Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

nguyen tac thong nhat giua ly luan va thuc tien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.74 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo
thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển
của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức
và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là
tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát
từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách
giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay
không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự
chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới,
mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho
hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ
nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là
triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính
ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước
ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương
hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp
với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi
song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế,
từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế
giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và
qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách
Trang 1



quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và
tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay. Vì vậy, em quyết định chọn
đề tài “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng
quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam”.

Trang 2


CHƯƠNG 1
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄNCỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1.1. KHÁI NIỆM THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC
1.1.1. Phạm trù thực tiễn của Triết học
 Các quan điểm về thực tiễn
Một trong những khuyết điểm chủ yếu của lý luận nhận thức duy vật
trước Mác là chưa thấy hết vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Một số nhà triết học như Ph. Bêcơn, Đ. Diđơrô …đề cao vai trò của
thực nghiệm khoa học, chưa đề cập đến vai trò của các hình thức khác của
thực tiễn đối với nhận thức.
G. Hêghen tuy có đề cập đến thực tiễn, nhưng ông không coi thực tiễn
là hoạt động vật chất mà là hoạt động tinh thần.
L. Phoiơbăc chỉ coi lý luận mới là hoạt động đích thực, còn thực tiễn
chỉ được ông xem xét ở khía cạnh biểu hiện bẩn thỉu mà thôi.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng
trong lý luận nhận thức bằng cách đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận
nhận thức.
Lênin nhấn mạnh: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” (Lenin toàn tập, tập 18, tr.
167)
 Thực tiễn là gì

Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính xã hội - lịch sử
của con người nhằm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân con người .
 Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Hoạt động thực tiễn có 3 hình thức cơ bản:

Trang 3


Lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt
động trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn
tại và phát triển của xã hội.
Hoạt động biến đổi xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, Là hoạt
dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và
hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho
hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất
con người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích
phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
1.1.2. Phạm trù lý luận của Triết học
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người , là tổng hợp những tri thức về tụ nhiên và xã hội tích trữ lại trong
quá trình lịch sử”.
Để hình thành lí luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn
biến của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức
kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thong
thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố
của tri thức ở trình độ thấp nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận.

Lý luận có nghững cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò
của nó, cps thể phân chia lý luận thành lí luận ngành và lí luận triết học.
Lý luận ngành là ly luận khái quát những quy luật hình thành và phát
triển của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp
luận hoạt động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật…

Trang 4


Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới
và con người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động
của con người.
1.2. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.2.1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý
luận, lý luận hình thành, phát triển sản xuất từ thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn
1.2.1.1. Thực tiễn là cơ sở cuả lý luận
Xét một cách trực tiếp những tri thức được khái quát thành lý luận là
kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn cuả con người. Thông qua kết quả
của hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người phân
tích cấu trúc, tích chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong
các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt động thực tiễn là
cơ sở để bổ sung và điều chỉnh các lý luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt
động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mơi đòi hỏi quá
trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ sung
mở rộng. Chính vì vậy, V.I.Lênin nói: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách
thể trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện cuả nó, trong sự
vận động mâu thuẫn cuả nó tự nó và vì nó”
1.2.1.2. Thực tiễn là động lực của lý luận

Hoạt động của con người không chỉ là nguông gốc để hoàn thiện các cá
nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự
nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động
thực tiễn,mang lại lợi ích cho con người càng kích thích cho con người bám
sát thực tiễn khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn
tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc
hơn. Nhờ vậy hoạt động của con người không bị hạn chế trong không gian và

Trang 5


thời gian. Thông qua đó, thực tiễn đã thúc đẩy một ngành khoa học mới ra đời
– khoa học lý luận
1.2.1.3. Thực tiễn là mục đích của lý luận
Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức khái quát về thế giới để làm
thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ yếu
của lý luận là nâng cao những hoạt động của con người trước hiện thực khách
quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân
và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo lên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu
của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt
động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Đó
thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động
thực tiễn của con người
1.2.1.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn
khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận
với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó mọi lý luận phải thông qua thực
tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì thế mà C. Mác nói : “vấn đề đẻ tìm hiểu xem
tư duy của con người có thể đạt đến chân lý của khách quan không, hoàn toàn
không phỉa vẫn đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà

con người phải chứng minh chân lý”. Thông qua lý luận những lý luận đạt
đến chân lý sẽ được bổ sung vào khp tàng chi thức nhân loại, những kết luận
chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá
trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực
tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chấn lý của lý luận
khi thực tiễn đạt đến mức toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là
thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, hoạt động, phát triển và chuyển hóa. Đó
là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai cấp phát triển khác

