Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.1 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LÊ THỊ TUYẾT NHUNG

ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2020

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Đà Nẵng- Năm 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LÊ THỊ TUYẾT NHUNG

ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐẾN NĂM 2020

Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60.31.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HIỆP

Đà Nẵng - Năm 2012




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Lê Thị Tuyết Nhung


MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FOB
CMT
ODM
OBM
OEM
WTO
SAFSA
ASEAN
CHDC
GTSX
CN
CNCB

DN
VĐT
VĐTNN

GTXK
ĐVT
APEC
KNXK
TP
R&D
SP
UBND

Phương thức xuất khẩu có tham gia vào hệ thống phân phối
Phương thức gia công xuất khẩu
Sản xuất dưới dạng thiết kế gốc
Sản xuất nhãn hiệu gốc
Sản xuất theo tiêu chuẩn khách hàng
Tổ chức thương mại thế giới
Chuỗi cung ứng dệt may ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Cộng hòa dân chủ
Giá trị sản xuất
Công nghiệp
Công nghiệp chế biến
Doanh nghiệp
Vốn đầu tư
Vốn đầu tư nước ngoài
Cố định
Giá trị xuất khẩu

Đơn vị tính
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
Kim ngạch xuất khẩu
Thành phố
Nghiên cứu và phát triển
Sản phẩm
Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
2.12
2.13
2.14
2.15
2.16
2.17
3.1


Tên bảng
Cơ cấu tiêu thụ sản phẩm dệt may Đà Nẵng
Kim ngạch xuất khẩu dệt may Đà Nẵng
Tỷ trọng KNXK Dệt may Đà Nẵng so với cả nước
Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng dệt may Đà Nẵng
Thị trường xuất khẩu hàng dệt may tại công ty dệt
may Hòa Thọ
Thị trường xuất khẩu dệt may tại công ty CP dệt may
29.3
Cơ cấu thị trường xuất khẩu của công ty CP Vinatex
Đà Nẵng
Kim ngạch xuất khẩu dệt may của một số quốc gia
trong khu vực châu Á năm 2008
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu tại công ty dệt may Hòa
Thọ
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu tại công ty CP dệt may
29.3
Đơn giá bình quân/m2 hàng dệt may nhập vào Mỹ
Tỷ trọng, tốc độ tăng GTSX ngành dệt may
Cơ cấu GTSX dệt may theo ngành
Lao động ngành dệt may Đà Nẵng qua các năm
Cơ cấu lao động tại các doanh nghiệp dệt may Đà
Nẵng năm 2009
So sánh chi phí nhân công ngành dệt may năm 2008
của một số nước trên thế giới
Sản lượng sản phẩm chủ yếu ngành dệt may Đà Nẵng
Mục tiêu của ngành dệt may Đà Nẵng trong thời gian
đến

Trang

45
47
48
49
50
51
51
53
53
54
55
56
58
59
60
61
62
79


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Số hiệu hình vẽ
1.1
1.2
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6

2.7

Tên hình vẽ
Chuỗi giá trị toàn cầu
Mô hình phân tích Porter Five Forces
ngành dệt may xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng GDP Đà Nẵng theo giá
so sánh
Cơ cấu tiêu thụ sản phẩm dệt may Đà Nẵng
Đóng góp của xuất khẩu dệt may vào
KNXK toàn thành phố
Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng dệt may
Đà Nẵng năm 2011
Đóng góp của ngành dệt may trong GTSX
toàn ngành công nghiệp
Cơ cấu GTSX dệt may theo thành phần
kinh tế
Vị trí của các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Trang
11
36
43
46
47
49
57
58
64



1

MỞ ĐẦU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Dệt may Việt Nam là ngành có bề dày lịch sử và có những đóng góp quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; thể hiện rõ ở hai khía
cạnh là giải quyết nhiều việc làm hàng năm, nhất là lao động nữ và định vị xuất
khẩu của Việt Nam trong bản đồ thương mại quốc tế. Hiện nay, đây là mặt hàng
xuất khẩu hàng đầu và có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm. Sản phẩm dệt may
của Việt Nam cũng đã thiết lập được vị thế trên các thị trường khó tính như EU, Mỹ
và Nhật Bản. Trong giai đoạn 2007-2009, Việt Nam đứng trong danh sách TOP 10
nước có kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới và năm 2010 đứng ở vị trí
thứ 7 với thị phần xuất khẩu gần 3% [4].
Với Đà Nẵng – trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung – Tây Nguyên,
ngành dệt may được xem là ngành công nghiệp mũi nhọn, đã có những đóng góp
tích cực vào sự phát triển kinh tế của thành phố. Đây là ngành xuất khẩu chủ lực
đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho thành phố. Năm 2011, dệt may đã đóng góp
26,47% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Sự phát triển của ngành còn
góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động giúp nâng cao mức sống cho
người dân. Cơ cấu sản phẩm của ngành cũng đa dạng và phong phú; trong đó sản
phẩm may mặc được xem là chủ lực, tạo nên thế mạnh của ngành. Tuy nhiên, vẫn
còn nhiều vấn đề liên quan đến sự phát triển của ngành trong thời gian đến mà
thành phố cần phải quan tâm hỗ trợ một cách thỏa đáng như: tạo nguồn nguyên liệu
đầu vào, vấn đề về công nghệ, vốn và đặc biệt là hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang
thị trường quốc tế.
Quá trình tự do hóa thương mại và hội kinh tế toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ;
đây là xu thế phát triển chung của thế giới. Để không nằm ngoài sự phát triển, đủ
sức cạnh tranh, đứng vững và mở rộng thị phần trên thị trường quốc tế thì yêu cầu

