Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

BÀI tập lớn học kỳ Dân sự 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.24 KB, 46 trang )

MỤC LỤC


PHẦN 1
Mục 1: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.
Trả lời:
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về người đại diện được trình
bày sau đây:
1. Đại diện
- Căn cứ: Điều 139 BLDS 2005 và Điều 134 BLDS 2015.
- BLDS 2015 thêm “pháp nhân” là người đại diện thay vì chỉ có cá nhân (là “một

-

-

2.
-

3.
-

-

người” theo BLDS 2005):
“Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân
danh vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Bỏ “chủ thể khác” (trong cụm cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác) là người thực
hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện trong BLDS 2005:


“Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người
đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy
định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó”.
Thay đổi điều kiện về người đại diện: từ “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này” sang “phải có năng
lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được
xác lập, thực hiện.”
Căn cứ xác lập quyền đại diện
Tách Điều 135 BLDS 2015 (căn cứ xác lập quyền đại diện) ra từ khoản 3 Điều
139 BLDS 2005.
BLDS 2015 thêm 2 căn cứ xác lập quyền đại diện là “quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền” và theo “điều lệ của pháp nhân”:
“Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người
đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật
(sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật)”.
Đại diện theo pháp luật
Tách Điều 141 BLDS 2005 về người đại diện theo pháp luật ra thành 2 điều là
Điều 136 về đại diện theo pháp luật của cá nhân và Điều 137 về đại diện theo pháp
luật của pháp nhân.
Bỏ đi quy định liên quan đến chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình; tổ trưởng tổ hợp
tác đối với tổ hợp tác

2


-

4.
-


-

5.
6.
7.
-

Điều 137 BLDS 2015 thêm quy định về số lượng người đại diện cho pháp nhân
(Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại
diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của
Bộ luật này).
Đại diện theo ủy quyền
Căn cứ: Điều 142, 143 BLDS 2005 và Điều 138 BLDS 2015.
Gộp Điều 142 và Điều 143 BLDS 2005 thành Điều 138 BLDS 2015.
Thay “người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân” thành “pháp nhân”, coi pháp
nhân như một chủ thể của pháp luật:
“Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự”.
Thêm điều luật quy định về hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân:
“Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ
gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân” (khoản 2 Điều
138 BLDS 2015).
Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện
Căn cứ: Điều 139 BLDS 2015.
Là một điều khoản hoàn toàn mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005
Thời hạn đại diện

Gộp Điều 147 (chấm dứt đại diện của cá nhân) và Điều 148 (chấm dứt đại diện
của pháp nhân) của BLDS 2005 thành Điều 140 (thời hạn đại diện) (BLDS 2015).
Phạm vi đại diện
Căn cứ: Điều 144 BLDS 2005 và Điều 141 BLDS 2015.
Giới hạn lại quyền người đại diện có thể thực hiện (trước đó trong BLDS 2005,
người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì
lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác)
(khoản 1 Điều 141 BLDS 2015):
Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện theo căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.

˗

Thêm nội dung mới về số lượng có thể đại diện: Một cá nhân, pháp nhân có thể
đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân
danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình
hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác (Khoản 3 Điều 141 BLDS 2015)
3


8. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
- Căn cứ: Điều 145 BLDS 2005 và Điều 142 BLDS 2015
- Thêm các điều khoản loại trừ với trường hợp giao dịch dân sự do người không có

-


9.
-

quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh nghĩa vụ đối với người
được đại diện (Khoản 1 Điều 142 BLDS 2015).
Thêm hậu quả đối với trường hợp không có quyền đại diện và người đã giao dịch
cố ý xác lập, thực hiện giao dịch, cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây
thiệt hại cho người được đại diện (khoản 4 Điều 142 BLDS 2015).
Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm
vi đại diện
Căn cứ: Điều 146 BLDS 2005 và Điều 143 BLDS 2015
Thêm hậu quả đối với trường hợp người đại diện và người đã giao dịch cố ý xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho
người được đại diện (khoản 4 Điều 143 BLDS 2015).

Lưu ý: những chỗ được in nghiêng phía trên là điểm mới trích trong các điều luật của
BLDS 2015.
Câu 2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng
Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?
Trả lời:
Trong phần đầu của phần Nhận thấy của Quyết định cho thấy ông Mạnh đại diện
cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel:
“Ngày 16/01/2007, Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (gọi tắt là Công ty kim khí
Hưng Yên – bên A) – do ông Lê Văn Mạnh – Phó Tổng Giám đốc làm đại diện ký Hợp
đồng mua bán phối thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY với Vinausteel – bên B)”1.
Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?
Trả lời:
Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm gì với Vinausteel.

Trích từ bản án: “Việc ông Lê Văn Mạnh có Bản cam kết vào ngày 01/4/2007 “xin
chịu trách nhiệm trước pháp luật và xin cam kết nhận trách nhiệm trả cho Công ty và các
bên thứ ba (trong đó có Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel) tất cả các khoản nợ
và bồi thường thiệt hại phát sinh từ các giao dịch, hợp đồng” mà ông Mạnh đã ký trước
hoặc từ các giao dịch, hợp đồng của Công ty được ký kết trước đó. Tuy nhiên, Công ty
Vinausteel không tham gia ký kết, không đồng ý nên không thuộc trường hợp chuyển
giao nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khản 1 Điều 315 Bộ luật dân sự năm 2005”.

