Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Quản trị vốn luân chuyển tại công ty cổ phần đầu tư và xây dựng bưu điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.79 KB, 87 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế ngày
càng sâu rộng, mở ra cơ hội để các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận
và kế thừa công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại của các nền kinh tế phát
triển, mở rộng thị trường ra bên ngoài đồng thời cũng đề ra những thách thức
không nhỏ cho các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển bền vững đòi hỏi
các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh
tranh, trong đó vấn đề nâng cao năng lực tài chính và trình độ quản trị vốn trở
nên đặc biệt quan trọng.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của doanh nghiệp là
năng lực quản trị tài chính hạn chế, thể hiện qua tình trạng thiếu vốn, mất khả
năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ thì sẽ dẫn đến thâm
hụt vốn và phá sản. Nhưng một doanh nghiệp hoạt động có lãi chưa chắc đã
hiệu quả khi sức khỏe tài chính không tốt. Có lợi nhuận nhưng không có tiền
để tái đầu tư, để tài trợ hoạt động liên tục, để thanh toán công nợ đúng hạn thì
cũng chưa được đánh giá là hiệu quả. Quản trị năng động cấu trúc vốn sẽ góp
phần cải thiện tỷ suất sinh lợi, gia tăng giá trị doanh nghiệp. Do đó, quản trị
vốn, đặc biệt là quản trị vốn luân chuyển tốt sẽ mang lại sự phát triển bền
vững đối với các doanh nghiệp, nhất là đối với các công ty cổ phần.
Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện là một doanh nghiệp Nhà
nước được cổ phần hóa kể từ năm 2004, hoạt động trong lĩnh vực xây lắp và
thương mại các sản phẩm công nghệ thông tin. Trong quá trình phát triển của
mình, Công ty không ngừng cải thiện và xây dựng các giải pháp về quản trị
kinh doanh để ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, xuất thân từ một doanh
nghiệp Nhà nước lại kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù vì vậy công tác quản


2



trị nói chung và quản trị tài chính nói riêng còn mạng nặng bao cấp, chưa linh
hoạt và quan tâm đúng mức. Để tìm hiểu sâu hơn vấn đề này, em đã chọn đề
tài: Quản trị vốn luân chuyển tại Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu
điện, từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện hơn công tác
quản trị vốn luân chuyển, góp phần cho sự phát triển chung của Công ty.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về vốn luân chuyển và quản trị vốn luân
chuyển trong doanh nghiệp.
Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị vốn luân chuyển tại Công ty cổ
phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện giai đoạn 2009-2011.
Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị vốn
luân chuyển tại Công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình quản trị
vốn luân chuyển của Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện trên cơ
sở lý luận về vốn luân chuyển và quản trị vốn luân chuyển trong doanh
nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng số liệu
của Công ty giai đoạn 2009-2011 và số liệu kế hoạch năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, lý thuyết về vốn luân chuyển,
quản trị vốn luân chuyển và phân tích, tổng hợp các mô hình, lý thuyết đã
được thừa nhận, hiện đang sử dụng.
Trong phương pháp nghiên cứu cụ thể luận văn sử dụng phương pháp
thống kê mô tả và phân tích đánh giá.


3


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về vốn luân chuyển và quản trị vốn
luân chuyển trong doanh nghiệp.
- Đánh giá được thực trạng công tác quản trị vốn luân chuyển của Công ty
cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện
- Đóng góp giải pháp trong vấn đề hoàn thiện công tác quản trị vốn luân
chuyển tại Công ty.
6. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị vốn luân chuyển trong doanh
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác quản trị vốn luân chuyển tại Công ty cổ
phần Đầu tư & Xây dựng Bưu điện.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị vốn luân chuyển tại
Công ty cổ phần Đầu tư & Xây dựng Bưu điện.


4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ VỐN LUÂN
CHUYỂN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 KHÁI QUÁT VỀ VỐN LUÂN CHUYỂN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm vốn luân chuyển
Vốn luân chuyển theo nghĩa rộng là giá trị của toàn bộ tài sản ngắn hạn,
đó là các tài sản có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt trong một chu kỳ
kinh doanh, thường qui ước nhỏ hơn hoặc bằng một năm.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn luân chuyển có vai trò duy trì
hoạt động của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu về vốn
luân chuyển, quá trình kinh doanh sẽ không bị gián đoạn. Xây dựng được cơ
cấu vốn luân chuyển hợp lý sẽ tiết kiệm được nguồn vốn và nâng cao khả
năng sinh lợi cho doanh nghiệp.

Khi phân tích về vốn luân chuyển, người ta có thể sử dụng thêm chỉ tiêu
vốn luân chuyển ròng (VLCR), đây là phần giá trị tài sản ngắn hạn được tài
trợ bằng các nguồn vốn dài hạn.
Vốn luân chuyển ròng = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn
Nếu vốn luân chuyển ròng bị âm (VLCR<0), nghĩa là nợ ngắn hạn lớn
hơn tài sản ngắn hạn, doanh nghiệp đã sử dụng một phần nợ ngắn hạn đầu tư
vào tài sản cố định. Vốn luân chuyển ròng âm rất nguy hiểm bởi vì nợ ngắn
hạn có thời gian đáo hạn ngắn, trong khi tài sản cố định có thời gian hoàn vốn
chậm dẫn đến doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
1.1.2 Phân loại vốn luân chuyển
Nhằm đảm bảo sử dụng vốn luân chuyển hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả,
đòi hỏi các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp cần tiến hành phân loại vốn
luân chuyển theo nhiều tiêu thức khác nhau tùy theo yêu cầu quản lý, nhưng


5

nhìn chung đều giúp các nhà quản trị có thể đánh giá nhu cầu cũng như tình
hình sử dụng vốn ở nhiều góc độ khác nhau, từ đó tìm ra phương án quản lý
tốt nguồn vốn của doanh nghiệp.
1.1.2.1 Phân loại vốn luân chuyển dựa theo vai trò của vốn luân chuyển đối
với quá trình sản xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này vốn luân chuyển được chia thành 3 loại: Vốn
luân chuyển trong khâu dự trữ sản xuất, vốn luân chuyển trong khâu trực tiếp
sản xuất, vốn luân chuyển trong khâu lưu thông.
- Vốn luân chuyển trong khâu dự trữ sản xuất: là bộ phận vốn luân
chuyển cần thiết nhằm thiết lập bộ phận dự trữ về vật tư, hàng hóa cho quá
trình sản xuất nhằm đảm bảo cung cấp đủ vật tư đối với doanh nghiệp sản
xuất, đủ hàng hóa đối với doanh nghiệp thương mại cho quá trình sản xuất
kinh doanh.