Trang 6


nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận
có thể xa rời thực tiễn. Do đó chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn
vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà V.I.Leenin cho
rằng :“Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào
ý thức của con người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng này có
tính vững chắc của một thiên khiến, có một tính chất công lý, chính vì sự lặp
đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy”
1.2.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải
được vân dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực
tiễn
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng
định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện.
Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của
thực tiễn, dự báo được những rủi ro đã xảy ra, những hạn chế những thất bại
có thể có trong quá trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ giúp con
người hoạt động hiện quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và
tăng năng lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác

ngộ mục tiêu, lý tưởng liên kết các cá nhân thành cộng đồng tạo thành sức
mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không
thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị
đánh đổ bằng lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song nó còn mang tính lịch sử,
cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta còn phân tích cụ thể mỗi tính
hình cụ thể. Nếu vân dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng
những hiều sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm
sai lệch sự thồng nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn

Trang 7


Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó
khăn của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy
phong phú, đa dạng nhưng không phải khôn g có tính quy luật. Tính quy luật
của thực tiễn được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận
không chỉ là phương pháp mà còn định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là
định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các
mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không những thế lý luận còn định
hướng mô hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực
tiễn, trước hết từ lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những mục đích
khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến các mối quan hệ, lực
lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển đẻ phát
huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu với thực
tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến
của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận,
hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận

vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả có thể không, hoặc kết quả chưa
rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luân phải do thực tiễn quy định.
Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn lý luận, vì nó có ưu điểm không
những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”

Trang 8


CHƯƠNG 2
ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI KINH TẾ VIỆT NAM
2.1. Hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam sau chiến tranh đặt ra yêu cầu đổi
mới
2.1.1.Tình hình thực tiễn của Việt Nam sau chiến tranh:
 Tình hình thực tế
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế
kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình
thức tổ chức sản xuất và dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc
doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không
còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ
chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức kinh tế của Liên Xô cũ.
Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy
được những tính ưu việt đó.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng
công cụ kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật
chất quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông

thôn, đất đai, máy móc, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền
biến về kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ
ra phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm
vụ sản xuất và chiến đấu trong chiến tranh lúc đó.

Trang 9


Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện
trạng kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả
ba loại hình:
 Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
 Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
 Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta
vẫn tiếp tục xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên
phạm vi cả nước. Đó là sự áp đặt rất bất lợi.
 Hậu quả:
Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được
hiệu quả các nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn
lực của đất nước.
- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường
bị ô nhiễm.
- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm
trọng cho nền kinh tế.
 Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý
thuyết, giấy tờ.
 Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu
cầu trong nước.

 Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng
tăng và không có khả năng cho chi trả.
 Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ
hầu như không có.

Trang 10


 Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và
viện trợ nước ngoài.
- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội.
Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân
dân khó khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá
thể bị tiêu diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm
năng to lớn của các thành phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ
cho mục tiêu chung của nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế quốc
doanh đã phát triển ồ ạt, tràn lan trên mọi lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn
trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ (trừ ngành nông
nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời điểm cao nhất, thànhphần
kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài sản cố định
chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước
ta tuy có đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó
không có cơ sở để phát triển vì đã dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi ngân
sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài.
Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập
trung nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các
doanh nghiệp quốc doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực
lượng sản xuất không được giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng
hoảng và tụt hậu.

 Nguyên nhân
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối
dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước
ta.