đặt ra đối với ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng
là rất lớn. Hội nhập kinh tế đã mở ra nhiều cơ hội cho ngành dệt may Đà Nẵng mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhưng bên cạnh đó sản phẩm của ngành cũng


2

đương đầu với không ít những thách thức lớn. Đó là sự cạnh tranh khốc liệt từ các
đối thủ lớn trên trường quốc tế về mẫu mã, chất lượng, giá thành; sự thay đổi trong
cơ chế, chính sách, cũng như những trở ngại trong môi trường kinh doanh quốc tế.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra những luận cứ khoa học để đẩy mạnh xuất
khẩu hàng dệt may thành phố Đà Nẵng là thiết thực và cấp bách.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trong cơ cấu giá trị tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, ngành dệt may Đà Nẵng
có giá trị xuất khẩu hàng năm chiếm khoảng 80% trong toàn bộ giá trị sản xuất của
ngành. Do vậy mà sự biến động của kinh tế thế giới có ảnh hưởng lớn đến sự tăng
trưởng và phát triển của ngành. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế của những
nước lớn vốn là thị trường chủ lực của sản phẩm dệt may Đà Nẵng có những biến
động lớn và đang trong thời kỳ khôi phục suy thoái. Như sự sụp đổ của hàng loạt
ngân hàng lớn của Mỹ, thiên tai do sóng thần ở Nhật…. Không chỉ đối mặt với
những khó khăn về kinh tế tại thị trường nhập khẩu, ngành dệt may xuất khẩu còn
phải đối mặt với nhiều khó khăn khác. Phải kể đến là các đối thủ cạnh tranh lớn của
thế giới, nhất là Trung Quốc. Do vậy, các doanh nghiệp luôn tìm hướng đi riêng cho
mình bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm, giảm giá
thành, tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới bên cạnh những thị trường hiện tại nhằm
chia sẻ thị phần và chia sẻ rủi ro khi có biến động xảy ra. Và ở đó, vai trò của địa
phương, của nhà nước là hết sức quan trọng. Địa phương phải có những chính sách
hỗ trợ cho sự phát triển của ngành, hỗ trợ các doanh nghiệp trong công tác xúc tiến
thương mại, ngoại giao, tìm kiếm thị trường. Do đó, không ít tác giả đã đi sâu
nghiên cứu ngành dệt may nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng giúp cho

doanh nghiệp và địa phương (nhà nước) có được những cái nhìn khách quan và tổng
thể; để từ đó có hướng đi phù hợp trong điều kiện phát triển kinh tế toàn cầu như
hiện nay.
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về ngành dệt may nói
chung và dệt may xuất khẩu nói riêng. Nhưng mỗi nghiên cứu lại có hướng tiếp cận


3

vấn đề ở những khía cạnh, phạm vi và đối tượng khác nhau. Dưới đây là tổng hợp
những nghiên cứu đó:
- “Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế (nghiên cứu điển hình ngành dệt may)” của TS Hồ Tuấn,
trường Đại học Kinh tế quốc dân (2009). Nghiên cứu này đã hệ thống hóa cơ sở lý
luận tương đối đầy đủ về tốc độ và chất lượng tăng trưởng, trong đó nghiên cứu
điển hình là ngành dệt may. Nghiên cứu cũng đưa ra được các quan điểm độc lập về
nâng cao chất lượng ngành dệt may Việt Nam trong bối cạnh hậu WTO; từ đó cũng
đã đề xuất được những giải pháp hữu ích nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng
ngành dệt may Việt Nam trung và dài hạn [19].
- “Phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của các doanh nghiệp
may xuất khẩu ở Việt Nam” nghiên cứu của TS Đỗ Thị Đông, trường Đại học Kinh
tế quốc dân, (2011). Nghiên cứu này hệ thống hóa một cách đầy đủ lý luận về chuỗi
giá trị và cách xác định chuỗi giá trị trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm nhất
định. Nghiên cứu đã xác định chuỗi giá trị của các doanh nghiệp may xuất khẩu ở
Việt Nam, đánh giá việc tổ chức liên kết giữa các doanh nghiệp may và các khâu
khác trong quá trình tạo ra và đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Bên cạnh đó,
nghiên cứu đã đưa ra được những giải pháp tăng cường tham gia chuỗi giá trị và tổ
chức quan hệ liên kết của các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam với mục
đích tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho các doanh nghiệp [9].
- “Đẩy mạnh việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam” của nhóm tác giả Trường Đại học
Ngoại thương (2008). Công trình nghiên cứu này được xem là một công trình tương
đối hoàn thiện về chuỗi giá trị và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may
ở Việt Nam cho đến nay [13].
- “Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt – may Đà Nẵng trước sức ép của quá
trình hội nhập” nghiên cứu của Ninh Thị Thu Thủy – Trường Đại học Kinh tế, Đại
học Đà Nẵng. Nghiên cứu này đã đánh giá được năng lực cạnh tranh của sản phẩm