Vốn luân chuyển trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm: vốn nguyên vật liệu
chính, vốn nguyên vật liệu phụ, vốn nhiên liệu, vốn phụ tùng thay thế, vốn
công cụ dụng cụ nhỏ, …
- Vốn luân chuyển trong khâu trực tiếp sản xuất: là bộ phận vốn luân
chuyển từ khi doanh nghiệp đưa vật tư vào trong sản xuất đến khi tạo sản
phẩm.
Vốn luân chuyển trong khâu trực tiếp sản xuất bao gồm: vốn vật liệu đang
chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế, vốn về phí tổn đợi phân bổ, …
- Vốn luân chuyển trong khâu lưu thông: là bộ phận vốn luân chuyển từ
khi sản phẩm, thành phẩm nhập kho cho đến khi bán thành phẩm thu tiền về.
Vốn luân chuyển trong khâu lưu thông bao gồm: vốn thành phẩm, vốn
hàng hóa, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, …
Ý nghĩa của cách phân loại này: Cho biết cơ cấu vốn luân chuyển theo từng
quá trình, giúp cho việc đánh giá tình hình phân bổ vốn luân chuyển trong các


6

khâu của quá trình luân chuyển vốn, để điều chỉnh phù hợp với mục tiêu quả
trị của doanh nghiệp nhằm tạo ra một cơ cấu vốn luân chuyển hợp lý. Đồng
thời, đây cũng là cơ sở để quản lý mức dự trữ hàng tồn kho.
1.1.2.2 Phân loại vốn luân chuyển dựa theo hình thái biểu hiện
Theo cách phân loại này vốn luân chuyển được chia thành 2 loại: Vốn
bằng tiền và vốn hàng tồn kho.
- Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản tiền mặt tại quĩ, tiền gửi ngân hàng,
tiền đang chuyển và các khoản công nợ phải thu.
- Vốn hàng tồn kho: bao gồm vốn về vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang,
thành phẩm.
Ý nghĩa của cách phân loại này: Giúp doanh nghiệp tính toán, kiểm tra được
khả năng thanh toán, mức tồn kho dự trữ của doanh nghiệp. Là cơ sở để

doanh nghiệp đánh giá kết cấu vốn luân chuyển, từ đó tìm ra các biện pháp
phát huy chức năng của các thành phần vốn.
1.1.2.3 Phân loại vốn luân chuyển dựa theo nguồn hình thành
Theo cách phân loại này vốn luân chuyển được chia thành 2 loại: Nguồn
vốn chủ sở hữu và nợ.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp,
doanh nghiệp có đầy đủ quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt.
- Nợ: là các khoản nợ được hình thành từ nhiều nguồn như: tín dụng ngân
hàng, tín dụng thương mại, và vay thông qua phát hành trái phiếu, …. để bổ
sung thêm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp chỉ có quyền sử dụng các khoản nợ này trong một thời hạn nhất định.
Ý nghĩa của cách phân loại này: Giúp doanh nghiệp thấy được kết cấu vốn
luân chuyển của doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn nào, tự có hay
từ nợ vay. Từ đó doanh nghiệp có thể lựa chọn được đối tượng huy động tối
ưu để có được số vốn ổn định đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.


7

1.1.3 Kết cấu vốn luân chuyển và các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn
luân chuyển
1.1.3.1 Kết cấu vốn luân chuyển của doanh nghiệp
Kết cấu vốn luân chuyển của doanh nghiệp là tỷ trọng từng khoản vốn
hay từng bộ phận vốn chiếm trong tổng số vốn luân chuyển của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp sẽ có kết cấu vốn luân chuyển khác nhau, việc phân
tích kết cấu vốn luân chuyển sẽ giúp doanh nghiệp đánh giá được tình hình
phân bổ vốn luân chuyển, tỷ trọng của mỗi khoản vốn, xác định đúng trọng
điểm quản lý vốn. Mặt khác, khi xem xét sự thay đổi của vốn luân chuyển qua
các thời kỳ sẽ thấy được sự thay đổi trong phương hướng sản xuất kinh
doanh, qua đó ta thấy được sự thay đổi trong công tác quản lý vốn luân

chuyển của doanh nghiệp qua các thời kỳ, từ đó tìm ra được biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn luân chuyển trong từng điều kiện cụ thể.
Kết cấu vốn luân chuyển bao gồm những bộ phận cơ bản sau:
- Vốn bằng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn:
Vốn bằng tiền: Là tài sản tồn tại trực tiếp dưới dạng tiền tệ bao gồm: tiền
mặt tại quĩ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, … Trong quá trình sản xuất
kinh doanh, vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán
cac khoản nợ, mua sắm vật tư hàng hóa. Tuy nhiên, nếu dự trữ tiền quá nhiều,
không hợp lý sẽ dấn đến ứ đọng vốn làm cho hiệu quả sử dụng vốn bị giảm
đi, ngược lại, nếu dự trữ tiền quá ít, sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong
thanh toán.
Các khoản đầu tư ngắn hạn: Khác với tiền là loại tài sản không sinh lãi
hoặc sinh lãi rất thấp thì các doanh nghiệp muốn đầu tư vào các khoản tài
chính ngắn hạn hơn là chỉ giữ tiền. Các khoản đầu tư ngắn hạn có thể là trái
phiếu hoặc cổ phiếu. … Việc đầu tư tài chính ngắn hạn mạng lại thu nhập cho