Trang 11


Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa
bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế
lỗi thời chưa được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng
thời những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.
Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy
bén, là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất
từ trên xuống dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình
thức, bước đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả
đáng cả về lý luận và thực tiễn.
2.1.2. Tư tưởng chỉ đạo đối với tình hình kinh tế của Việt Nam sau chiến
tranh.
Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá
độ:”Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những
chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan” (Đảng công sản Việt nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI-1986). Chúng ta đã có những
thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thừa nhận thật sự những quy luật
của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.
Chúng ta đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà
hiệu quả kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản
xuất nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều

khó khăn.
Bên cạnh đó, sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào
những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị
trường truyền thống, nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với
sản xuất và đời sống.

Trang 12


Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực
phản động cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp
vào những năm 1979 - 1980 đã đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công
nghiệp chỉ tăng 0,6%, nông nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát ở mức siêu
cấp năm 1986 : 74%
Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “ Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VI về phát triển kinh tế phải xuất phát từ thực tiễn,
tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính
từ những khó khăn trên đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xã hội. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu một mốc phát triển quan trọng trong
quá trình phát triển của đất nước.
2.1.3. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế của Việt Nam
sau chiến tranh
Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước
hết phải thay đổi nhận thức , đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động
đúng đắn, đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật
khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi
phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội. Mọi chủ trương,
chính sách, biện pháp kinh tế gây tác động ngược lại đều biểu hiện sự vận

dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc huỷ bỏ.
Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật
đang tác động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh
tế cơ bản cùng với các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng
phát huy vai trò chủ đạo, được vận dụng trong một thể thống nhất với các quy
luật của sản xuất hàng hoá, đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy

Trang 13


luật cạnh tranh... Kế hoạch hoá phải luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các
đòn bảy kinh tế.
Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Những quan
điểm, đường lối do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo
chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước .
Công cuộc đổi mới của Đảng từ sau Đại hội VI đến nay ở nước ta không nằm
ngoài những quy luật phổ biến của phép biện chứng, Đảng ta đã vận dụng
phép biện chứng vào nhận thức hiện thực xã hội, phân tích các mối liên hệ
biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu thuẫn đó và tạo ra động lực
mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.
Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều
khó khăn phức tạp, gay gắt, lạm phát phi mã do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa
lý luận và thực tiễn có khoảng cách xa. Tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo
mô hình tập trung quan liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản
xuất. Bị chi phối bởi quy luật mâu thuẫn khách quan nên để giải quyết mâu
thuẫn đó Đảng ta đã tiến hành đổi mới và cải cách kinh tế.
Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để
làm đủ ăn và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu
kinh tế hợp lý, trước hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy luật
về sự phát triển các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với sự phân công lao

động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển
cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định. Phải thông qua việc sắp xếp lại sản
xuất, đi đôi với việc xây dựng thêm cơ cấu kinh tế hợp lý.
Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng, xuất khẩu.
Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các

Trang 14


biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác
trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa. giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng
quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ
chế kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống
tập trung quan liêu, chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh, tự chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của
các tập thể lao động.
2.2. Quá trình đổi mới kinh tế của Việt Nam
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho
phép phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta
hiện nay. Phải dung hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do
lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan
giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân,

đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ
nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu
thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức.
Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự
nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý
luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều
kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý
luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý

Trang 15


luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức,
của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái
quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm,
vừa làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi
quay trở lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong
thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều
điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán trong
nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ
không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân
dân là rất quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi
thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa - đó là bài học không chỉ của sự
nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi
mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không

hề coi nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng
cao trình độ lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó
được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận
động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới
 Bước chuyển thứ nhất của kinh tế Việt Nam trong quá trình đổi
mới
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở
hữu xã hội (Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản
xuất đối với sự phát triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự
phát triển sản xuất... sang tư duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất

Trang 16


biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân
phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn
trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng
bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp .
 Bước chuyển thứ hai của kinh tế Việt Nam trong quá trình đổi
mới
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung,
kế hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý
mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ
nghĩa

 Bước chuyển thứ ba của kinh tế Việt Nam trong quá trình đổi
mới
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu
với phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực
của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện.
 Bước chuyển thứ tư của kinh tế Việt Nam trong quá trình đổi
mới
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội
ở một nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê nin trong điều kiện hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của nước đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ
sở khách quan quy định nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh
đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng thời một lần nữa làm
sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chính sách.

