Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Bảo đảm quyền con người của bị cáo dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN LÊ MINH HIẾU

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
DƯỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN LÊ MINH HIẾU

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
DƯỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 838.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Lê Minh Hiếu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI .............................................8
1.1. Những khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của bị cáo là người
dưới 18 tuổi .................................................................................................................8
1.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam ...................................................................................17
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam ...................................................................................23
Chương 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .......27

2.1. Thực trạng quy định về bảo đảm quyền con người của bị cáo là người dưới 18
tuổi theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam ..........................................................27
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tố
tụng hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng...........................................................39
2.3. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người của bị cáo là người
dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ...........................................................43
2.4. Những kết quả, vi phạm, sai lầm và nguyên nhân .............................................47
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ..................................................................................57
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về bảo đảm quyền
con người đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.........................................................57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm
quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi....................................................72
3.3. Một số giải pháp khác ........................................................................................79
KẾT LUẬN ..............................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TTHS


: Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

VKS/VKSND

: Viện kiếm sát nhân dân

TA/TAND

: Tòa án nhân dân

QCN

: Quyền con người

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài
người, là một trong những giá trị tinh thần quý báu và cao cả nhất của nền văn
minh nhân loại trong thời đại hiện nay. Bảo đảm quyền con người là một trong
những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Quyền con người bao gồm những quyền không thể

tước bỏ, do đó, bảo vệ quyền con người chính là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu, có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động
hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến quyền con người. Ở Việt Nam, bảo vệ quyền
con người đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, chú trọng.
Điều này được thể hiện ở thành quả về xây dựng lý luận về bảo vệ quyền con
người cũng như thực tiễn bảo đảm quyền con người.
Hoạt động tố tụng hình sự liên quan chặt chẽ đến quyền con người.
Hoạt động tố tụng hình sự là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp
dụng phổ biến nhất; và vì vậy là nơi quyền con người của các chủ thể tố tụng,
đặc biệt, quyền của bị cáo dưới 18 tuổi dễ bị lạm dụng, vi phạm. Thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy rằng cũng có nhiều
trường hợp vi phạm quyền con người đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó xảy ra do nhiều nguyên
nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ
của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của cơ quan,
người tiến hành tố tụng đối với công dân… Có thể nói, vấn đề bảo đảm quyền
con người đang là yêu cầu cấp thiết trên cả phương diện lý luận cũng như
trong hoạt động thực tiễn. Do đó, để góp phần bảo đảm hơn nữa về quyền con
người nói chung và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng, tác giả chọn đề tài: "Bảo đảm quyền con
người của bị cáo dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng" làm đề tài luận văn. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá
toàn diện các quy định về bảo đảm quyền con người đối với bị cáo là người
1


dưới 18 tuổi và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tác giả đưa
ra một số phương hướng để hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của bị cáo
là người dưới 18 tuổi và một số giải pháp để thực thi một cách hiệu quả bảo
đảm quyền này trong thực tiễn với mong muốn có những đóng góp không chỉ

cho việc bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo là người dưới
18 tuổi mà còn thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách tư pháp, góp phần xây
dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm
quyền con người nói chung, quyền con người trong hoạt động tư pháp cũng như
quyền con người trong tố tụng hình sự đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các
góc độ và với các mức độ khác nhau.
+ Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong
Nhà nước pháp quyền có các khái niệm và các đặc điểm Nhà nước pháp quyền
nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng; nghiên cứu về mối
quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân; nghiên cứu vấn đề bảo đảm
quyền con người từ góc độ triết học, xã hội học hoặc lí luận chung về Nhà
nước và pháp luật. Tuy có cách nhìn không hoàn toàn giống nhau và nghiên
cứu ở các mức độ khác nhau nhưng các khái niệm và đặc điểm đều đưa ra các
cơ chế bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền.
+ Từ góc độ pháp luật chuyên ngành, cũng đã có nhiều công trình về việc
bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung, kể cả hình sự, dân
sự. Một số công trình nghiên cứu vấn đề từ góc độ tư pháp hình sự, bao gồm cả
luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Số công trình khác thì nghiên cứu từ góc độ
tố tụng hình sự. Phạm vi nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ phân tích quyền và
nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng mà chưa đi sâu nghiên cứu các chế
định liên quan khác nhau như các nguyên tắc tố tụng hình sự, các thủ tục tố
tụng hình sự, các biện pháp cưỡng chế tố tụng liên quan đến quyền con người
của bị cáo là người dưới 18 tuổi…..
+ Trên thế giới cũng có một số tác giả nghiên cứu về quyền con người của
2


bị cáo là người dưới 18 tuổi. Có thể kể đến các công trình sau: Human rights:

Judicial system (Bảo đảm quyền con người trong hệ thống tư pháp của Saudi
Arabia), 2000 [31]; "The guarantee for accused persons under Article 6 of the
European Convention on Human Rights" (Bảo đảm quyền con người của bị
cáo của Stephanos Stavros), Nhà xuất bản Martinas Ni, 1992 [52]. Như vậy,
đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về bảo đảm quyền con người.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào mang tính
toàn diện, hệ thống và đồng bộ về vấn đề bảo đảm quyền con người, nhất là
của bị cáo là người dưới 18 tuổi
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài "Bảo đảm quyền con người của bị cáo
dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng" là cần thiết về cả lí luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích tổng quan: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn
về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với bị cáo là người dưới
18 tuổi theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Luận văn giải quyết toàn
diện, đầy đủ sâu sắc và có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền con người
của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự; thông qua việc phân tích
thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự liên quan đến vấn đề
bảo vệ quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi và đề ra các giải pháp
nhằm làm sáng tỏ những vướng mắc hạn chế, đưa ra được những giải pháp nâng
cao hiệu quả việc bảo đảm quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi
trong tố tụng hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; nâng cao nhận thức của các chủ thể tiến hành
tố tụng, cũng như toàn xã hội trong việc bảo vệ tốt hơn quyền con người của bị
cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể: Hướng tới việc hoàn thiện hệ thống tư pháp trong việc
bảo vệ quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi. Chỉ ra những yêu cầu
của việc bảo vệ quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong điều kiện
3



xây dựng xã hội công bằng, tất cả vì giá trị của con người. Theo đó đề xuất kiến
nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thực định trong lĩnh vực tư
pháp hình sự bảo vệ quyền quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi tại
Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện hệ thống tư pháp hình sự bảo vệ quyền
con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi của Việt Nam và các thiết chế gia
đình - xã hội bảo đảm khác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, đề tài hướng tới các
nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận của quyền con người và bảo đảm
quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam;
Hai là, phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam và
các văn bản khác liên quan đến bảo đảm quyền con người của bị cáo là người
dưới 18 tuổi; tìm ra những hạn chế và bất cập về bảo đảm quyền con người
của bị cáo là người dưới 18 tuổi;
Ba là, nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước về bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự;
Bốn là, nghiên cứu làm rõ tình hình thực tế việc bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng.
Năm là, Đánh giá thực tiễn việc bảo đảm quyền con người đối với bị
cáo dưới 18 tuổi từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Sáu là, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc bảo
đảm quyền con người đối với bị cáo dưới 18 tuổi từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ quyền

con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
Thứ hai, nghiên cứu về cơ chế bảo vệ quyền con người của bị cáo là người
4


dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam để từ đó tìm ra những
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn
thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền con người của
bị cáo là người dưới 18 tuổi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu về quyền con người của người dưới 18 tuổi trong
phạm vi các quy định của Việt Nam, bao gồm: các quan điểm của Đảng, Nhà
nước về vấn đề quyền con người, quyền của người dưới 18 tuổi, quyền con
người của người của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự; về vai
trò, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của pháp luật tố tụng hình sự trong nhà
nước pháp quyền…; những quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về
vấn đề bảo vệ quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi, cũng như các
vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn áp dụng của các cơ quan, người tiến hành tố
tụng khi giải quyết các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi. Luận văn nghiên
cứu thực tiễn áp dụng các quy định về bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự đối bị cáo dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách Hình sự, về vấn đề
cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII,
khóa IX, khóa X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 của Bộ Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác
giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật
tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp
5


thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học về luật tố tụng
hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
6.1. Ý nghĩa về lý luận: Tổng hợp các quan điểm khoa học về quyền
con người nói chung, quyền con người và bảo đảm quyền con người của bị
cáo dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng. Nghiên cứu các
quy định của pháp luận hiện hành về bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự đối với bị cáo dưới 18 tuổi. Kết quả nghiên cứu của luận văn làm giàu
thêm lý luận nhằm góp phần luận giải tính phổ biến và tính đặc thù của quyền
con người, đó là: đồng thời với việc coi quyền con người là giá trị được thừa
nhận chung, thì nó cũng được cụ thể hóa trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
(như tố tụng hình sự), với từng đối tượng cụ thể (người dưới 18 tuổi) và ở từng
quốc gia (Việt Nam).
6.2. Ý nghĩa về thực tiễn: Thực tiễn công tác tư pháp hình sự của chúng
ta trong thời gian qua cho thấy, quyền con người của người dưới 18 tuổi trong tố
tụng hình sự vẫn chưa được bảo vệ tốt nhất. Điều này xuất phát từ việc xã hội,
nhà nước nói chung và các nhân viên tư pháp hình sự chưa đánh giá đúng tầm
quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền của người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình
sự. Với việc đưa ra nhận thức đầy đủ, toàn diện, có hệ thống lý luận về quyền
của bị cáo dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự và phân tích thực trạng của vấn đề
này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, đem đến sự nhận thức
đúng đắn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm mục đích cuối cùng là bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong thực tế. Nghiên cứu các quy định của
pháp luận hiện hành về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối
với bị cáo dưới 18 tuổi. Đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng
các quy định về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với bị cáo
dưới 18 tuổi của các cơ quan tiến hành tố tụng; những tồn tại, hạn chế của
thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất
các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu
6


quả áp dụng pháp luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải
cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của bị
cáo là người dưới 18 tuổi.
- Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo là người
dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Chương 3: Các giải phải bảo đảm quyền con người của bị cáo là
người dưới 18 tuổi.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Những khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của

bị cáo là người dưới 18 tuổi
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người
Quyền con người là một trong những quyền tự nhiên của con người và
là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người, không bị tước bỏ và
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các văn bản pháp lý quốc
tế. Quyền con người bắt đầu từ khi con người được sinh ra và đồng thời cũng
phải bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Vì vậy đây chính là quyền thiêng
liêng, cơ bản nhất của mỗi con người và không thể bị tước bỏ một cách tùy
tiện, trái pháp luật. Cho nên, nó không chỉ là vấn đề trọng yếu trong luật pháp
quốc tế mà còn là chế định pháp lý cơ bản trong pháp luật của các quốc gia.
Quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được
cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ mang tính phổ biến, tính không thể
tước bỏ, tính không thể phân chia và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Nhờ có
những chuẩn mực này, nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều
kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người.
Quyền con người vốn là một vấn đề rất tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực trong xã hội như đạo đức, chính trị, pháp lý... Đó là thành quả của sự phát
triển lịch sử, là đặc trưng của xã hội văn minh. Quyền con người cũng là một
quy phạm pháp luật, đương nhiên nó đòi hỏi tất cả mọi thành viên của xã hội,
không loại trừ bất cứ ai, đều có quyền và nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền
và tự do của mọi người.
Khái niệm quyền con người có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ dưới dạng
các quyền tự nhiên như quyền được sống... Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ,
người nô lệ không được coi là con người và sống với tình trạng vô quyền. Chế
độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bước tiến trong việc giành lại
quyền tự do và giải phóng con người. Giai cấp tư sản là người đầu tiên nêu
8


ngọn cờ nhân quyền với các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, công lý, vốn là

yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động, tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn
mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người. Lần đầu tiên các
quyền con người được chính thức ghi trong các văn kiện quan trọng như
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền
của Pháp 1789... Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về
quyền con người thì quyền con người là những bảo đảm pháp lý mang tính
toàn cầu xác định trách nhiệm của mỗi quốc gia bảo vệ các cá nhân chống lại
sự thờ ơ của mỗi quốc gia gây tổn hại nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản
của con người. Trong tài liệu mang tính giáo dục phổ cập của Liên hợp quốc
về quyền con người thì quyền con người là những nhu cầu tự nhiên cơ bản
gắn liền với mỗi cá nhân được các quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế tôn
trọng bảo đảm và bảo vệ. Theo đó, quyền con người là những giá trị chung
của loài người, mang ý nghĩa chính trị, lịch sử, xã hội sâu sắc; nó là sự thừa
nhận phẩm chất vốn có và bình đẳng không thể thay thế được của mỗi thành
viên, mọi gia đình, con người, là cơ sở của tự do, công bằng và hòa bình trên
thế giới [56].
Chúng ta có thể tìm thấy quyền con người trong tố tụng hình sự trong
các văn kiện quốc tế về như : Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948
(UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR)
[56][40]; Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước
chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985… Quyền
con người trong tố tụng hình sự chính là sự cụ thể quyền được sống, quyền
được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân
quyền trong tố tụng hình sự. Theo đó, quyền con người trong tố tụng hình sự
bao gồm những quyền sau “Điều 10, 11 UHDR và Điều 14, 15 ICCPR”:
Quyền được xét xử công bẳng bởi một thủ tục tố tụng hình sự; Quyền bất khả
xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân khác.
Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự phải
trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền được bào chữa và
biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; Người chưa thành niên