8

doanh nghiệp, đó là tiền lãi của trái phiếu, cổ phiếu và sự gia tăng giá thị
trường của cổ phiếu.
- Giá trị các khoản phải thu: Đây là bộ phận quan trọng cấu thành vốn
luân chuyển. Khi doanh nghiệp bán sản phẩm, hàng hóa của mình cho doanh
nghiệp khác, thông thường sự giao nhận tiền – hàng hóa không xảy ra đồng
thời nên phát sinh công nợ phải thu khách hàng. Qui mô các khoản phải thu
phục thuộc vào qui mô kinh doanh của doanh nghiệp, loại hình kinh doanh
của doanh nghiệp và chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
- Giá trị hàng tồn kho: Trong quá trình luân chuyển vốn phục vụ hoạt
động sản xuất kinh doanh thì vật tư, sản phẩm dở dang, hàng hóa tổn kho là
điều không thể thiếu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tính toán, duy trì

một lượng nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa với cơ
cấu hợp lý nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh liên tục và hiệu quả.
1.1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn luân chuyển
- Các nhân tố về mặt sản xuất: bao gồm các nhân tố như qui mô sản xuất,
trình độ sản xuất, đặc điểm kỹ thuật, công nghệ sản xuất, độ phức tạp của sản
phẩm, độ dài của chu kỳ sản xuất, … khác nhau sẽ dẫn đến tỷ trọng vốn luân
chuyển ở các khâu dự trữ - sản xuất – lưu thông khác nhau.
- Các nhân tố về cung ứng – tiêu thụ: khoảng cách giữa doanh nghiệp và
các nhà cung cấp, khoảng cách giữa doanh nghiệp và khách hàng, khả năng
cung cấp của thị trường, kỳ hạn giao hàng, khối lượng tiêu thụ sản phẩm mỗi
lần giao hàng, ….
- Các nhân tố về mặt thanh toán: phương thức thanh toán, thủ tục thanh
toán, việc chấp hành kỷ luật trong thanh toán, ….
1.1.4 Sự cần thiết của việc quản trị vốn luân chuyển
Tài sản ngắn hạn thường chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản của
một doanh nghiệp. Chúng có đặc điểm chuyển hóa thành tiền nhanh, vì thế tài


9

sản ngắn hạn có tầm quan trọng đặc biệt trong việc đảm bảo khả năng thanh
toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên, so với các tài sản khác, chúng lại có khả
năng sinh lợi thấp.
Đối với nhà quản trị tài chính của một doanh nghiệp, các chỉ tiêu liên
quan đến vốn luân chuyển là rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến lượng tiền
một doanh nghiệp cần duy trì hoạt động thường xuyên. Nếu vốn luân chuyển
quá cao cho thấy việc sử dụng tài sản ngắn hạn chưa tốt, chưa tối ưu hóa được
nguồn vốn ngắn hạn; ngược lại, nếu vốn luân chuyển thấp sẽ dẫn đến nguy cơ
doanh nghiệp không có khả năng chi trả các nghĩa vụ ngắn hạn của mình, nếu
không có nguồn huy động thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, tình hình này

kéo dài sẽ kéo theo một loạt các hậu quả xấu trong kinh doanh. Khả năng
quản lý vốn luân chuyển của doanh nghiệp càng tốt thì nhu cầu vay nợ càng
giảm, ngay cả khi doanh nghiệp có tiền nhàn rỗi thì việc quản lý vốn lưu động
cũng rất cần thiết vì nó đảm bảo rằng lượng vốn nhàn rỗi này sẽ được đầu tư
một cách hiệu quả nhất cho nhà đầu tư.
Quản trị vốn luân chuyển hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng vốn luân
chuyển tiết kiệm từ đó dẫn đến tiết kiệm chi phí, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
và đảm bảo khả năng thanh toán công nợ kịp thời.
Một doanh nghiệp quản lý tốt vốn luân chuyển sẽ giúp doanh nghiệp:
- Xác định được số vốn luân chuyển cần thiết trong kỳ kinh doanh, đảm
bảo đủ vốn luân chuyển để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành
thường xuyên, liên tục.
- Khai thác tốt nguồn vốn bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
- Có giải pháp bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp, đảm bảo khả
năng mua sắm và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Như vậy, vốn luân chuyển chính là thước đo cho hiệu suất và sức mạnh
tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp. Các quyết định trong quản trị vốn luân


10

chuyên là điều hết sức quan trọng đối với một doanh nghiệp, ảnh hưởng mạnh
mẽ đến khả năng sinh lợi và rủi ro của doanh nghiệp và đó cũng chính là
thách thức đối với các nhà quản lý tài chính.
Nội dung chủ yếu của quản trị vốn luân chuyển trong doanh nghiệp
thường trải qua các bước sau: Hoạch định nhu cầu vốn luân chuyển cần thiết
của doanh nghiệp, thực hiện kế hoạch, đánh giá việc thực hiện các kế hoạch
và tiến hành điều chỉnh.
1.2 HOẠCH ĐỊNH NHU CẦU VỐN LUÂN CHUYỂN
Hoạch định nhu cầu vốn luân chuyển là việc xây dựng nhu cầu vốn cần

phải đầu tư cho năm kế hoạch, dựa trên cơ sở tổng hợp nhu cầu của từng bộ
phận vốn luân chuyển cần đầu tư.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn chịu sự ảnh hưởng
của nhiều yếu tố: nguồn lực tài chính, thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường
các yếu tố đầu vào, … Sự biến động của môi trường kinh doanh bên ngoài
hay những yếu tố bên trong của doanh nghiệp đều ảnh hưởng đến qui mô vốn
luân chuyển. Doanh nghiệp luôn cần một lượng vốn để đảm bảo cho quá trình
sản xuất kinh doanh liên tục với chi phí sử dụng vốn thấp nhất. Nếu nhu cầu
vốn luân chuyển được xác định quá thấp sẽ gây nhiều khó khăn cho công tác
tổ chức đảm bảo vốn, gây căng thẳng về vốn, làm gián đoạn quá trình tái sản
xuất của doanh nghiệp, doanh nghiệp không có khả năng trả nợ được người
lao động, trả nợ nhà cung cấp khi đến hạn thanh toán làm giảm uy tín của
doanh nghiệp và ngược lại.
Vì vậy, việc xác định đúng đắn và hợp lý nhu cầu vốn luân chuyển có ý
nghĩa rất quan trọng, giúp cho doanh nghiệp xác định được qui mô vốn cần
thiết, từ đó có những giải pháp quản lý, cân đối giữa các loại tài sản sao cho
hiệu quả.


