm chất đạo đức cách mạng, giúp t hiểu biết sâu sắc sự nghiệp cách
mạng của dân, do dân và vì dân. Đạo đức ấy không tìm ở đâu khác, mà nền
tảng của nó chính là là học tập, nghiên cứu thế giới quan duy vật biện chứng và


tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Tóm lại, thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò vô cùng to lớn, tác động
đến mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của mỗi cán bộ. Để mỗi người cán
bộ thực sự lực lượng của Đảng, của Nhà nước và Nhân dân, luôn hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống, đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi chúng tôi phải không ngừng ra sức phấn đấu học
tập, rèn luyện để nắm vững và trang bị cơ bản, vững chắc thế giới quan duy vật
biện chứng.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×