4

dệt – may Đà Nẵng và để ra được những giải pháp phù hợp nhằm tăng được năng
lực cạnh tranh sản phẩm ngành dệt – may Đà Nẵng trong quá trình hội nhập [18].
Tuy nhiên, nhìn chung mỗi nghiên cứu đều tiếp cận phân tích ngành dệt may
và dệt may xuất khẩu ở mỗi khía cạnh, góc độ khác nhau; và ở đây chủ yếu phân
tích tổng quan ngành dệt may Việt Nam. Có những công trình nghiên cứu về đẩy
mạnh xuất khẩu dệt may nhưng những giải pháp đưa ra không còn phù hợp với điều
kiện hiện tại, khó áp dụng khi Việt Nam đã gia nhập WTO và trong bối cảnh kinh tế
toàn cầu đang có những thay đổi mới. Và hiện nay chưa có công trình nghiên cứu
tổng quan và cụ thể về hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu dệt may tại thành phố Đà
Nẵng theo mục tiêu và hệ thống câu hỏi nghiên cứu mà tác giả đã đưa ra bên dưới.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu nhằm các mục tiêu sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu;
- Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu dệt may và hoạt động đẩy mạnh
xuất khẩu dệt may Đà Nẵng thời gian qua; tìm ra nguyên nhân của những kết quả
cũng như những tồn tại;
- Đề xuất những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Đà Nẵng
trong thời gian đến.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

+ Nội hàm của đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của một địa phương là gì?
+ Các chỉ tiêu nào dùng để đánh giá kết quả của hoạt động đẩy mạnh xuất
khẩu hàng dệt may?
+ Những nhân tố nào ảnh hưởng đến hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may?
+ Thực trạng đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may tại thành phố Đà Nẵng trong
thời gian qua như thế nào?
+ Những giải pháp nào thiết thực và phù hợp đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may Đà Nẵng trong thời gian đến?


5

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoạt
động xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu hàng
dệt may Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay và đề xuất giải pháp định
hướng đến năm 2020.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với mục tiêu đề ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông dụng
như sau:
- Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tại bàn
được sử dụng để thu thập dữ liệu thứ cấp nhằm tìm kiếm, nghiên cứu và tổng hợp
những tài liệu liên quan đến vấn đề xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
phục vụ nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích dữ liệu nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp theo
cách tiếp cận suy diễn và quy nạp để trả lời các câu hỏi nghiên cứu của đề tài.
Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Ý nghĩa lý luận:

Đề tài đã tổng hợp một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về xuất khẩu và
đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của một địa phương.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài đã phân tích và đánh giá xác thực về thực trạng xuất khẩu dệt may cũng
như vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của thành
phố Đà Nẵng; qua đó đánh giá được những thành công, hạn chế và nguyên nhân tồn
tại trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu dệt may của thành phố. Bên cạnh đó, những
đề xuất của đề tài về giải pháp cho hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu dệt may của
thành phố trong thời gian đến theo hướng phù hợp với điều kiện của địa phương và
có tính khả thi sẽ là tài liệu hỗ trợ xây dựng và thực thi chính sách có liên quan đối
với các bên hữu quan.


6

KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết thành 3 chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đẩy mạnh xuất khẩu.
- Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may và công tác đẩy mạnh xuất
khẩu hàng dệt may thành phố Đà Nẵng.
- Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may thành phố Đà Nẵng
đến năm 2020.