11

1.2.1 Phương pháp hoạch định nhu cầu vốn luân chuyển
Việc xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp. Tùy
theo đặc điểm kinh doanh và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp trong từng
thời kì mà có thể lựa chọn áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định
nhu cầu vốn. Có hai phương pháp chủ yếu để xác định nhu cầu vốn của doanh
nghiệp là: Phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
1.2.1.1 Phương pháp trực tiếp
Nội dung phương pháp này là doanh nghiệp căn cứ vào các yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến vốn luân chuyển của doanh nghiệp để xác định nhu cầu

vốn luân chuyển của doanh nghiệp
- Xác định nhu cầu vốn tiền mặt: căn cứ vào lượng tiền mặt cần thiết cho
những hoạt động thường xuyên, doanh nghiệp cần dự trù được nguồn thu,
thời gian chi tiền và mức dự trữ tiền mặt mong muốn.
- Xác định các khoản phải thu khách hàng: dựa vào kế hoạch tiêu thụ sản
phẩm và chính sách tín dụng của doanh nghiệp, dự tính mức vốn bình quân
cho khách hàng chiếm dụng.
- Xác định nhu cầu vốn để dự trữ hàng tồn kho: căn cứ vào số liệu tổng
hợp tình hình dự trữ hàng tồn kho các năm trước và tình hình biến động của
năm kế hoạch để xác định mức tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Xác định các khoản nợ phải trả nhà cung cấp.
Tổng hợp nhu cầu vốn luân chuyển ròng của doanh nghiệp như sau:
Tiền mặt &
Khoản phải
Mức dự trữ
= các khoản phải
+
trả người
hàng tồn kho
thu khách hàng
bán
Phương pháp này giúp doanh nghiệp xác định nhu cầu vốn luân chuyển

Nhu cầu vốn
luân chuyển

tương đối chính xác. Tuy nhiên, phương pháp này cần phải tính toán nhiều và
khá phức tạp.



12

1.2.1.2 Phương pháp gián tiếp
Nội dung của phương pháp này dựa vào thống kê kinh nghiệm để xác
định nhu cầu vốn. Có thể chia thành hai trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất: Dựa vào kinh nghiệm thực tế của các doanh
nghiệp kinh doanh cùng ngành để xác định nhu cầu vốn cho mình. Việc xác
định nhu cầu vốn theo cách này là dựa vào hệ số vốn luân chuyển tính theo
doanh thu được rút ra từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh
cùng ngành. Trên cơ sở đó xem xét quy mô kinh doanh dự kiến của doanh
nghiệp mình để tính ra nhu cầu vốn luân chuyển cần thiết.
- Trường hợp thứ hai: Dựa vào mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành
vốn luân chuyển với doanh thu thuần của kỳ vừa qua để xác định tỷ lệ phần
trăm tính theo doanh thu và sử dụng tỷ lệ này để xác định nhu cầu vốn cho
năm kế hoạch.
Phương pháp này thực hiện theo các trình tự sau:
+ Xác định số dư các bộ phận vốn luân chuyển năm báo cáo.
+ Xác định tỷ lệ các khoản trên so với doanh thu thuần trong năm báo
cáo.
Trên cơ sở đó xác định tỷ lệ nhu cầu vốn luân chuyển so với doanh thu
thuần.
+ Xác định nhu cầu vốn luân chuyển cho năm kế hoạch.
Phương pháp này đơn giản hơn, dễ thực hiện, khối lượng tính toán không
nhiều nhưng kém chính xác hơn.

1.2.2 Giải pháp cho nguồn vốn thiếu


13


Sau khi hoạch định nhu cầu vốn luân chuyển, trong trường hợp vốn luân
chuyển thiếu, doanh nghiệp cần tìm cho mình nguồn tài trợ hợp lý. Doanh
nghiệp có thể sử dụng các nguồn tài trợ sau:
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Đây là nguồn vốn do Nhà nước cấp (đối với
doanh nghiệp Nhà nước), vốn do cổ đông đóng góp ( đối với công ty cổ
phần), vốn bổ sung từ kết quả kinh doanh. Sử dụng nguồn vốn này doanh
nghiệp không phải chịu áp lực thanh toán nhưng chi phí sử dụng cao.
- Nguồn vốn vay: Đây có thể là các khoản vay từ các tổ chức tín dụng,
ngân hàng, các đối tượng khác. Sử dụng nguồn vốn này doanh nghiệp phải
chịu chi phí lãi vay và áp lực thanh toán.
- Tín dụng thương mại: Đây là nguồn tài trợ từ các khoản mua hàng trả
chậm cho các nhà cung cấp. Sử dụng nguồn vốn này doanh nghiệp cũng có
thể bị mất chi phí và cũng chỉ mang tính tạm thời.
….
Doanh nghiệp dựa vào tình hình tài chính, cân đối giữa lợi ích tăng thêm
và chi phí sử dụng để lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp.
1.3 QUẢN TRỊ CÁC BỘ PHẬN VỐN LUÂN CHUYỂN
Về cơ bản, quản trị vốn luân chuyển chính là quản trị các bộ phận vốn cấu
thành nên vốn luân chuyển. Các nhà quản lý tài chính sẽ đưa ra những quyết
định để có thể thiết lập một cơ cấu vốn phù hợp với đặc điểm kinh doanh và
điều kiện cụ thể của doanh nghiệp nhằm sử dụng hiệu quả nhất tài sản của
doanh nghiệp. Và mỗi bộ phận vốn đều có những đặc thù khác nhau, ta sẽ
xem xét nội dung quản trị từng bộ phận vốn cụ thể như sau.
1.3.1 Quản trị tiền mặt
Tiền mặt được đề cập đến với hai dạng là tiền mặt tại quĩ và tiền gửi ngân
hàng. Doanh nghiệp luôn phải duy trì một mức tiền mặt nhất định cho các
hoạt động hàng ngày như mua sắm hàng hóa, chi lương, mua tài sản, nộp