Trang 17


 Bước chuyển thứ năm của kinh tế Việt Nam trong quá trình đổi
mới
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội
những nhận thức mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực
tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát
triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai
đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững
và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Để khắc
phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải đẩy mạnh công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò
tích cực của mình đối với thực tiễn.

Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức
tạp, đòi hỏi phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý
luận cũ. đồng thời, đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ
những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, phủ định sạch trơn mọi
giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là
một bộ phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát
triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý
luận với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình
đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và
làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính là động
lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những khiếm
khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai
sót và thiệt hại.
2.3. Tác động của quá trình đổi mới đến kinh tế xã hội Việt Nam

Trang 18


Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, nền Việt Nam đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường
cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Đó là hai trong số năm thành tự mà Việt Nam đạt được qua 20 năm
đổi mới (1986 - 2006).
Trong 20 năm qua, nét nổi bật của Việt Nam là từ một nước trì trệ, tăng
trưởng thấp, tích luỹ phần lớn nhờ vào vay mượn bên ngoài, đến nay đã trở
thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Việt Nam đã tạo
được khả năng tích luỹ để đầu tư cho phát triển và cải thiện đời sống của

người dân. Tổng tích luỹ tăng từ 9,5 – 11,3%/năm tuỳ giai đoạn. Nhưng cơ
bản, Việt Nam đã đổi mới được cơ chế quản lý, nhờ đổi mới mà Việt Nam
từng bước xây dựng được vai trò của mình trong hội nhập khu vực và quốc tế.
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến năm 1995, lần
đầu tiên, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 19911995 được hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời
kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai
đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện
một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất.
Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1995: Nền kinh tế khắc phục được tình
trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục
và toàn diện. GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng
hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước.
Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000, là bước phát triển quan trọng
của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng
Trang 19


hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp
đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt
Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ
tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình
quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Từ một
nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta
đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su,

thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988
là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng
trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản
phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu.
Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế
hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng
5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là
21,6%, năm 2005 lên 41%. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến nay, mỗi năm
đã khai thác được khoảng gần 20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công nghiệp chế
tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp xây dựng phát
triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại.
Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong
những thị trường lớn. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất
công nghiệp và xây dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn

Trang 20


thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư
vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông,
tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1990, lao
động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 73,02% trong tổng số lao động xã hội,
năm 2000 còn 56,8%.

Trong khi đó, tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng
tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch
vụ tăng tương ứng từ 19,7% lên 25,3%; lao động đã qua đào tạo tăng từ 20%
năm 2000 lên 25% năm 2005.
Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu
quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu
của nền kinh tế. Số doanh nghiệp Nhà nước qua sắp xếp đổi mới, cổ phần hoá
đã giảm từ 12.084 doanh nghiệp năm 1990 xuống còn 2.980 doanh nghiệp
100% vốn Nhà nước và 670 công ty cổ phần do Nhà nước chi phối trên 51%
vốn điều lệ năm 2005. Qua đổi mới, doanh nghiệp Nhà nước năm 2005 đóng
góp 38,5% GDP và khoảng 50% tổng ngân sách Nhà nước.
Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao
động xã hội. Năm 2005 chiếm 46% GDP. Trong đó, kinh tế hợp tác phát triển
ngày càng đa dạng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, năm 2005, kinh tế hợp
tác đóng góp khoảng 7% GDP.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn
lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp
khoảng 38% GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao,
trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu
nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế.