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
1.1. Những vấn đề chung về xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu

Trong lý luận thương mại quốc tế, khái niệm xuất khẩu được định nghĩa: Xuất
khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm
phương tiện thanh toán, với mục tiêu là lợi nhuận. Tiền tệ có thể là ngoại tệ đối với
một quốc gia hoặc cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là thu được một
khoảng ngoại tệ dựa trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng quốc gia trong
phân công lao động quốc tế. Khi hoạt động trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia đều
có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia hoạt động này [14].
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương. Nó xuất
hiện từ rất sớm trong sự phát triển của xã hội và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả
về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức sơ khai của chúng chỉ là hoạt động trao đổi
hàng hóa nhưng đến nay nó đã phát triển mạnh và biểu hiện dưới nhiều hình thức.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực và trong mọi điều kiện của nền
kinh tế. Từ xuất khẩu hàng tiêu dùng đến tư liệu sản xuất, máy móc,… Tất cả các
hoạt động này nhằm đem lại lợi ích cho quốc gia nói chung và các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng.
Hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra
trong một thời gian rất ngắn, cũng có thể kéo dài trong nhiều năm và có thể diễn ra
trên phạm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Một số lý thuyết chủ đạo làm cơ sở, nền tảng cho xuất khẩu [3]
Lý thuyết cổ điển
- Lợi thế tuyệt đối Adam Smith (1723 - 1790): Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt
được trong trao đổi thương mại quốc tế khi mỗi quốc gia tập trung chuyên môn hóa
vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp hơn hẳn so
với các quốc gia khác và thấp hơn mức chi phí trung bình của quốc tế thì tất cả các
quốc gia đều cùng có lợi.


8

Quá trình trao đổi trên cơ sở lợi thế tuyệt đối làm khối lượng tổng sản phẩm

toàn xã hội tăng lên, làm cho các nguồn lực trong nước được sử dụng một cách có
hiệu quả hơn. Thương mại quốc tế sẽ tạo điều kiện để phát triển những ngành có lợi
thế và thu hẹp những ngành bất lợi thế, là cơ sở lý luận sau này cho việc chuyển đổi
cơ cấu kinh tế giữa các quốc gia. Lý thuyết này có ưu điểm là đã khắc phục được
hạn chế của lý thuyết trọng thương, đó là khẳng định được cơ sở tạo ra giá trị là sản
xuất chứ không phải lưu thông. Chứng minh thương mại đem lại lợi ích cho cả hai
quốc gia. Tuy nhiên, lý thuyết này cũng còn có nhiều điểm hạn chế: Không giải
thích được hiện tượng chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế và thương mại
quốc tế sẽ xảy ra như thế nào với những nước không có lợi thế tuyệt đối. Coi lao
động là yếu tố sản xuất duy nhất tạo ra giá trị, là đồng nhất và được sử dụng với tỷ
lệ như nhau trong tất cả các loại hàng hóa.
- Lợi thế so sánh của David Ricardo (1772 - 1823): Lợi thế so sánh là một
nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên
môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí
tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi quốc
gia sẽ được lợi nếu nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí
tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên tắc lợi
thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối
có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản
xuất mọi hàng hóa.
Lý thuyết này có ưu điểm là đã mở rộng phân tích lợi thế so sánh cho nhiều
hàng hóa và nhiều quốc gia. Trường hợp có nhiều hàng hóa với chi phí không đổi
và có hai quốc gia thì lợi thế so sánh của từng hàng hóa sẽ được sắp xếp theo thứ tự
ưu tiên từ hàng hóa có lợi thế so sánh cao nhất đến hàng hóa có lợi thế so sánh thấp
nhất. Trường hợp có nhiều quốc gia thì có thể gộp chung tất cả các nước khác thành
một nước gọi là phần còn lại của thế giới và những phân tích như trên vẫn giữ
nguyên tính đúng đắn của nó.


