Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra theo bộ luật dân sự năm 2005 luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN QUỲNH ANH

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT
GÂY RA THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu

Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ VÀ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA

7

1.1. Trách nhiệm dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Luật
Dân sự
1.1.1. Trách nhiệm dân sự

7
7

1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

12

1.1.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

15

1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái
pháp luật gây ra

19

1.2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do hành vi trái pháp luật gây ra

22


1.2.2. Nguyên tắc BTTH ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây
ra theo BLDS 2005
1.3.

40

Lịch sử pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do hành vi trái pháp luật gây ra.

43

1.3.1. Trước khi có BLDS 1995

43

1.3.2. Từ năm 1995 đến nay

49


Chương 2: TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY
RA TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
2.1.

53

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm quyền
lợi người tiêu dùng


2.1.1. Người tiêu dùng và hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng

53
53

2.1.2. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng.

60

2.2. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi làm ô nhiễm môi
trường

64

2.2.1. Môi trường và hành vi gây ô nhiễm môi trường

64

2.2.2. Bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường

68

2.3. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm mồ mả

81

2.3.1. Mồ mả và hành vi xâm phạm mồ mả

81


2.3.2. Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm mồ mả

85

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN
3.1.

91

Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra

91

3.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm mồ mả

91

3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng

95

3.1.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường


102


3.2.

Hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong một số trường hợp cụ thể.

107

3.2.1. Đối với hành vi xâm phạm quyên lợi người tiêu dùng

107

3.2.2. Đối với hành vi xâm phạm mồ mả

111

3.2.3. Đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường

113

KẾT LUẬN

121

TÀI LIỆU THAM KHẢO

123



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình khoa học của riêng tôi, không
sao chép. Kết quả nghiên cứu được công bố trong luận văn chưa từng được
công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ trích
dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để cho tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Quỳnh Anh


DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bảo vệ môi trường

BVMT

Bộ luật Dân sự

BLDS

Bồi thường thiệt hại

BTTH

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng


BTTHNHĐ

Người tiêu dùng

NTD

Tòa án nhân dân tối cao

TANDTC

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

TNBTTH

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng

TNBTTHNHĐ

Trách nhiệm dân sự

TNDS


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng


Trang

3.1

Người khiếu nại

107

3.2

Người bị khiếu nại

108

3.3

Vấn đề khiếu nại

108

3.4

Mục đích khiếu nại

109


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại
trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp
luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Hiện nay, pháp luật
Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với
hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản của các cá nhân và tổ chức khác
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những
chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự. Ở các quốc gia khác nhau,
qua các thời kỳ lịch sử, quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng
có sự khác nhau về cách thức bồi thường, mức độ bồi thường, cách xác định
thiệt hại cũng như việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khác
nhau. Tuy nhiên trên thực tế để xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của người có hành vi gây thiệt hại trong quan hệ dân sự mà không có hợp
đồng là rất khó khăn, nó liên quan nhiều đến các căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khi xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải xác định yếu tố lỗi để có căn cứ quy trách
nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật - người có hành vi có lỗi phải bồi
thường thiệt hại. Thực tế cho thấy vẫn đang tồn tại những cách hiểu khác
nhau về lỗi và hành vi có lỗi nên việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng gặp rất nhiều khó khăn.
Trong thời gian qua, phát sinh nhiều vụ việc do hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại nặng nề đến lợi ích của cá nhân, tổ chức trong xã hội như: san
lấp mồ mả của người khác, vấn đề mất vệ sinh an toàn thực phẩm, các vụ

1


việc gây ô nhiễm môi trường có quy mô lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
môi trường tự nhiên cũng như môi trường sống của con người bị phát hiện.