14

thuế, trả nợ, … Tuy nhiên, tiền mặt có mức sinh lời thấp và sức mua luôn có
xu hướng giảm do có lạm phát. Vì thế, mục tiêu của quản trị tiền mặt là giảm
thiểu lượng tiền mặt trên cơ sở cực đại tính hữu dụng của nó.
Quản trị tiền mặt liên quan đến thu, chi và đầu tư tạm thời tiền mặt một
cách hiệu quả. Trong đó, nổi bật lên đó là các vấn đề: Hoạch định nhu cầu
tiền mặt, quản lý quá trình thu chi tiền mặt và đầu tư tiền mặt nhàn rỗi nhằm
mục tiêu sinh lợi.
1.3.1.1 Hoạch định nhu cầu tiền mặt
Doanh nghiệp thường có ba lý do hay động cơ để giữ tiền mặt, đó là:
Động cơ giao dịch, động cơ đầu cơ, động cơ dự phòng. Tuy nhiên, không thể
xác định chi tiết cho từng mục tiêu mà chỉ tổng hợp lại và xây dựng một tài
khoản tiền mặt hợp lý, vì cùng một khoản tiền, doanh nghiệp có thể sự dụng
cho nhiều mục đích khác nhau. Dù vậy, nhà quản trị tài chính vẫn phải xem
xét đầy đủ các yếu tố để xây dựng mức tồn quĩ mục tiêu.
Hoạch định nhu cầu tiền mặt tối ưu của doanh nghiệp phải thỏa mãn được
những nhu cầu chính: chi trả các khoản phải trả phục vụ hoạt động sản xuất
kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp; chi tiền nộp thuế; dự phòng cho các
khoản chi ngoài kế hoạch; dự phòng cho các cơ hội phát sinh ngoài dự kiến
khi thị trường có sự thay đổi đột ngột...
Hoạch định nhu cầu tiền mặt tức là quyết định xem doanh nghiệp nên
thiết lập và duy trì mức tồn quĩ bao nhiêu là hợp lý. Liên quan đến việc đánh
đổi giữa chi phí cơ hội do giữ quá nhiều tiền mặt và chi phí giao dịch do giữ
quá ít tiền mặt.
Chi phí cơ hội: là chi phí mất đi do giữ tiền mặt, khiến cho tiền không
được đầu tư vào hoạt động sinh lời.
Chi phí giao dịch: là chi phí liên quan đến việc chuyển đổi từ tài sản khác
thành tiền mặt để đáp ứng nhu cầu chi tiêu.



15

Nếu doanh nghiệp giữ quá nhiều tiền mặt thì chi phí giao dịch sẽ nhỏ,
nhưng ngược lại chi phí cơ hội sẽ lớn. Tổng chi phí giữ tiền mặt chính là tổng
chi phí cơ hội và chi phí giao dịch.
Doanh nghiệp phải làm sao cân bằng được giữa chi phí cơ hội và chi phí
giao dịch để tổng chi phí tồn quĩ là thấp nhất.
Chi phí
Chi phí cơ hội
Tổng chi phí giữ tiền mặt

Chi phí giao dịch

C*

Qui mô tiền mặt

Hình 1.1: Tổng chi phí giữ tiền mặt

1.3.1.2 Quản lý quá trình thu - chi tiền mặt
Phạm vi của quản trị tiền mặt là bắt đầu lúc khách hàng viết séc thanh
toán cho doanh nghiệp về các khoản nợ, kết thúc khi tiền mặt được ghi giảm
số dư trong tài khoản. Mục tiêu của quản trị tiền mặt là tối đa hóa thời gian
khả dụng của tiền mặt. Quản trị tiền mặt hiệu quả bao gồm quản trị riêng lẻ
dòng tiền nhập quĩ và dòng tiền xuất quĩ bao gồm các nội dung sau:
- Đồng bộ hóa dòng tiền: Thông qua việc nâng cao chất lượng dự đoán và
sắp xếp các hoạt động để các hóa đơn gắn đúng với nhu cầu tiền mặt, doanh
nghiệp có thể duy trì một cân đối tiền mặt bình quân chặt chẽ. Việc đồng bộ



16

hóa dòng ngân quĩ đảm bảo tiền mặt khi cần thiết và vì thế giúp doanh nghiệp
giảm tối thiểu tài khoản tiền mặt, giảm nợ ngân hàng, giảm chi phí vay và do
đó tăng lợi nhuận.
- Kỹ thuật vốn trôi nổi: Tồn quĩ của doanh nghiệp trên sổ sách kế toán ít
khi khớp với tồn quĩ trên tài khoản ngân hàng. Chênh lệch giữa tồn quĩ trên
tài khoản ngân hàng với tồn quĩ trên sổ sách kế toán gọi là vốn trôi nổi. Vốn
trôi nổi phát sinh do thời gian chờ đợi thanh toán khi chứng từ đang trên
đường đi hay đang chờ xử lý ở ngân hàng. Trong trường hợp doanh nghiệp
phát hành séc để thanh toán cho khách hàng sẽ phát sinh vốn trôi nổi do chi,
khiến cho tồn quĩ tài khoản kế toán giảm nhưng tồn quĩ tài khoản ngân hàng
chưa giảm. Ngược lại, khi doanh nghiệp nhận được séc thanh toán của khách
hàng, sẽ làm phát sinh vốn trôi nổi do thu, khiến cho tồn quĩ tài khoản kế toán
tăng nhưng tồn quĩ ngân hàng chưa tăng. Chênh lệch giữa vốn trôi nổi do thu
và do chi gọi là vốn trôi nổi ròng.
Quản trị vốn trôi nổi liên quan đến thu và chi tiền mặt. Mục tiêu của quản
trị thu tiền là cắt giảm khoảng thời gian giữa thời điểm khách hàng chi trả hóa
đơn và thời điểm tờ séc được chi trả. Mục tiêu của quản trị chi tiền là giảm
tốc độ thanh toán, tức là gia tăng khoảng thời gian giữa thời điểm phát hành
séc và thời điểm tờ séc được xuất trình.
- Hệ thống tài khoản thu gom: Doanh nghiệp có thể đẩy nhanh tốc độ thu
tiền, tăng thời gian hữu dụng của vốn bằng tiền thông qua hệ thống tài khoản
thu gom. Trong hệ thống tài khoản thu gom, các tờ séc của khách hàng được
gửi đến hộp thư đặt ở gần khách hàng. Ngân hàng địa phương sẽ đến kiểm tra
hộp thư nhiều lần trong ngày và chuyển tiền vào tài khoản của doanh nghiệp
ngay tại địa phương đó. Sau đó, ngân hàng báo có cho doanh nghiệp những
biên lai nhận được trong ngày thông qua hệ thống chuyển dữ liệu điện tử.