9


Lợi thế so sánh không chỉ áp dụng trong trường hợp thương mại quốc tế mà
còn có thể áp dụng cho các vùng trong một quốc gia một cách hoàn toàn tương tự.
Lý thuyết tân cổ điển
- Lý thuyết về nguồn lực sản xuất vốn có (Lý thuyết H – O): Câu hỏi mà
Heckscher và Ohlin muốn trả lời là: Tại sao năng suất lao động lại khác nhau giữa
các nước. Theo Ricardo thì lý do là công nghệ sản xuất ở các nước khác nhau. Tuy
nhiên, Heckscher và Ohlin lại cho rằng nguyên nhân là ở chỗ các quốc gia có sự
khác nhau về mức độ trang bị cũng như về mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất. Cụ
thể là, các quốc gia được trang bị với mức độ khác nhau các yếu tố như đất đai, lao
động, vốn và tài nguyên thiên nhiên, điều này dẫn đến hình thành lợi thế so sánh.
Lý thuyết hiện đại
- Thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo quy mô: Đối với những nước
có điều kiện sản xuất giống nhau, một trong những lý do quan trọng dẫn đến trao
đổi thương mại quốc tế là tính hiệu quả tăng dần theo quy mô. Sản xuất được coi là
có hiệu quả nhất khi được tổ chức trên quy mô lớn. Lúc đó, một sự gia tăng đầu vào
với tỷ lệ nào đó sẽ dẫn đến sự gia tăng đầu ra với tỷ lệ cao hơn.
- Thương mại dựa trên yếu tố công nghệ: Lý thuyết này có thể giải thích cho
hai dạng thương mại. Thứ nhất, nếu cả hai quốc gia đều có tiềm năng công nghệ
như nhau thì vẫn có thể hình thành thương mại, bởi vì phát minh sáng chế trong
trường hợp nào đó sẽ đối lại được trò tiên phong của nước kia trong một lĩnh khác.
Dạng thương mại này thường diễn ra giữa các nước phát triển. Thứ hai, thương mại
hình thành khi một nước tỏ ra năng động hơn về công nghệ so với nước kia. Khi đó,
nước thứ nhất thường xuất khẩu những mặt hàng mới và phức tạp để đổi lấy những
mặt hàng đã chuẩn hóa từ nước thứ hai.
- Lý thuyết thương mại liên quan đến cầu: Cách tiếp cận thứ nhất cho rằng, các
dạng biến tướng khác nhau của cùng một loại SP đòi hỏi tỷ lệ các yếu tố sản xuất
dùng để sản xuất ra chúng là khác nhau. Cách tiếp cận thứ hai gắn liền sự phân hóa
sản phẩm với hiệu suất tăng dần theo quy mô. Cách thức hiệu quả nhất để cung cấp



10

các dạng biến tướng của sản phẩm là thực hiện chuyên môn hóa sản xuất từng dạng
biến tướng và sau đó tiến hành trao đổi.
- Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm: Lý thuyết này đã đưa ra cách giải
thích khác về động cơ buôn bán giữa các nước. Lý thuyết chu kỳ sống của SP xem
xét khả năng xuất khẩu tiềm tàng của sản phẩm gắn liền với 4 pha trong chu kỳ
sống của nó: giai đoạn đổi mới sản phẩm, giai đoạn tăng trưởng sản phẩm, giai đoạn
bão hòa và giai đoạn suy giảm – triệt tiêu.
Xuất khẩu trong xu thế toàn cầu hóa có sự tham gia của chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị toàn cầu là chuỗi giá trị bao gồm các công việc như thiết kế, sản
xuất, marketing, phân phối và dịch vụ khách hàng. Các hoạt động có thể do một
doanh nghiệp tự thực hiện hoặc được phân chia cho nhiều doanh nghiệp trong phạm
vi một hoặc nhiều khu vực địa lý [9].
Ngày nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa, hiếm có một doanh nghiệp nào có
thể thống lĩnh toàn bộ chuỗi giá trị. Doanh nghiệp dựa vào thế mạnh của mình để
tham gia vào chuỗi giá trị bằng cách chuyên môn hóa từng giai đoạn. Hình 1.1 dưới
đây sẽ minh họa về giá trị gia tăng mà các doanh nghiệp thường tạo ra trong chuỗi
giá trị toàn cầu.
Hình vẽ cũng sẽ cho ta thấy được rằng giá trị mà các doanh nghiệp tạo ra trong
quá trình sản xuất hay trong một chuỗi giá trị là khác nhau. Trong khi các doanh
nghiệp chuyên tập trung vào nghiên cứu và phát triển, thiết kế, phân phối và
marketing có thể tạo ra một mức giá trị lớn thì các doanh nghiệp lắp ráp và sản xuất
lại chỉ tạo ra một phần giá trị khiêm tốn và là phần thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn
cầu. Do đó, khi tham gia xuất khẩu, dựa vào chuỗi giá trị toàn cầu mà doanh nghiệp
có thể biết được chỗ đứng của mình ở đâu và biết được giá trị mà doanh nghiệp có
được là cao hay thấp.



11

Giá trị gia
tăng

R&D

Thiết kế sản
phẩm

Lắp ráp và
sản xuất

(Nguồn:[9] )

Phân phối

Marketing

Các công đoạn của quá trình sản xuất

Hình 1.1. Chuỗi giá trị toàn cầu
Các lý thuyết thương mại quốc tế ra đời trong những điều kiện thương mại
quốc tế khác nhau nhằm thực hiện các mục tiêu nhất định, và do vậy, chúng chỉ
đúng trong những điều kiện lịch sử nhất định. Cho đến nay, vẫn chưa có lý thuyết
nào giải thích một cách đầy đủ về bản chất của thương mại quốc tế. Vì vậy, các lý
thuyết còn được tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh và kiểm nghiệm trong thực tiễn hoạt
động thương mại.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu [14]
Một là, xuất khẩu tạo nguồn chủ yếu cho nhập khẩu