Việc xử lý các vụ việc nêu trên ngoài chế tài hình sự còn dựa trên căn cứ của
pháp luật về dân sự và hành chính nhưng những chế tài này còn yếu, chưa đủ
sức răn đe. Để tăng tính khả thi của pháp luật, cần phải có quy định thống
nhất về các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
để từ đó xác định trách nhiệm bồi thường một cách chuẩn xác. Trên cơ sở đó,
tôi đã lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do hành vi trái pháp luật gây ra theo Bộ luật dân sự năm 2005” để làm
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Luật Dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi trái pháp luật gây ra gồm có: Luận văn thạc sĩ luật học của Lê
Mai Anh “Những vấn đề vơ bản về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”,
luận văn thạc sỹ luật học của Lê Thị Bích Lan “Một số vấn đề về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
và uy tín”; luận văn thạc sỹ của Nguyễn Minh Châu “Bồi thường thiệt hại
trong trường hợp tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm, một số vấn đề lí luận và
thực tiễn” - là một trường hợp của trách nhiệm này, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra theo BLDS 2005 đã được luận văn
phân tích, đánh giá khái quát và có phân tích cụ thể 3 trường hợp BTTH
ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra đó là: BTTH do hành vi xâm
phạm mồ mả, BTTT do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, BTTH
do hành vi gây ô nhiễm môi trường một cách có hệ thống và chi tiết.
Ngoài ra, cũng có một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học như
“Bàn về lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của TS.

2


Phùng Trung Tập -Trường Đại học Luật Hà Nội (Tạp chí Luật học Số
10/2004); sách chuyên khảo của tác giả, TS. Phùng Trung Tập “BTTH ngoài

hợp đồng do tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm” do NXB Hà Nội
xuất bản năm 2009…
Tuy nhiên các công trình trên chỉ nghiên cứu chuyên sâu về phần
chung trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng hoặc chỉ chọn một khía cạnh
nhất định của vấn đề để nghiên cứu mà trên thực tế còn rất nhiều khía cạnh
khác của vấn đề chưa được khai thác, nghiên cứu. Nhận thức được vấn đề
này, đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi
trái pháp luật gây ra theo Bộ luật Dân sự 2005” lần đầu tiên được nghiên
cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ một cách chuyên sâu, đầy đủ, đảm bảo tính lô
gíc, hệ thống. Đặc biệt có nghiên cứu một số trường hợp cụ thể bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra. Bên cạnh đó, tác giả
luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, luận
án, luận văn và các bài viết đã đạt được cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có
liên quan đến đề tài đang nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn thạc sỹ luật học, tôi tập
trung nghiên cứu về một số trường hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra bao gồm: bồi thường thiệt hại do
hành vi xâm phạm mồ mả, BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường, BTTH
do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng. Luận văn đi sâu tìm hiểu
thực trạng của các hành vi vi phạm và việc bồi thường thiệt hại trong một số
trường hợp cụ thể theo pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra một số kiến nghị,
giải pháp góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật, góp phần nâng
cao tính hiệu quả của việc giải quyết trách nhiệm bồi thường trong thực tiễn.

3


Trong quá trình nghiên cứu, một số khái niệm pháp lý liên quan cũng
được đề cập đến như trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm

bồi thường theo hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây
ra để so sánh, phân tích và làm rõ những khác biệt của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó các phương pháp phân tích,
so sánh, liệt kê cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề.
Một số vụ án thực tế được luận văn đưa ra một cách có chọn lọc để
minh họa cho những nhận định, đánh giá và sử dụng số liệu thống kê của các
ngành liên quan.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cũng
như nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra trong một số
trường hợp cụ thể, từ đó chỉ ra những điểm cần sửa đổi bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn áp dụng. Đưa ra hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, đồng thời
góp phần vào việc giúp các cơ quan áp dụng pháp luật, các nhà nghiên cứu
nhận thức đúng đắn và toàn diện khi giải quyết các tranh chấp về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải hoàn thành các nhiệm vụ:
- Luận văn trình bày một cách khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật

4


gây ra trong pháp luật Việt Nam
- Phân tích, làm rõ các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra trong một số trường hợp cụ
thể, thực trạng của vấn đề bồi thường - những bất cập, vướng mắc.
- Đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
hành vi trái pháp luật gây ra trong một số trường hợp cụ thể.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Lần đầu tiên vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây
ra trong một số trường hợp cụ thể, đang gây rất nhiều bức xúc trong dư luận
xã hội được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý luận và
thực tiễn như BTTH do hành vi gây ô nhiễm môi trường, BTTH do hành vi
xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng…
Với mong muốn đầu tiên là trang bị thêm kiến thức chuyên sâu cho
bản thân và sau đó là góp phần mình vào việc hoàn thiện những quy định về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và bồi thường thiệt hại trong
các trường hợp cụ thể như: BTTH do hành vi xâm phạm mồ mả, BTTH do
hành vi gây ô nhiễm môi trường, BTTH do hành vi xâm phạm quyền lợi
người tiêu dùng. Luận văn đã chỉ ra được những vướng mắc mà thực tế áp
dụng đang tồn tại về vấn đề nghiên cứu, hy vọng thêm vào hành trang kiến
thức cho mỗi người trong chúng ta biết tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình khi bị xâm hại.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

5


Chương 1: Khái quát về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra.
Chương 2: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành

vi trái pháp luật gây ra trong một số trường hợp cụ thể
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra và hướng hoàn thiện.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI
TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA
1.1. Trách nhiệm dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
Luật Dân sự
1.1.1. Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự là một chế định có lịch sử phát triển lâu đời và cho
tới nay vẫn là một trong những chế định có tầm ảnh hưởng rộng rãi và luôn
được nghiên cứu trong nhiều hệ thống pháp luật.
Luật gia Nga, O. S. Ioffe đưa ra định nghĩa: Trách nhiệm dân sự – đó
là những chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ mà việc áp dụng những chế tài đó
sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho bên vi phạm dưới hình thức tước
quyền dân sự (như tước quyền sở hữu, tước quyền thừa kế…) và/hoặc bằng
hình thức đặt ra cho họ những nghĩa vụ mới hoặc nghĩa vụ bổ sung như nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại, nộp phạt vi phạm hoặc trả tiền lãi đối với khoản nợ
chậm trả. Dường như định nghĩa này đã đồng nhất giữa trách nhiệm dân sự
với chế tài dân sự, và cho rằng trách nhiệm dân sự chỉ áp dụng cho vi phạm
nghĩa vụ. Trong khi đó, một số luật gia Nhật Bản lại phân tích rằng, trách
nhiệm dân sự được thể hiện bằng hình thức cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ đối
với tài sản của người mắc nợ; tuy nhiên, có thể có trường hợp trách nhiệm
không có nghĩa vụ, chẳng hạn trách nhiệm áp dụng đối với người bảo lãnh,
người thứ ba sở hữu tài sản thế chấp. Vậy không phải bất kể trường hợp nào

bị áp dụng chế tài cũng đều có sự vi phạm nghĩa vụ. Pháp luật dân sự Nhật
Bản ấn định gánh nặng tương đương lên người bảo lãnh như người thụ trái
chính trong trong nghĩa vụ bảo đảm. Khi có một bảo lãnh đối với một nghĩa