17

Thông qua hệ thống tài khoản thu gom, vốn trôi nổi do thu và chi tiền
được rút xuống, nó giảm thời gian nhận séc từ khách hàng, sau đó chuyển qua
hệ thống ngân hàng để đưa quĩ vào sử dụng. Qua hệ thống này, bên cạnh việc
tăng thời gian sử dụng ngân quĩ so với hệ thống thông thường, nó còn làm
giảm chi phí do ngân hàng chuyên môn hóa trong việc xử lý hệ thống thu
gom lớn nên chi phí trên mỗi đơn vị thấp hơn.
- Kiểm soát quá trình thanh toán: Mục đích của kiểm soát quá trình thanh
toán là làm chậm lại tới mức có thể các khoản chi. Các biện pháp tiến hành
gồm:
+ Cực đại hóa vốn trôi nổi: Là tìm cách làm tăng khoản chênh lệch giữa
tổng số tiền séc thanh toán qua ngân hàng và giá trị thể hiện trên sổ sách của
doanh nghiệp. Điều này được thực hiện bằng cách doanh nghiêp thực hiện
thanh toán cho nhà cung cấp từ các tài khoản đặt ở vị trí rất xa các nhà cung
cấp, điều này làm tăng thời gian chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng. Séc
được phát hành xa khách hàng nên có thể tối đa hóa vốn trôi nổi chuyển
khoản.
+ Sử dụng nhiều ngân hàng có khả năng dịch chuyển vốn nhanh tới các
ngân hàng mà khoản chi xuất hiện, có thể ngăn ngừa được sự tích tụ quá mức
tiền ở một ngân hàng nào đó.
+ Tập trung hóa các khoản phải trả, thường là về trung tâm nhờ đó có
thể điều tiết chính xác các khoản trả theo ý muốn.
1.3.1.3 Đầu tư tiền mặt nhàn rỗi tạm thời
Doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động mang tính tạm
thời, đôi khi có một số lượng tiền tạm thời nhàn rỗi. Nhàn rỗi ở đây mang tính
tạm thời cho đến khi tiền được huy động vào kinh doanh. Trong thời gian
nhàn rỗi tiền cần được đầu tư nhằm mục đích sinh lợi bằng cách mua các
chứng khoán ngắn hạn.



18

Ở các nước phát triển, thị trường tiền tệ phát triển với rất nhiều công cụ
khác nhau, các doanh nghiệp lớn ở các nước này thường đầu tư tiền tạm thời
nhàn rỗi của họ vào các loại tài sản tài chính ngắn hạn thông qua các ngân
hàng thương mại hoặc thông qua các nhà kinh doanh và môi giới đầu tư. Các
doanh nghiệp nhỏ thường sử dụng các quĩ đầu tư trên thị trường tiền tệ để đầu
tư tiền tạm thời nhàn rỗi và trả cho các quĩ này một khoản lệ phí nhất định.
Ở Việt Nam hiện tại, do thị trường tiền tệ chưa phát triển nên ngoài việc
gửi tiền tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng với lãi suất thường thấp, doanh
nghiệp khó kiếm được cơ hội đầu tư nào khác. Dù vậy, nhưng với xu hướng
toàn cầu hóa và hội nhập rồi cơ hội sẽ mở ra. Chúng ta nên chuẩn bị từ bây
giờ hơn là thụ động ngồi chờ cho đến khi cơ hội thực sự mở ra.
1.3.2 Quản trị khoản phải thu
Nhìn chung, các doanh nghiệp luôn muốn bán hàng thu tiền ngay hơn là
bán hàng tín dụng. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh buộc họ phải đưa ra chính
sách tín dụng, nhờ thế mới có thể tiêu thụ được hàng hóa, giảm tồn kho và
cũng do vậy, khoản phải thu hình thành.
Khoản phải thu là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng
hóa hoặc dịch vụ. Bán hàng tín dụng có một ưu điểm quan trọng là làm gia
tăng lượng bán, việc bán hàng tín dụng làm tăng tốc độ chuyển hóa tồn kho,
tăng cường mối quan hệ với khách hàng.
Ngược lại, bán hàng tín dụng cũng có nhiều bất lợi, làm gia tăng chi phí
cho bán hàng, quản lý khoản phải thu, chính sách thu nợ, bên cạnh đó, bán
hàng tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro không trả nợ đúng hạn, giảm khả năng sinh
lợi của tài sản và tăng nguy cơ nợ khó đòi làm ảnh hưởng đến việc bảo toàn
và phát triển vốn của doanh nghiệp.
Vì vậy, việc bán hàng tín dụng cần tuân theo một khuôn khổ chính sách