Xuất khẩu sẽ tạo ra nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với các quốc gia đang phát triển thì quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là bước đi thích hợp và đúng đắn nhằm đưa đất nước
thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Nhưng quá trình công


12

nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đòi hỏi một lượng vốn đủ lớn để nhập khẩu trang thiết
bị, công nghệ hiện đại, tiên tiến.
Thực tế cho thấy, nguồn vốn nhập khẩu của quốc gia được huy động từ các
nguồn chính như: Đầu tư nước ngoài, vay nợ từ các nguồn viện trợ; thu từ các hoạt
động du lịch, dịch vụ; thu từ ngoại tệ trong nước; thu từ hoạt động xuất khẩu. Trong
đó, tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận
được, nhưng huy động được nguồn vốn này không phải là việc dễ dàng. Để sử dụng
được nguồn vốn này, nước đi vay phải chịu thiệt thòi, chịu những điều khoản có thể
bất lợi cho đất nước cả về kinh tế lẫn chính trị.
Do vậy, xuất khẩu là một hoạt động tạo nguồn vốn quan trọng nhất. Xuất khẩu
tạo tiền đề cho nhập khẩu, ảnh hưởng đến cả quy mô và tốc độ tăng trưởng của hoạt
động nhập khẩu. Và ở một số quốc gia, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng kém phát triển là thiếu nguồn vốn và cho rằng nguồn vốn đầu tư nước ngoài là
chủ yếu; song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi
chủ đầu tư và đối tượng cho vay nhận thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu –
nguồn vốn duy nhất để trả nợ.
Hai là, xuất khẩu giúp các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh
Để hàng hóa được xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu phải
lựa chọn mặt hàng có chi phí nhỏ hơn chi phí trung bình trên thế giới. Đó là những
mặt hàng phát huy được lợi thế của đất nước cả về tương đối và tuyệt đối. Hoạt
động xuất khẩu thúc đẩy khai thác có hiệu quả những lợi thế của đất nước vì khi
xuất khẩu doanh nghiệp sẽ có điều kiện tiếp cận máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại

để nâng cao năng suất lao động.
Ba là, xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển
Dưới tác động của hoạt động xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế
giới đã và đang có sự chuyển biến khá mạnh mẽ. Xuất khẩu đã làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Với đặc
điểm quan trọng là tiền tệ làm phương tiện thanh toán, xuất khẩu đã góp phần tăng


13

dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển đồng tiền
không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan
trọng trọng việc điều hòa về cung cấp ngoại tệ, ổn định sản xuất, góp phần vào tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Bốn là, xuất khẩu góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân
Ở những nước đang phát triển, nguồn lao động rất dồi dào với giá nhân công
rẻ; hoạt động xuất khẩu đã thu hút và tạo việc làm cho hàng triệu lao động thông
qua việc sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu
dùng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của nhân dân.
Chính nhờ hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, người lao động có việc làm,
góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, một phần giảm được các tệ nạn xã
hội, đời sống tinh thần cũng được nâng lên.
Năm là, đây là cơ sở mở rộng và đẩy mạnh các quan hệ kinh tế đối ngoại
Hoạt động xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại,
phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở, tiền đề vững chắc để xây dựng
các mối quan hệ kinh tế đối ngoại; hơn nữa, còn kéo theo sự phát triển của các mối
quan hệ như tín dụng quốc tế, bảo hiểm quốc tế, du lịch quốc tế…; và ngược lại, sự
phát triển của các ngành này cũng tác động lại và tạo điều kiện cho hoạt động xuất

khẩu phát triển.
Sáu là, vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp
Cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế toàn cầu thì xu hướng vươn ra thị trường
quốc tế là xu hướng chung của tất cả các quốc gia và doanh nghiệp. Xuất khẩu là
một trong những hướng đi mà các doanh nghiệp thường chọn để thực hiện chiến
lược bành trướng, phát triển và mở rộng thị trường của mình. Nhờ đó mà thương
hiệu của doanh nghiệp được lan rộng ra thị trường quốc tế.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, nâng cao khả năng nhập
khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… phục vụ cho
quá trình phát triển.