7


vụ chuyển giao mà không thay thế, thì nó được xem như một điều kiện đình
chỉ chuyển đổi thành nghĩa vụ chi trả bồi thường bởi sự không thực hiện
nghĩa vụ chính.
Luật La Mã xác định, ngoài các nguyên nhân hợp pháp như hợp đồng
và chuẩn hợp đồng, nghĩa vụ còn phát sinh ra bởi nguyên nhân bất hợp pháp
như vi phạm (delictum) và chuẩn vi phạm (quasi ex delicto). Vi phạm được
chia thành hai loại là tội hình sự và dân sự phạm. Đối với dân sự phạm, nạn
nhân có thể kiện ra toà xin bồi thường. Dân sự phạm là sự thiệt hại gây ra
một cách bất chính đáng cho người khác, làm nghèo cho nạn nhân nhưng
không làm giàu thêm cho người vi phạm. Vi phạm được quy định bởi luật
Aquilia. Tuy nhiên các luật gia La Mã chưa bao giờ đạt tới nguyên tắc chung
rằng tất cả mọi người phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại mà mình gây
ra cho người khác. Mãi tới thế kỷ XVII và XVIII, nó mới được đưa ra bởi các
luật gia thuộc trường phái luật tự nhiên, tiêu biểu là Grotius và Domat, rồi
được ghi nhận trong các bộ luật của Châu Âu. Ngày nay, BLDS Pháp có qui
định nguyên tắc tổng quát: “Điều 1382: Bất cứ hành vi nào của một người mà
gây thiệt hại cho người khác, thì người đã gây ra thiệt hại do lỗi của mình
phải bồi thường thiệt hại” [10]. Lúc đầu thiệt hại do vi phạm gây ra được tính
theo năm trước khi xảy ra thiệt hại, sau đó thiệt hại được tính để bồi thương
là toàn bộ thiệt hại, kể cả lợi tức. Có thể nhận thấy rằng, Luật La Mã đã đưa
ra hai vấn đề pháp lý quan trọng đó là thiệt hại phát sinh và khoản lời bị mất.
Đó là hai yếu tố quan trọng xác định trách nhiệm dân sự.
Dưới chế độ cũ ở Việt Nam, trách nhiệm dân sự là một nguồn gốc của

nghĩa vụ căn cứ vào hành vi mà Dân luật coi như là trái luật (illicite). Do đó
dân luật đã bắt buộc người làm ra hành vi trái luật phải bồi thường cho người
bị thiệt hại. Tóm lại, trách nhiệm dân sự phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối
với người nào đã làm ra một hành vi trái luật mà gây tổn hại cho người khác.

8


Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học pháp lý Việt Nam nói
riêng đều có chung quan điểm về trách nhiệm dân sự. Về nguyên tắc, trách
nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý. Lý luận chung về Nhà nước và
Pháp luật chỉ ra rằng: “trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà người thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu” [1]. Theo đó trách nhiệm dân
sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm nghĩa vụ dân sự phải gánh chịu.
Hậu quả bất lợi trong trách nhiệm dân sự được xác định bởi đối tượng điều
chỉnh của nó. Đó là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản.
Xem xét dưới góc độ này, BLDS Pháp quy định “hợp đồng giao kết
hợp pháp có giá trị như luật đối với các bên giao kết”, tức là nghĩa vụ hợp
đồng cũng có giá trị như luật [10]. Vì vậy, người vi phạm nghĩa vụ phải gánh
chịu hậu quả bất lợi là trách nhiệm dân sự – một loại trách nhiệm pháp lý.
Trách nhiệm dân sự có những đặc điểm riêng biệt thể hiện bản chất
của các quan hệ dân sự trong xã hội đó là:
- Trách nhiệm dân sự là quan hệ luật tư giữa hai chủ thể độc lập có địa
vị pháp lý bình đẳng, và bên vi phạm phải gánh chịu trực tiếp trước bên có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm chứ không phải chịu trách nhiệm trước
Nhà nước hoặc người khác, trừ trường hợp chế tài vô hiệu hợp đồng do
chống lại trật tự công cộng và đạo đức xã hội;
- Trách nhiệm dân là trách nhiệm tài sản;
- Trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với bên vi phạm phải tương
xứng với hậu quả của hành vi vi phạm, tức là tương xứng với mức độ tổn thất

về vật chất hoặc tinh thần mà người thiệt hại phải gánh chịu;
- Trách nhiệm dân sự phải được áp dụng thống nhất và như nhau đối
với các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.
Một số quan điểm cho rằng cần phải đưa cả những tổn thất về tinh thần