hợp lý. Quyết định chính sách bán tín dụng gắn liền với việc đánh đổi giữa


19

chi phí liên quan đến khoản phải thu và doanh thu tăng thêm do bán chịu hàng
hóa, kiểm soát khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận và
chi phí rủi ro.
1.3.2.1 Chính sách tín dụng thương mại
Thành công hay thất bại của một doanh nghiệp trước hết phụ thuộc vào
nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh
số bán hàng sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, yêu tố bên ngoài và cả những yếu
tố bên trong nằm trong phạm vi kiểm soát của doanh nghiệp. Những yếu tố có
thể kiểm soát được bao gồm: giá bán, chất lượng sản phẩm và chính sách tín
dụng. Trong đó, chính sách tín dụng được xem là yếu tố quyết định tình hình
khoản phải thu của doanh nghiệp.
Chính sách tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh
nghiệp dưới các hình thức mua bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Trong đó, người
bán chuyển giao quyền sử dụng vốn tạm thời cho người mua trong một
khoảng thời gian nhất định. Sau khoảng thời gian thỏa thuận đó, người mua
có trách nhiệm thanh toán cả vốn lẫn lãi cho người bán. Tín dụng thương mại
là nguồn tài trợ ngắn hạn phổ biến và quan trọng nhất đối với doanh nghiệp.
Chính sách tín dụng thương mại thể hiện quan điểm của doanh nghiệp về
tương quan giữa rủi ro và lợi nhuận do các khoản phải thu đem lại. Chính
sách tín dụng thương mại gồm một số yếu tố sau:
- Tiêu chuẩn tín dụng: liên quan đến sức mạnh tài chính cần thiết để
khách hàng tín dụng có thể được chấp nhận mua tín dụng.
- Thời hạn tín dụng: là thời gian mà người mua được trì hoãn thanh toán,
nghĩa là từ lúc có hóa đơn đến thời hạn cuối cùng họ phải thanh toán.
- Chiết khấu thanh toán: Tỷ lệ phần trăm giảm giá và thời hạn trả trước để

nhận được chiết khấu thanh toán.


20

- Chính sách thu hồi nợ: được đo lường bởi mức độ chặt chẽ hay lỏng lẽo
của doanh nghiệp trong nỗ lực thu hồi các hợp đồng trả chậm.
Nhà quản trị tín dụng có trách nhiệm quản lý chính sách tín dụng của
doanh nghiệp. Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu từng biến số của chính sách tín
dụng:
* Tiêu chuẩn tín dụng
Tiêu chuẩn tín dụng là những yếu tố liên quan đến sức mạnh tài chính và
mức độ tín nhiệm tín dụng mà mỗi khách hàng phải đảm bảo để có quyền
hưởng mức tín dụng mà doanh nghiệp cấp cho những khách hàng như họ.
Việc thiết lập tiêu chuẩn tín dụng nhằm đo lường chất lượng tín dụng, qua
đó xác định khả năng của khách hàng trong việc chấp hành các nghĩa vụ và
xác suất mất mát của doanh nghiệp khi cấp tín dụng cho khách hàng. Phương
pháp phán đoán “ 5Cs ” là phương pháp truyền thống thường được sử dụng để
đánh giá chất lượng tín dụng
- Tư cách tín dụng ( Character )
Đặc tính này ám chỉ mức độ uy tín hay không uy tín của khách hàng. Đó
là thái độ tự giác trong thanh toán công nợ của khách hàng. Yếu tố này rất
quan trọng vì một hoạt động giao dịch tín dụng luôn luôn đi kèm với một sự
hứa hẹn sẽ thanh toán.
- Khả năng thanh toán ( Capacity )
Đặc tính này ám chỉ sự xét đoán về khả năng trả nợ của khách hàng. Sự
xét đoán có thể căn cứ vào các giao dịch trong quá khứ, tình hình thanh toán
thực tế, phương pháp quản trị doanh nghiệp.

- Vốn ( Capital )



21

Đặc tính này được đo lường bởi tình trạng tài chính tổng quát của doanh
nghiệp qua sự phân tích các tỷ số tài chính, tỷ số nợ/vốn, tỷ số thanh toán, chú
trọng đặc biệt vào các tài sản vật chất của doanh nghiệp.
- Thế chấp ( Collateral )
Đặc tính này ám chỉ các tài sản mà khách hàng có thể dùng để đảm bảo
cho khoản nợ của mình.
- Điều kiện kinh tế ( Condition )
Liên quan đến sự phát triển kinh tế vi mô, vĩ mô có ảnh hưởng tới khả
năng thanh toán nợ của khách hàng.
* Thời hạn tín dụng
Thời hạn tín dụng có thể tác động rất lớn đến doanh số. Nếu nhu cầu đối
với một loại sản phẩm nào đó phụ thuộc vào thời hạn tín dụng, doanh nghiệp
có thể thúc đẩy tăng doanh số. Tuy nhiên, để ra quyết định này, doanh nghiệp
phải nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh gần nhất. Nếu các đối thủ cũng kéo dài
thời hạn tín dụng thì có thể doanh nghiệp sẽ vẫn không tăng được doanh số
khi nới rộng thời hạn thanh toán cho khách hàng.
Cũng như tiêu chuẩn tín dụng, khi mở rộng hay thu hẹp thời hạn tín dụng,
các nhà quản trị tài chính phải xem xét sự đánh đổi bù trừ giữa lợi nhuận tăng
thêm và chi phí tăng thêm. Xem xét mức tăng lợi nhuận có đủ bù đắp mức
tăng chi phí hay không? Hay tiết kiệm chi phí có đủ bù đắp lợi nhuận giảm
không? Từ đó ra quyết định đúng đắn nhất.
* Chiết khấu thanh toán
Mục đích của việc áp dụng chiết khấu thanh toán của doanh nghiệp có thể
là: Kích thích gia tăng doanh số, tìm kiếm khách hàng mới, khuyến khích
được khách hàng thanh toán sớm từ đó giảm được kỳ thu tiền bình quân cũng
nhu giải phóng nhanh hàng tồn kho góp phần tái sản xuất nhanh chóng. Bên