9


phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt; Quyền kháng cáo bản án
để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh chóng minh oan, quyền không bị kết
tội hai lần về cùng một hành vi…; Những quyền trên là những quyền của bị
cáo là đối tượng quan trọng nhất cần bảo vệ trong tố tụng hình sự [56][40].
Theo giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, các tác giả
định nghĩa quyền con người là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của
con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế” Còn học giả Nguyễn Bá Diến cho rằng: "Quyền con
người là các khả năng của con người được đảm bảo bằng pháp luật (luật
quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá
trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong
phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người
khác trên cơ sở pháp luật” [19].
Ngoài ra, có một định nghĩa đang được sử dụng phổ biến trong giảng
dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở nước ta hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền
con người) là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư
cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [29].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, mỗi định nghĩa tiếp cận
quyền con người theo những góc độ khác nhau, nhưng theo quan niệm chung
của cộng đồng quốc tế và ở Việt Nam, quyền con người được xác định dựa
trên hai bình diện chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình
diện đạo đức, quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc
quyền) của con người như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình
diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa
bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc
độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn

mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho
tất cả mọi người.
Tại Việt Nam, thuật ngữ quyền con người lần đầu tiên được hiến định
trong Hiến pháp năm 1992 “ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
10


quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn
trọng” [42]. Trên cơ sở đó, nhiều quy định về quyền công dân (thể hiện sự cụ
thể hóa quyền con người) được ban hành và chi tiết. Năm 2013, Hiến pháp ban
hành đã quy định chi tiết hơn và làm rõ nội dung quyền con người, quyền công
dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân; bổ sung một số quyền mới là kết quả của
quá trình đổi mới 25 năm qua ở nước ta, phù hợp với các điều ước quốc tế về
quyền con người mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Trải qua rất nhiều giai đoạn quá trình lịch sử lâu dài, Việt Nam bắt đầu
coi quyền con người cũng là vấn đề quan trọng, Hiến pháp 2013 coi trọng
quyền con người hơn thể hiện ở chỗ đẩy quy định từ Chương V thành Chương
II quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cho
đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả hai
phương diện lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn kiện về quyền
con người, điều đó được thể hiện trong Bộ Luật Tố tụng hình sự của nước ta ở
mức độ khác nhau. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có các nguyên tắc như: Thừa
nhận Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; Tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; Bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể; Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân,
suy đoán vô tội; Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự… [6][42]
Từ việc nghiên cứu quyền con người trong tố tụng hình sự có thể đưa ra

định nghĩa về quyền con người trong tố tụng hình sự như sau: Quyền con
người trong tố tụng hình sự là những bảo đảm pháp lý xác định trách nhiệm
của quốc gia bảo vệ các cá nhân, pháp nhân chống lại sự gây tổn hại nhân
phẩm và các quyền tự do cơ bản của cá nhân, pháp nhân đó khi họ tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận
trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế.
1.1.2. Khái niệm bị cáo là người dưới 18 tuổi
Theo Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định như sau:“ Bị
11


cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và
nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này” [6]. Theo khoản
1 điều luật bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Từ khi có
quyết định của Toà án đưa bị can ra xét xử thì người đó được gọi là bị cáo. Nếu
chưa có quyết định của Toà án đưa ra xét xử thì bị can vẫn chưa được gọi là bị
cáo, mặc dù hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng quyết định truy tố người đó đã
được gửi cho Toà án. Bị cáo là người tham gia tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự
quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của họ trong tố tụng hình sự.
Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ hình thành khi con người đạt đến một
độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ được hoàn thiện ở một độ tuổi tiếp theo.
Người chưa thành niên, hay vị thành niên hoặc có nơi coi là trẻ em về thể chất và
tâm sinh lý đã có sự phát triển đáng kể, có khả năng hiểu biết nhất định để có
những xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Theo nguyên tắc công bằng
của pháp luật, họ phải chịu trách nhiệm về hành vi do chính mình thực hiện.
Người chưa thành niên là thuật ngữ phổ biến được sử dụng trong đời
sống cũng như trong các ngành khoa học nghiên cứu.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Vị thành niên là người chưa đến tuổi được
pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hay nói