9


là một trong những đặc điểm của trách nhiệm dân sự. Nhưng trên thực tế,
mức độ tổn thất về tinh thần rất khó vật chất hoá, do đó, khó có thể xác định
được mức độ tương xứng về bồi thường vật chất và hầu như chỉ đề cập đến
trong việc xâm phạm các quyền về nhân thân, bởi vậy trong những trường
hợp cụ thể thì mới đặt ra vấn đề bồi thường tổn thất về tinh thần.
Có thể khẳng định, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp
lý, khác với trách nhiệm đạo đức, mà ở đây trách nhiệm pháp lý có mục đích
xác lập các chế tài cụ thể. Trách nhiệm dân sự không phải là một sự trừng
phạt mà là một biện pháp buộc người có hành vi vi phạm pháp luật phải có
nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra. Trách nhiệm
dân sự khác với trách nhiệm hình sự ở chỗ: trách nhiệm hình sự tập trung sự
chú ý vào hành vi; còn trách nhiệm dân sự tập trung sự chú ý vào thiệt hại
hay hậu quả của hành vi. Do đó, trong trách nhiệm dân sự, dù có hành vi vi
phạm nhưng không có sự thiệt hại, thì không dẫn tới nghĩa vụ bồi thường.
Tuy nhiên, trong trách nhiệm hình sự người ta cũng quan tâm tới hậu quả ở
mức độ nhất định. Trong trách nhiệm dân sự đôi khi người ta cũng chỉ chú ý
tới hành vi trong một dạng trách nhiệm nhất định nào đó. Trách nhiệm hình
sự thể hiện sự phản ứng của xã hội đối với kẻ phạm tội trên cơ sở suy diễn
hành vi bị trừng phạt đó chống lại sự bình ổn chung của cộng đồng. Ngược
lại, trách nhiệm dân sự không phải là sự phản ứng của xã hội đối với người vi
phạm mà là sự hỗ trợ của pháp luật đối với người bị thiệt hại do vi phạm gây
ra để khôi phục lại tình trạng tài chính như khi không có sự vi phạm. Vì vậy

các chế tài dân sự mang tính chất tư, chứ không mang tính chất công như chế
tài hình sự. Dù sao cũng có những vi phạm xảy ra làm phát sinh cả trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm lương tâm.
Trách nhiệm dân sự được chia thành trách nhiệm theo hợp đồng và
trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trách nhiệm hợp đồng phát sinh khi hợp đồng

10


không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, gây thiệt hại cho bên bị vi
phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường. Trách nhiệm ngoài hợp đồng phát
sinh khi một người có lỗi gây thiệt hại cho một người khác và người bị thiệt
hại đòi hỏi sự bồi thường. Trách nhiệm hợp đồng hay trách nhiệm ngoài hợp
đồng giống nhau ở chỗ đều phát sinh từ việc vi phạm nghĩa vụ, nhưng được
phân biệt bởi nghĩa vụ bị vi phạm phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các qui định
của pháp luật. Tuy nhiên cần phân biệt thêm rằng, trách nhiệm hợp đồng là
một nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ khác với hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng
phát sinh trên cơ sở sự thống nhất ý chí của các đương sự hay hành vi pháp
lý. Còn trách nhiệm hợp đồng là nghĩa vụ bồi thường phát sinh ngoài ý chí
của đương sự, do luật định, tức là dù các bên không thỏa thuận về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, nhưng khi xảy ra tình huống được
quy định trong văn bản quy phạm liên quan thì bên có lỗi vẫn phải bồi
thường thiệt hại. Do hợp đồng là sự thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên
cho nên khi hợp đồng bị vi phạm mà không dự tính được và không có quy
định trong hợp đồng thì người vi phạm không mong muốn phải gánh chịu chế
tài như vậy. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng nếu các bên đặt ra các giải pháp và
tự thi hành trong việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thì không dẫn tới tranh
chấp pháp lý. Pháp luật phải bảo vệ quyền và lợi ích chung của các bên trong
quan hệ xã hội dựa trên những nguyên tắc chung, bởi vậy, nếu các bên có
thỏa thuận và tự nguyện thi hành là một điều tốt, nhưng có những trường hợp

pháp luật phải can thiệp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của một bên cũng
như bảo vệ trật tự trong xã hội.
Nói tóm lại, có thể khẳng định: trách nhiệm dân sự là một chế định lớn,
vô cùng quan trọng, chứa đựng nhiều kỹ thuật pháp lý phức tạp. Đây cũng
chính là chế định nền tảng của chế định bồi thường thiệt hại nói chung và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng.