14

1.1.3. Các hình thức của xuất khẩu
Với mục tiêu là đa dạng hóa các hình thức kinh doanh xuất khẩu nhằm phân
tán và chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thương có thể chọn nhiều hình thức
xuất khẩu khác nhau căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hóa trước khi xuất khẩu,
cũng như nguồn hàng xuất khẩu. Và ứng với mỗi phương thức xuất khẩu có những
đặc điểm riêng, kỹ thuật tiến hành riêng.
Thứ nhất, xuất khẩu trực tiếp
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hóa trong đó
các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản
xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài.
Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hóa
để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hóa từ các địa phương, các cơ sở sản
xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng hóa thì hàng hóa thuộc
sở hữu của doanh nghiệp. Xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thường có hiệu quả
kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác. Do vì DN có thể mua được
những hàng hóa có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của

khách hàng với mức giá mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu
có độ rủi ro cao, hàng hóa có thể không bán được với những thay đổi bất ngờ của
khách hàng, của thị trường và dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, thất thoát hàng hóa.
Thứ hai, xuất khẩu ủy thác
Hoạt động xuất khẩu ủy thác là một hình thức dịch vụ thương mại, mà theo đó
doanh nghiệp ngoại thương đứng vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu cho
các đơn vị có hàng hóa ủy thác. Trong trường hợp này, hàng hóa trước khi kết thúc
quy trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của đơn vị ủy thác; doanh nghiệp ngoại
thương chỉ có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hóa, vận chuyển hàng
hóa và được nhận một khoảng tiền gọi là phí ủy thác do đơn vị ủy thác trả. Hình
thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh nghiệp ngoại
thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hóa và cũng không


15

phải tự bỏ vốn ra mua hàng hóa. Tuy nhiên, phí ủy thác mà doanh nghiệp ngoại
thương nhận được thường ít nhưng được thanh toán nhanh.
Thứ ba, buôn bán đối lưu
Theo hình thức này, mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải nhằm thu
về một khoảng ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hóa khác tương đương với giá
trị của lô hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng hình thức xuất
khẩu này để nhập những loại hàng hóa mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc
có thể xuất khẩu sang nước thứ ba.
Thứ tư, gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hoạt động mà một bên (bên đặt hàng) giao nguyên vật liệu,
đôi khi cả máy móc, thiết bị và chuyên gia cho bên kia (bên nhận gia công) để sản
xuất ra một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng. Hàng hóa sau khi sản xuất
xong được giao cho bên đặt gia công; bên nhận gia công sẽ được trả tiền công. Khi
hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì được gọi là gia công quốc tế.

Theo hình thức xuất khẩu này, DN ngoại thương đứng ra nhập nguyên vật liệu,
bán thành phẩm về cho các đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước ngoài đặt
gia công. Sau đó, doanh nghiệp ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị
nhận gia công và xuất sản phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia
công và doanh nghiệp ngoại thương sẽ nhận được một khoảng tiền thu lao gia công.
Với hoạt động gia công xuất khẩu, DN ngoại thương không phải bỏ vốn vào
kinh doanh nhưng hiệu quả thu được khá cao, rủi ro ít và khả năng thanh toán đảm
bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu DN muốn thực hiện theo hình thức này,
DN phải có mối quan hệ với các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là hình
thức khá phức tạp, nhất là trong quá trình thỏa thuận với bên khách hàng gia công
về số lượng, chất lượng, nguyên vật liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm cũng như giám
sát quá trình gia công. Do đó, đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp phải có sự am
hiểu tường tận về các nghiệp vụ và cả quá trình gia công sản phẩm.


16

Thứ năm, xuất khẩu theo Nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa thường là hàng trả nợ được thực hiện
theo Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này
có nhiều ưu điểm như khả năng thanh toán chắc chắn, giá cả hàng hóa dễ chấp
nhận, tiết kiệm được chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng.
Thứ sáu, xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức kinh doanh mới nhưng đang phát triển rộng rãi do những ưu
việt mà nó đem lại. Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hóa không cần
vượt qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn mua được. Do vậy, nhà sản xuất
không cần phải thâm nhập thị trường nước ngoài mà khách hàng tự tìm đến nhà
xuất khẩu. Mặt khác, doanh nghiệp cũng không cần phải tiến hành các thủ tục hải
quan, hay mua bảo hiểm hàng hóa nhờ đó mà giảm được đáng kể chi phí.
Thứ bảy, tạm nhập tái xuất

Hình thức này được hiểu là việc mua hàng hóa của một nước để bán cho nước
khác trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm các thủ tục nhập khẩu rồi
lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến. Đối với những hàng hóa
nhập khẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng sau một thời gian, vì lý do
nào đó nó không được sử dụng nữa mà được xuất ra nước ngoài thì không được coi
là hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất. Thời gian hàng hóa kinh
doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu chuyển ở nước ta là 60 ngày.
Thứ tám, chuyển khẩu hàng hóa
Đây là việc mua hàng hóa của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một
nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam
cũng như thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam.
Thứ chín, quá cảng hàng hóa
Hàng hóa của một nước được gửi đi tới một nước thứ ba qua lãnh thổ Việt
Nam, có sự cho phép của Chính phủ Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu có
đủ điều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể được xem xét cho thực
hiện dịch vụ này để tăng thêm thu nhập.