cách khác là người chưa đủ 18 tuổi” [38]. Định nghĩa này phù hợp với tinh
thần của Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em thông qua ngày
20/11/1989: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là những
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn” [45]. Theo cách hiểu thông thường, từ “trẻ em”
nghĩa là người chưa thành niên, hay vị thành niên. Thế nhưng trong Công ước
này trẻ em lại bao gồm tất cả những người chưa phải người lớn. Công ước
nhấn mạnh rằng tất cả những ai dưới 18 tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi đã
được ghi nhận trong Công ước.
Trong phạm vi một quốc gia, thì tùy vào từng ngành khoa học mà
người ta cũng có khái niệm khác nhau về người chưa thành niên. Ở Việt Nam,
Điều 1 Luật Giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em Việt Nam quy định rõ: “Trẻ
12


em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi Bộ luật dân sự
năm 2005 cũng có quy định tương tự: “Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa
thành niên” [43] Bộ Luật Lao động Việt Nam cũng quy định: "Người lao
động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi"
Tuy nhiên, những quy định khác nhau về khái niệm người chưa thành
niên lại nằm trong các văn bản pháp luật truyền thống của các quốc gia trên
thế giới. Sở dĩ có sự quy định khác nhau như vậy là do xuất phát từ truyền
thống lịch sử văn hóa cũng như các quan niệm về đạo đức, phong tục tập quán
của các quốc gia khác nhau. Mặt khác, còn do điều kiện kinh tế - xã hội sự
phát triển về sinh học của con người, đặc biệt là chính sách pháp luật và yêu
cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi quốc gia
cũng có sự khác nhau.
Như vậy, có thể thống nhất một quan điểm là người chưa thành niên là
người chưa đủ 18 tuổi. Quan niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ước
quốc tế về quyền trẻ em ngày 20/2/1990 mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là thành viên. Ở độ tuổi này, người dưới 18 tuổi có những đặc điểm
tâm sinh lý đặc trưng và chính vì thế mà bất cứ ngành luật nào cũng dành
những quy định đặc biệt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
Khái niệm về người chưa thành niên phạm tội do BLHS quy định có ý
nghĩa pháp lý sâu sắc. Đó là cơ sở xác định tính chất tội phạm đối với những
hành vi do người chưa thành niên thực hiện và tạo điều kiện cho việc áp dụng
hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trên
cơ sở những đặc điểm tâm sinh lý vào thời điểm họ phạm tội. Không những
thế, khái niệm trên còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội bởi nó phù hợp với nội
dung điều ước quốc tế, tiến bộ của nhân loại mà chúng ta đã gia nhập vừa phù
hợp với đặc điểm kinh tế xã hội, sự phát triển về thể chất, tinh thần con người
Việt Nam và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta.
1.1.3. Khái niệm quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi
Quyền cơ bản của người dưới 18 tuổi được luật pháp quốc tế quy định
tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em thông qua ngày 20/11/1989, các bản
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp quốc về việc áp dụng pháp luật với
13


người chưa thành niên năm 1985 (gọi tắt là Quy tắc Bắc Kinh), Hướng dẫn
của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên năm
1990 (gọi tắt là Hướng dẫn Riát), Quy tắc của Liên Hợp Quốc về việc bảo vệ
người chưa thành niên bị tước quyền tự do năm 1991 (gọi tắt là Quy tắc
1991) mà Việt nam là một trong các thành viên đã tham gia ký kết. Nội dung
các quy định nêu trong các Công ước, quy tắc có tính đến sự đa dạng và cơ
cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần của tư pháp
người chưa thành niên, đề ra những nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối
với việc quản lý người chưa thành niên phạm tội; đồng thời bảo đảm rằng,
trong quá trình thực thi và áp dụng pháp luật thì quyền của người chưa thành
niên, kể cả trong trường hợp họ là đối tượng thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội không bị vi phạm. Trên cơ sở những văn bản pháp lý quốc tế nêu
trên, có thể khái quát về các quyền cơ bản của người dưới 18 tuổi phạm tội
như sau:
Một là, quyền cơ bản của người dưới 18 tuổi được luật pháp quốc tế
quy định thông qua các nguyên tắc sau:
Trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào, sự an toàn của người dưới 18
tuổi phải được đặt lên hàng đầu; Không bị phân biệt đối xử - tất cả các em
đều được đối xử công bằng, không thiên vị, bất kể giới tính, độ tuổi, dân tộc,
tôn giáo…; Người dưới 18 tuổi phải được đối xử một cách lịch sự, tôn trọng
phẩm giá và chuyên nghiệp; Trước khi xét xử, người dưới 18 tuổi luôn luôn
được suy đoán vô tội; người dưới 18 tuổi được đối xử theo những quy định
đã nêu trong hệ thống pháp luật của quốc gia.
Hai là, quyền cơ bản của người dưới 18 tuổi phạm tội trong giai đoạn
xét xử:
Tất cả những tiếp xúc giữa cán bộ thực thi pháp luật và người dưới 18
tuổi phải mang tính thân thiện, phải diễn ra trong một môi trường phù hợp,
hỗ trợ và đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của lứa tuổi; Trong quá trình giao
tiếp với người dưới 18 tuổi, phải sử dụng ngôn ngữ phù hợp và dễ hiểu với
các em; Cấm các biện pháp xét xử tùy tiện (không tuân thủ đúng trình tự, thủ