11


1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, nhìn nhận dưới góc độ pháp lý, xuất phát từ nguyên tắc: Khi
một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì
chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu
một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là
bồi thường thiệt hại mà pháp luật gọi đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
đây là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm
nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì phải bồi thường
những tổn thất mà mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý nên
ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực
hiện bằng cưỡng chế nhà nước… thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn có
những đặc điểm riêng sau đây:
- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách
nhiệm dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Hậu quả pháp lý
khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại
và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều

chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI cùng các
văn bản hướng dẫn thi hành BLDS 2005.
- Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra
khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi
phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của
người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều

12


kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường
những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt
trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi không có đủ các điều
kiện trên, điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
- Về hậu quả: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một
hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây
ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc
phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không
sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh
thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy
định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính
vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho
người bị thiệt hại.
- Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi
gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn được áp dụng cả đối với
những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ
của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt
hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy

nghề…
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi
lẽ: có hợp đồng hay không có hợp đồng chính là yếu tố quan trọng để từ đó
có thể xác định cơ chế giải quyết bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có
hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì

13


phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Việc phân
biệt giữa trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng có một ý
nghĩa pháp lý quan trọng, nhất là trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh.
Đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh lỗi
của bị đơn đã gây thiệt hại cho nguyên đơn. Khác hơn, trong trách nhiệm hợp
đồng, nguyên đơn không phải chứng minh lỗi của bị đơn. Ngược lại, bị đơn
phải chứng minh sự vi phạm hợp đồng không do lỗi của bị đơn nếu bị đơn
không muốn gánh chịu chế tài. Trong đời sống xã hội, khi xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ, mỗi người phải tôn trọng và không được xâm phạm tới lợi
ích của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước và phải tuân
thủ pháp luật. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ các quyền dân sự của mọi người
và mỗi người. Khi các quyền dân sự bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự bảo
vệ hay yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Hệ quả tất yếu của
các nguyên tắc này là: “Người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” (Điều 604, khoản 1, BLDS
2005) [14].

Như vậy, cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng bao gồm:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng luôn dựa trên cơ sở
một hợp đồng có trước tức là giữa người được hưởng bồi thường và người
gây ra thiệt hại trước đó phải có một quan hệ hợp đồng. Nếu giữa hai bên
không tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là
những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và bên gây thiệt hại chỉ có thể phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chính vì vậy, bồi
thường thiệt hại trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy bỏ hợp đồng và vi

14


phạm đề nghị giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi lẽ
hợp đồng chưa được giao kết giữa các bên hoặc được coi là chưa hề tồn tại.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có
hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng hợp đồng gây ra. Nếu giữa các bên tồn tại quan hệ hợp đồng
nhưng hành vi gây thiệt hại không phải là do vi phạm hợp đồng thì trách
nhiệm phát sinh cũng không phải là trách nhiệm theo hợp đồng.
- Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là các bên trong quan
hệ hợp đồng đó. Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng được áp dụng khi hành
vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng. Hành vi vi phạm
nghĩa vụ theo hợp đồng chỉ có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên
tham gia trong hợp đồng đó. Do đó, nếu người thứ ba có lỗi để gây ra thiệt
hại cho một bên trong hợp đồng hoặc một bên trong hợp đồng gây ra thiệt hại
cho người thứ ba thì trách nhiệm dân sự phát sinh chỉ có thể là trách nhiệm
ngoài hợp đồng. Trường hợp này không áp dụng đối với hợp đồng vì lợi ích
của người thứ ba bởi lẽ đây là trường hợp ngoại lệ vì người thứ ba cũng là
người có quyền lợi liên quan và được đề cập đến trong hợp đồng.

1.1.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trong thực tiễn đời sống hàng ngày, thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân, tài sản, danh dự, uy tín của
các tổ chức xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là do lực lượng tự
nhiên, có thể do hành vi của con người gây ra, trong đó phần lớn là do hành
vi trái pháp luật của con người gây ra. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong xã hội, lợi ích của Nhà nước, BLDS đã quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại với tư cách là một chế định dân sự độc lập nhằm
khôi phục lợi ích bị xâm phạm và bù đắp những thiệt hại xảy ra cho người bị
thiệt hại.