17

1.2. Khái niệm và nội dung đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của một địa
phương
1.2.1. Khái niệm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của một địa phương
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may là một phương thức thúc đẩy tiêu thụ hàng
dệt may mà trong đó bao gồm tất cả những biện pháp, chính sách, cách thức… của
Nhà nước và các doanh nghiệp dệt may nhằm tạo ra cơ hội và khả năng để tăng giá
trị cũng như sản lượng của hàng dệt may được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Hiểu một cách khái quát hơn, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may là tổng hợp
các nổ lực của các bên hữu quan nhằm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu cả theo chiều
rộng và chiều sâu.

- Tăng trưởng xuất khẩu theo chiều rộng là sự gia tăng của xuất khẩu về quy
mô. Cụ thể là quy mô về sản lượng, quy mô về chủng loại hàng hóa, quy mô về thị
trường và quy mô của ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Sản lượng của ngành sẽ tăng
lên hàng năm; hàng hóa đa dạng và phong phú về chủng loại; thị trường tiêu thụ
được mở rộng; quy mô ngành tăng lên thông qua sự gia tăng về lượng lao động, gia
tăng về vốn đầu tư vào ngành cũng có thể là sự gia tăng về số doanh nghiệp hoạt
động trong ngành.
- Tăng trưởng xuất khẩu theo chiều sâu là sự gia tăng hiệu quả trong xuất
khẩu, tính bền vững trong xuất khẩu và đóng góp của xuất khẩu đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Các nổ lực của các bên hữu quan trong đẩy mạnh xuất khẩu thường xuất phát
từ các quan điểm chủ đạo về phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia và của địa
phương. Mối quan hệ này tác động hỗ trợ qua lại, nhằm dẫn dắt đưa mục tiêu đẩy
mạnh xuất khẩu không nằm ngoài mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đã đề ra. Cơ
sở của mối quan hệ này chính là hoạt động xuất khẩu là một hoạt động kinh tế quan
trọng của hoạt động phát triển kinh tế nói chung.
- Các bên hữu quan bao gồm: doanh nghiệp (nhà xuất khẩu), đối tác nước
ngoài (nhà nhập khẩu), công ty vận tải, công ty kiểm định độc lập, ngân hàng, bảo
hiểm và các cơ quan quản lý nhà nước như: hải quan, cơ quan thuế.


18

- Các nổ lực ở đây thường là đẩy mạnh năng lực cung ứng hàng xuất khẩu; mở
rộng thị trường xuất khẩu; tạo lập môi trường thông thoáng, thuận lợi trong hoạt
động xuất khẩu. Tùy vào mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn, từng thời kỳ mà
các nổ lực trên thường có thứ tự ưu tiên khác nhau. Thể hiện thông qua các công cụ
như các chính sách của nhà nước, mối liên kết giữa nhà nước và doanh nghiệp, tạo
lập sự thông thoáng cho môi trường hoạt động. Các công cụ tác động qua các kênh
như: ban hành các văn bản pháp luật; hỗ trợ tài chính, thông tin cho doanh nghiệp;

tư vấn, đào tạo lao động cho doanh nghiệp… nhằm mục đích mở rộng cung, mở
rộng cầu và tạo sự thông thoáng cho môi trường.
Và để triển khai được hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu cần phải xác định được
thị trường mục tiêu và hình thức xuất khẩu.
1.2.2. Nội dung đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của một địa phương
Xuất phát từ khái niệm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may ở trên, việc đẩy
mạnh phát triển hàng dệt may theo định hướng xuất khẩu có ba nội dung chủ yếu
sau đây:
1.2.2.1. Đẩy mạnh năng lực cung ứng hàng dệt may xuất khẩu
Đó chính là việc gia tăng năng lực sản xuất hàng dệt may xuất khẩu cũng như
nâng cao sức cạnh tranh của ngành trên thị trường. Nội dung này được thể hiện rõ ở
các điểm sau:
- Về quy mô ngành: Đòi hỏi quy mô ngành phải ngày càng được mở rộng cả
quy mô về lao động và quy mô về vốn sở hữu. Có như vậy, ngành mới có khả năng
cung ứng đủ năng lực về công nghệ, tài chính, khả năng quản lý và thị trường…. Và
từ đó mới có thể gia tăng được khả năng cung ứng cũng như nâng cao được khả
năng cạnh tranh của ngành trên thị trường.
- Về cơ cấu ngành: Cơ cấu ngành phải phù hợp với xu hướng phát triển chung
của nền kinh tế trong nước và thế giới.
Với cơ cấu theo nguồn vốn sở hữu cần được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dệt may và đa dạng hóa
các loại hình sở hữu DN dệt may. Kích thích các thành phần kinh tế tham gia vào


×