Trang 21


Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân
sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu
(không kể dầu khí); đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn

nửa triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Qua 20 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng
tương đối đồng bộ. Từng bước phát triển đồng bộ và quản lý sự vận hành các
loại thị trường cơ bản, theo cơ chế mới. Thị trường hàng hoá phát triển với
quy mô lớn, tốc độ nhanh. Các thị trường dịch vụ, lao động, khoa học và công
nghệ, bất động sản đang được hình thành.
Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi
trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tiềm lực tài chính
ngày càng được tăng cường, thu ngân sách tăng trên 18%/năm; chi cho đầu tư
phát triển bình quân chiếm khoảng 30% tổng chi ngân sách.
Xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh cả về quy mô và tốc độ. Tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá trước thời kỳ đổi mới chỉ đạt khoảng 1 tỷ
USD/năm, đến nay tổng kim ngạch xuất khẩu đã vượt hơn 50% GDP, tức là
trên 25 tỷ USD/năm.
Một số sản phẩm của Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới với những thương hiệu có uy tín. Đáng chú ý là xuất khẩu dịch vụ tăng
rất nhanh, tăng 15,7%/năm, bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường
xuất khẩu được mở rộng sang những nền kinh tế lớn.
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ năm 2000 đến 2005 tăng
khoảng 19%/năm, nhập siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Nhập siêu tuy còn cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có
xu hướng giảm dần.
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng hàng
công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 36%

Trang 22


năm 2005, hàng nông, lâm thuỷ sản giảm từ 29% xuống 24%; hàng công

nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 38,8% lên 39,8%.
Trong 20 năm qua, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo
đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ
năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất
nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông
thôn đạt 80%.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên
khoảng 640 USD năm 2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm
từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1
USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993
xuống còn 28,9% năm 2002.
Chỉ số phát triển con người được nâng lên, từ mức dưới trung bình
(0,498) năm 1990, tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm 2002; năm 2005
Việt Nam xếp thứ 112 trên 177 nước được điều tra.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được
nâng cấp, ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội
được đẩy mạnh; tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 nâng lên 71,3 tuổi
vào năm 2005.

Trang 23


CHƯƠNG 3
VẬN DỤNG TÍNH THỐNG NHẤT CỦA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ VIỆT NAM
3.1. Ý NGHĨA CỦA VIỆC VẬN DỤNG TÍNH THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ
CỦA VIỆT NAM
Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu
chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam . Nhưng trong quá trình xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội VII
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây
dựng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai
lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan nóng vội trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá lâu cơ
chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp... Quán triệt nguyên tắc khách
quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới
mẻ, khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ
quan và tính năng động chủ quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình
cách mạng và tri thức khoa học bởi tri thức khoa học có được hay không là
nhờ ở lòng ham hiểu biết, trí thông minh, ý chí ngược lại nếu tri thức khoa
học phát huy được tác dụng trong thực tiễn thì nó lại trở thành động lực tăng
thêm tri thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế khách quan và phát
huy nỗ lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự phát triển
nhận thức mà còn giúp cho lý luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.

Trang 24


Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan
để hoạt động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ
đạo trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với
tri thức khoa học được trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần
thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng`và mục tiêu đúng đắn phát
triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được trình độ phát triển kinh tế
chung của khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá hiện

nay, những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ thực tiễn
tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó.
3.1 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHO VIỆC VẬN DỤNG TÍNH THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NHẮM PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI
Hiện nay, Việt Nam còn là một nước đứng vào hàng những nước nghèo
trên thế giới, việc đưa nước ta thoát khỏi tình trạng này đòi hỏi sự nỗ lực hết
mình của mỗi người đặc biệt là phát triển kinh tế . Mục tiêu của chúng ta là
phát triển kinh tế đi kèm với công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, cần đẩy
mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới một cách
toàn diện mọi lĩnh vực. Sự đổi mới này phải đồng bộ, tuân theo quá trình nhận
thức và tình hình thực tiễn đất nước. Phát triển một nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường nhưng phải dưới sự quản lý của Nhà
nước là theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì những mục tiêu trên đây, cần
thiết phải có một số giải pháp cho phát triển kinh tế tương lai.
Tập trung phát triển kinh tế về chất và lượng. Đầu tư có trọng điểm
cho nông nghiệp, phát triển hình thức nông trại sản xuất của tư nhân hoặc tổ
chức nhỏ. Tạo nguồn vốn cho công nghiệp nhẹ, hiện đại hoá dây chuyền thiết
bị. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm đưa công
nghệ thông tin vào đời sống sản xuất.

Trang 25


×