14


tục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội), trong mọi trường hợp, quyền riêng
tư của các em phải được bảo vệ; Những thông tin cá nhân và mang tính nhạy
cảm liên quan đến người dưới 18 tuổi phải được xử lý cẩn thận và được bảo
đảm bí mật; Người dưới 18 tuổi có quyền được bảo vệ khỏi vũ lực và các
hình thức lạm dụng của các cơ quan công quyền; Việc giam giữ người dưới
18 tuổi phạm tội cần phải cân nhắc kỹ lưỡng nếu mục đích chỉ là để phục vụ
công tác xét xử.

Ba là, quyền của người dưới 18 tuổi khi bị xét xử và tuyên án:
Giam giữ chỉ là biện pháp cuối cùng và nếu có chỉ áp dụng trong một
khoảng thời gian ngắn nhất; Người dưới 18 tuổi có quyền giữ im lặng và
quyền được chuyển đến những dịch vụ hỗ trợ phù hợp; áp dụng xử lý theo
hướng không giam giữ để tránh các thủ tục xét xử chính thức và chuyển sang
các chương trình hoà nhập cộng đồng phù hợp.
Như vậy, có thể thấy khái niệm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
là: “ Những bảo đảm pháp lý có tác dụng bảo vệ bị cáo là người chưa thành
niên khi tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử của Tòa án nhân dân”. [50]
1.1.4. Khái niệm bảo đảm quyền con người của bị cáo là người dưới
18 tuổi
Từ trước đến nay thì quyền con người và bảo đảm quyền con người
luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Và trong lĩnh vực tố tụng
hình sự cũng vậy, việc giải quyết vụ án hình sự không thể tách rời vấn đề bảo
đảm quyền con người, đặc biệt là quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi. Bởi
lẽ để buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người phải dựa
trên những căn cứ luật định và phải do những người, những cơ quan có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để nhằm mục
đích không để lọt tội phạm đồng thời đảm bảo không làm oan người vô tội, vi
phạm quyền con người của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Trong lĩnh vực pháp luật, vấn đề quyền con người làm nền tảng trong
việc nghiên cứu và ban hành các quy phạm. Bảo đảm quyền con người xét
cho cùng chính là việc ghi nhận và thực hiện những cam kết trong pháp luật
15


quốc tế về các quyền con người vào trong pháp luật mỗi quốc gia. Không thể
bảo đảm quyền con người nếu chỉ dựa vào quyền tự nhiên của con người, bởi
tự thân những quyền tự nhiên không thể tự mình vận hành trong một xã hội
rộng lớn ở phạm vi quốc tế và phạm vi quốc gia. Phải thông qua Nhà nước,

thì những cam kết quốc tế về quyền con người mới hình thành nên những địa
vị pháp lý của con người, đồng thời quyền con người chỉ được bảo đảm khi
được quy định bằng pháp luật và có cơ chế bảo đảm, vận hành bởi pháp luật.
Do đó, bảo đảm quyền con người của người dưới 18 tuổi là sự kết hợp địa vị
pháp lý và địa vị thực tế của con người trong xã hội, là một trong những biểu
hiện tự do xã hội, trách nhiệm và tính tích cực công dân. Các quyền kinh tế,
chính trị, xã hội chưa phải là cơ sở để thực hiện quyền và tự do của con
người. Chúng chỉ trở thành những bảo đảm quyền con người qua hình thức
pháp lý và những nỗ lực tổ chức bảo đảm thực hiện của Nhà nước. Bảo đảm
quyền con người của người bị cáo là người dưới 18 tuổi là đảm bảo cho
những người đó có địa vị pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị truy
tố và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ thực hiện quyền và
nghĩa vụ tố tụng được quy định.
Ở Việt Nam, bảo đảm quyền con người của bị cáo dưới 18 tuổi là bảo
đảm cho những quy định của pháp luật về quyền con người được thực hiện
trên thực tế, phù hợp với thông lệ quốc tế; đồng thời bảo vệ quyền con người
của bị cáo là người dưới 18 tuổi khi có sự xâm hại, sự vi phạm quyền của họ
từ các cơ quan, các chủ thể thực hiện việc xét xử hành vi phạm tội của người
chưa thành niên. Pháp luật tuy là yếu tố quan trọng không thể thiếu, nhưng
không phải là yếu tố duy nhất bảo đảm cho họ được hưởng thụ các quyền,
cũng như bảo đảm không bị tước mất quyền của họ trong hoàn cảnh đối mặt
với pháp luật và là đối tượng xem xét của pháp luật. Trên cơ sở các văn bản
pháp luật quốc tế nêu trên, hệ thống tư pháp người dưới 18 tuổi ở Việt Nam
đã được quan tâm nghiên cứu và ngày càng hoàn thiện. Việc bảo đảm quyền
của người dưới 18 tuổi phạm tội nói chung và bị cáo là người dưới 18 tuổi nói
riêng phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế 16