22

cạnh đó, áp dụng chiết khấu thanh toán còn giúp doanh nghiệp gia tăng năng
lực cạnh tranh trong ngành.
Tuy nhiên, khi áp dụng chính sách chiết khấu, nghĩa là giảm doanh thu
ròng, do đó, giảm lợi nhuận. Liệu giảm chi phí đầu tư khoản phải thu có đủ bù
đắp thiệt hại do giảm lợi nhuận hay không, đó cũng là điều doanh nghiệp cần
xem xét trước khi áp dụng chính sách chiết khấu thanh toán cho khách hàng.
* Chính sách thu hồi nợ
Các khoản nợ phải thu đã quá hạn thanh toán xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, khách quan lẫn chủ quan. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu có thể do
khách hàng kinh doanh thua lỗ, dẫn đến việc gặp khó khăn về dòng tiền hoặc
mất khả năng thanh toán, làm cho doanh nghiệp bán phải gánh thêm phần nợ
phải thu quá hạn hoặc khó đòi. Ngoài ra, đa số doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay mua bán chịu chủ yếu dựa vào uy tín, ít dùng đến ràng buộc qui định
trong hợp đồng kinh tế. Bên cạnh đó, để thu hút khách hàng, nhiều doanh
nghiệp đưa ra chính sách bán chịu khá ưu đãi. Điều này càng làm doanh
nghiệp tăng các khoản phát sinh khoản nợ khó đòi và rủi ro không thu hồi
được nợ. Vì vậy, doanh nghiệp cần có chính sách thu hồi nợ phù hợp với điều
kiện doanh nghiệp mình.
1.3.2.2 Phân tích và ra quyết định tín dụng thương mại
Khi cung cấp chính sách tín dụng cho khách hàng, doanh nghiệp cần tiến
hành phân tích để đánh giá các rủi ro liên quan và khả năng khách hàng thanh
toán các khoản nợ theo kế hoạch. Mục tiêu là để đánh giá khả năng thanh toán
của khách hàng. Điều này liên quan đến nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp,
tình hình tài chính cũng như một số yếu tố khác. Quá trình phân tích và ra
quyết định tín dụng thương mại cho khách hàng của doanh nghiệp được thể
hiện qua hình dưới đây:



23

Môi trường
kinh doanh

Hoạt động
SXKD của
khách hàng

Sức mạnh
kinh doanh

Dòng ngân
quĩ

Tài sản & nợ
hiện tại

Lợi nhuận

Khả năng thanh toán và sức mạnh tài
chính

Độ an toàn về
tài chính

Khả năng
hoàn trả nợ


Hình 1.2 : Quá trình phân tích và ra quyết định tín dụng thương mại

Sau khi phân tích tín dụng khách hàng dựa trên các tính toán và cân nhắc,
doanh nghiệp sẽ ra quyết định có thực hiện chính sách bán tín dụng cho khách
hàng đó hay không?
Có 2 mô hình ra quyết định chính sách tín dụng thương mại:

Nới lỏng chính sách tín
dụng

Tăng khoản
phải thu

Tăng chi phí vào khoản
phải thu

Tăng
doanh thu

Tăng lợi nhuận đủ bù
đắp tăng chi phí không?

Tăng
lợi nhuận

RA QUYẾT ĐỊNH

Hình 1.3: Mô hình nới lỏng chính sách tín dụng



24

Thắt chặt chính sách tín
dụng

Giảm khoản
phải thu

Tiết kiệm chi phí cho
khoản phải thu

Giảm
doanh thu

Tiết kiệm chi phí có đủ bù
mức giảm lợi nhuận
không?

Giảm
lợi nhuận

RA QUYẾT ĐỊNH

Hình 1.4: Mô hình thắt chặt chính sách tín dụng

1.3.3 Quản trị hàng tồn kho
Ngoài tiền, chứng khoán ngắn hạn và khoản phải thu trong quá trình hoạt
động doanh nghiệp còn đầu tư vào hàng tồn kho.
Hàng tồn kho là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp, quản trị hàng tồn kho có vai trò rất quan trọng trong
quản lý tài chính của doanh nghiệp. Nếu mức tồn kho càng thấp thì càng tiết
kiệm vốn đầu tư nhưng phải đặt hàng nhiều lần vì vậy tốn kém chi phí đặt
hàng, đồng thời thấp có thể dẫn tới khả năng không đáp ứng kịp thời nhu cầu
của khách hàng. Ngược lại, nếu mức tồn kho cao sẽ tránh được khả năng
thiếu dự trữ hàng hóa nhưng đòi hỏi nhiều vốn đầu tư và chi phí lưu kho lớn.
Quản trị hàng tồn kho được thực hiện trên cơ sở đáp ứng được những yêu
cầu cơ bản sau:
- Lượng đặt hàng là bao nhiêu vào một thời điểm qui định?
- Vào thời điểm nào thì đặt hàng?
- Mức tồn kho nào là an toàn?
- Loại hàng dự trữ nào cần được chú ý?


25

1.3.3.1 Hàng tồn kho và chi phí hàng tồn kho
Hàng tồn kho là những tài sản được giữ để bán trong kỳ sản xuất kinh
doanh, hoặc đang trong quá trình sản xuất dở dang.
Hai chi phí liên quan trực tiếp đến quản trị hàng tồn kho là chi phí đặt
hàng và chi phí lưu kho. Trong đó:
- Chi phí đặt hàng: bao gồm các chi phí giao dịch, vận chuyển và chi phí
nhận hàng. Chi phí đặt hàng được tính cho mỗi lần đặt hàng khi doanh nghiệp
tiến hành đặt hàng từ bên ngoài.
- Chi phí lưu kho: bao gồm tất cả các chi phí lưu trữ hàng hóa trong kho
một khoảng thời gian xác định như chi phí lưu giữ hàng tồn kho, chi phí hư
hỏng – thiệt hai do bị lỗi thời, chi phí bảo hiểm, chi phí thuế, chi phí đầu tư
vào hàng tồn kho. Chi phí lưu kho được tính trên mỗi đơn vị hàng tồn kho
hoặc được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng tồn kho trong một thời
kỳ.

Tổng chi phí hàng tồn kho có thể khái quát như sau:
Tổng chi phí hàng tồn kho = Chi phí đặt hàng + Chi phí lưu kho
Chi tiết phương trình trên như sau:
Tổng chi phí

= (

Chi phí 1 đơn hàng
X

) +(

Số đơn hàng
T =(F

X

Mức tồn kho bình quân
D
Q
) +( H )
Q
2

Trong đó:
D: tổng nhu cầu hàng cần nhập trong kỳ
Q: số lượng mỗi lần đặt hàng
F: chi phí cố định cho mỗi đơn hàng
H: chi phí tồn kho 1 đơn vị


Chi phí tồn kho 1 đơn vị

)


×