15


Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng được
phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người
nào đó có hành vi vi phạm nghĩa vụ ngoài hợp đồng do pháp luật quy định,
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường
thiệt hại do mình gây ra. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm
đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân
và tổ chức khác.
So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau:
- Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp
luật quy định. Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác thì trách nhiệm dân
sự có thể phát sinh trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, trách
nhiệm phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên chỉ có thể là trách nhiệm

theo hợp đồng ví dụ như buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, phạt vi
phạm và/ hoặc bồi thường thiệt hại.
- Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định.
Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên,
bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các
bên bên thoả thuận nên các bên cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện
phát sinh có thể không bao gồm đầy đủ những điều kiện trên như bên vi
phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải bồi thường thiệt hại.
- Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

16


hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn
áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người
giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp
nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề… Tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia
hợp đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. Hay nói các khác, các
chủ thể trong hợp đồng không thể thoả thuận bất kỳ ai không tham gia hợp
đồng sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không được sự đồng ý
của họ.
- Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên
tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại
chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại
có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và
lâu dài của họ. Còn đối với bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì các bên có
thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hơn hoặc

cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận.
Một vấn đề được đặt ra là trong trường hợp một bên có nghĩa vụ theo
hợp đồng nhưng nghĩa vụ đó cũng được pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng quy định thì khi vi phạm những nghĩa vụ đó sẽ phát
sinh trách nhiệm theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng và người bị thiệt hại có
thể lựa chọn một trong hai loại trách nhiệm để kiện yêu cầu bồi thường hay
không? Ví dụ theo quy định tại khoản 2 điều 3 Luật khám bệnh, chữa bệnh
(có hiệu lực từ 01/01/2011) thì một trong những nguyên tắc trong hành nghề
khám bệnh, chữa bệnh là: “Tôn trọng quyền của người bệnh, giữ bí mật
thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án…”
[15], trừ trường hợp được người bệnh cho phép công bố thông tin. Nhưng

17


trên thực tế, có khá nhiều trường hợp bác sỹ chữa bệnh cho bệnh nhân rồi lại
vi phạm quy định về mổ xẻ hoặc bảo mật thông tin của bệnh nhân. Hay
trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông gây tai nạn, làm thiệt
hại về tính mạng, sức khoẻ cho hành khách đi trên phương tiện vận chuyển…
Trong trường hợp này, rõ ràng đã có căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng vì bên gây thiệt hại đã có hành vi vi phạm
nghĩa vụ theo hợp đồng. Do đó, bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại theo hợp đồng trên cơ sở thoả thuận của các bên, điều đó có nghĩa
rằng, các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự đã cụ thể hoá những nghĩa
vụ do pháp luật quy định vào trong hợp đồng và thoả thuận đó có thể khác
pháp luật thì pháp luật vẫn sẽ tôn trọng sự thoả thuận của họ nếu thoả thuận
đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Chính
vì vậy khi phát sinh trách nhiệm thì các bên cũng chỉ có thể áp dụng một
phương thức là kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chứ không

thể tự do lựa chọn phương thức có lợi nhất cho mình. Ví dụ hành khách bị
thiệt hại về tính mạng mà theo hợp đồng vận chuyển hành khách các bên có
thoả thuận mức bồi thường thấp hơn mức bồi thường do pháp luật quy định
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bị xâm phạm về tính
mạng thì bên bị thiệt hại cũng chỉ có thể yêu cầu bồi thường theo hợp đồng
mà thôi.
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có hai chức năng chính:
Thứ nhất, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể có quyền
lợi bị xâm hại.
Thứ hai, nhằm răn đe, phòng ngừa đối với những người có hành vi gây
thiệt hại.
Tuy nhiên, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là
các quy tắc nhằm khôi phục thiệt hại, bởi khi thiệt hại đã xảy ra thì không

18


×