xã hội và văn hóa hiện có của Việt Nam. Sự phù hợp này thể hiện trên cả hai
phương diện đó là xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật. Quyền con người

của người dưới 18 tuổi pham tội trong giai đoạn xét xử của Tòa án nhân dân
được thể hiện trong Bộ luật TTHS thông qua các nguyên tắc như: Thừa nhận
Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; nguyên tắc bảo
vệ quyền cơ bản của công dân; Bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền
kháng cáo, quyền minh oan... [49].
Tuy nhiên, bảo đảm quyền con người trong TTHS không chỉ là sự ghi
nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong TTHS, bảo vệ và bảo đảm
thực thi các quyền đó trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Bảo đảm
quyền con người của người phải là sự bảo đảm cho các chủ thể mang quyền
được thực hiện đầy đủ và hợp pháp các quyền được đề cập trong các quy định
của pháp luật [39].
Vì vậy, bảo đảm quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi theo
pháp luật TTHS là sự bảo đảm cho bị cáo được thực hiện trên thực tế một
cách đầy đủ và hợp pháp các quyền được đề cập trong các quy định của
BLTTHS . Điều này đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự hiện nay.
1.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của bị cáo là người dưới 18
tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Bảo đảm các quyền con người, quyền công dân chung của bị
cáo là người dưới 18 tuổi
Các quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và
các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng
là một công dân, vì vậy họ có quyền được tôn trọng và bảo đảm các quyền
được pháp luật quy định, trừ các trường hợp BLTTHS quy định khác nhằm
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là hoạt động đặc biệt liên quan đến việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan đến việc phát hiện, xử lý hành vi nguy
17



hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm và xử phạt người phạm tội. Vì vậy,
để đạt được mục đích của tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng hình sự của bất kỳ
một quốc gia nào cũng có quy định về những biện pháp cưỡng chế tố tụng, các
hành vi, quyết định tố tụng đụng chạm đến quyền, lợi ích của công dân. Hay
nói cách khác, cưỡng chế tố tụng hình sự, khả năng ảnh hưởng của hoạt động
tố tụng hình sự tới các quyền con người của công dân là tất yếu [49].
Việc bảo đảm các quyền công dân chung của bị cáo trong tố tụng hình
sự chủ yếu tập trung vào một số nội dung sau đây:
Một là, quy định đúng đắn, hợp lý về nội dung và thực hiện các nguyên
tắc tố tụng hình sự. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, các nguyên tắc tố
tụng hình sự cần được phân chia thành các nhóm khác nhau để nghiên cứu,
bao gồm: 1/ Các nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong hoạt động tố tụng; 2/
Các nguyên tắc liên quan đến xác định sự thật khách quan của vụ án; 3/ Các
nguyên tắc thể hiện tính dân chủ trong hoạt động tố tụng; 4/ Các nguyên tắc
bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng [55][21][46].
Trong số các nguyên tắc tố tụng hình sự cơ bản được quy định trong
BLTTHS 2003, các nguyên tắc thuộc nhóm thứ tư được thể hiện rõ nhất quan
điểm của người làm luật liên quan đến bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân. Đó là: nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân (điều 4), nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật (điều 5), nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân (điều 6), nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (điều 7), nguyên tắc bảo đảm quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
công dân (điều 8), nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (điều 9), nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội (điều 11), nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án (điều 19), nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt
hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (điều 29) và nguyên tắc

bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người
18


có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (điều 30) v.v... Ngoài ra, các
nguyên tắc tố tụng khác ở mức độ này hay mức độ khác, góc độ này hay góc
độ khác đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc bảo đảm quyền con
người của người tham gia tố tụng nói chung, của bị cáo nói riêng trong tố tụng
hình sự [54].
Hai là, quy định đầy đủ, hợp lý địa vị pháp lý của các chủ thể tố tụng
hình sự. Việc quy định đầy đủ các quyền tố tụng của bị cáo là người dưới 18
tuổi là bảo đảm pháp lý quan trọng để họ sử dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình; đồng thời cũng là cơ sở pháp lý làm phát sinh trách nhiệm của
các cơ quan, người tiến hành tố tụng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền
của bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng như trách nhiệm pháp lý khi các cơ
quan, người tiến hành tố tụng vi phạm quyền của người tham gia tố tụng.
Ba là, quy định hợp lý các biện pháp cưỡng chế tố tụng. Tính cưỡng
chế trong tố tụng hình sự hiển diện ở nhiều hình thức, biện pháp tố tụng khác
nhau như các biện pháp ngăn chặn, thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra
(khám xét, xem xét dấu vết, thu giữ vật chứng…). Tuy nhiên, việc quy định
và áp dụng các biện pháp ngăn chặn là ảnh hưởng lớn nhất đến quyền con
người của bị cáo là người dưới 18 tuổi. Thực tiễn tố tụng những năm qua cho
thấy rằng các vấn đề như thẩm quyền, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn
chặn cụ thể, thời hạn tạm giữ, tạm giam… là những vấn đề đang có ý kiến
khác nhau và cũng gây không ít bức xúc trong dư luận xã hội trong việc bảo
đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng ở nước ta;
Bốn là, quy định các thủ tục tố tụng hình sự dân chủ, công khai. Dân
chủ hóa các mặt đời sống xã hội, trong đó có hoạt động tố tụng là xu thế tất
yếu của Nhà nước pháp quyền. Dân chủ hóa quá trình tố tụng hình sự, đảm
bảo cho những người tham gia tố tụng, nhất là bị cáo là người dưới 18 tuổi

thực hiện các quyền tố tụng của mình là những biện pháp hiệu quả bảo đảm
quyền công dân của bị cáo là người dưới 18 tuổi;
Năm là, quy định và thực hiện việc giám sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng;
19


Sáu là, quy định cụ thể quyền khiếu nại của bị cáo đối với hành vi,
quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng;
Bảy là, quy định đầy đủ và chặt chẽ chế độ trách nhiệm đối với việc vi
phạm quyền con người trong tố tụng hình sự v.v… [49]
1.2.2. Bảo đảm các quyền tố tụng của bị cáo là người dưới 18 tuổi
Một trong những điều kiện bảo đảm quyền con người, Bảo đảm các
quyền tố tụng của bị cáo nói chung và bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng
là quy định của pháp luật về quyền của họ trong quá trình tố tụng hình sự.
Việc bảo đảm quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong
TTHS là xây dựng cơ sở pháp lý và tạo điều kiện trên thực tế nhằm bảo đảm:
- Bị cáo dưới 18 tuổi có khả năng chứng minh bác bỏ sự nghi ngờ phạm
tội, sự buộc tội từ phía cơ quan có thẩm quyền và làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm mà người đó thực hiện;
- Những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định chính xác,
khách quan tội phạm, người phạm tội và áp dụng đúng đắn các quy định của
pháp luật để giải quyết vụ án.
Quyền công dân, quyền tố tụng đều là các nội dung có quan hệ mật
thiết, biện chứng lẫn nhau của quyền con người của bị cáo trong TTHS. Bị
cáo chỉ có thể thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng của mình nếu quyền công
dân của họ được tôn trọng và bảo đảm; và ngược lại, bị cáo không thể được
bảo đảm quyền công dân nếu các quyền tố tụng quan trọng của bị cáo không
được bảo đảm thực hiện. Vì vậy, việc nghiên cứu cũng như thực hiện việc bảo
đảm quyền công dân chung của bị cáo kết hợp với nghiên cứu các quyền tố

tụng của bị cáo là điều cần thiết. Có như vậy, quyền con người của bị cáo
trong TTHS mới được bảo đảm một cách toàn diện hiệu quả, góp phần không
chỉ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, mà còn lợi ích Nhà nước,
cộng đồng và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của TTHS [49].
Vì vậy, vấn đề bảo đảm quyền con người của bị cáo dưới 18 tuổi trong
TTHS là cần tập trung nghiên cứu, phân tích các nội dung quy định của
BLTTHS và việc thực hiện các quy định đó trên thực tế, cụ thể như sau:

20


×