1 Quyết định số 08/2013/KTMD-GĐT NGÀY 15/03/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

4


Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết
phục không?)
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh là thuyết
phục.
Vì ông Mạnh mặc dù đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên trực tiếp ký Hợp
đồng với Công ty Vinausteel nhưng đó là dưới danh nghĩa của Công ty chứ không phải là
của riêng ông Mạnh, nghĩa là hợp đồng này là giữa hai pháp nhân với nhau. Chính vì thế,
việc Công ty Hưng Yên không giao đủ hàng là trách nhiệm của Công ty kim khí Hưng
Yên, không liên quan đến ông Mạnh. Ông Mạnh được bà Lan ký giấy ủy quyền cho ông
để thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thường mại trong phạm vi ngành kinh doanh
của Công ty. Nên việc ông ký kết Hợp đồng với Vinausteel là hoàn toàn không vượt quá
thẩm quyền của ông, thỏa khoản 1 Điều 141 BLDS 2015về phạm vi đại diện như sau:
“1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện theo căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;

b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.”
Về vấn đề này, PGS. TS. Đỗ Văn Đại có nhận định: “Vì người đại diện xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự trên danh nghĩa của người được địa diện nên, mặc dù người
đại diện giao dịch trực tiếp với người thứ ba, giao dịch dân dân sự không được xác lập
giữa người đại diện và người thứ ba. Về phía người đại diện, mặc dù Bộ luật dân sự
không quy định rõ, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng người đại diện không có trách
nhiệm đối với giao dịch được xác lập hợp pháp vì bên trong giao dịch là người được đại
diện chứ không phải là người đại diện. Bộ nguyên tắc châu Âu cũng theo hướng này và
đã quy định rõ hơn chúng ta tại Điều 3:302, theo đó “người đại diện không bị ràng buộc
đối với người thứ ba””2.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014: “Người đại diện theo ủy quyền chịu trách nhiệm
trước chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền do vi phạm các nghĩa vụ quy định tại
Điều này. Chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền chịu trách nhiệm trước bên thứ ba
đối với trách nhiệm phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua
người đại diện theo ủy quyền”3.

2 Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 35-37, tr. 288.
3 Khoản 3 Điều 16 Luật Doanh nghiệp 2014.

5


Như vậy, trách nhiệm giải quyết vấn đề này là của toàn bộ Công ty kim khí Hưng
Yên, còn ông Mạnh không phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì đới với Công ty Vinausteel.
Tuy nhiên, ông Mạnh phải chịu trách nhiệm đối với nội bộ Công ty của mình, Công ty
kim khí Hưng Yên theo Luật Doanh nghiệp nêu trên.
Có thể thấy, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng do người đại diện ký kết trong phạm

vi đại diện không là nghĩa vụ, trách nhiệm của người đại diện mà là của bên được đại
diện. Hay nói cách khác, hợp đồng dù do người đại diện ký kết thì trách nhiệm vẫn thuộc
về pháp nhân.
Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?
Trả lời:
Theo Hội đồng thẩm phán, Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán
các khoản nợ và bồi thường thiệt hại với công ty Vinausteel.
Trích trong phần Xét thấy của Quyết định: “Quá trình thực hiện hợp đồng trên,
Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng là trách nhiệm của Công ty kim khí Hưng
Yên”; “Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi
thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhan ông Mạnh, ông Dũng”.
Câu 6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên.
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Công ty kim khí
Hưng Yên nêu trên là hợp lý.
Việc Công ty kim khí Hưng Yên cho rằng việc ông Lê Văn Dũng và ông Lê Văn
Mạnh ký kết thực hiện hợp đồng thế nào Công ty không nắm được là vô lý. Vì trong
Quyết định có nhắc đến rằng Công ty kim khí Hưng Yên thừa nhận sau khi ký hợp đồng,
Công ty Vinausteel đã thực hiện nghĩa vụ chuyển tiền và Công ty kim khí Hưng yên đã
nhận đủ tiền. Cho nên việc Công ty phủ nhận trách nhiệm vì không nắm được hợp đồng
là không có căn cứ.
Ông Mạnh được bà Lan ký giấy ủy quyền cho ông để thực hiện các giao dịch dân
sự, kinh tế, thường mại trong phạm vi ngành kinh doanh của Công ty. Nên việc ông ký
kết Hợp đồng với Vinausteel là hoàn toàn không vượt quá thẩm quyền của mình, nằm
trong phạm vi đại diện thỏa khoản 1 Điều 141 về phạm vi đại diện. Ở Anh, “đại diện là
quan hệ phát sinh khi một bên, người được đại diện, cho phép người khác, người đại
diện, hành động trên danh nghĩa của họ và người đại diện chấp nhận làm việc được cho
phép”. Trong thực tế, “các nguyên tắc của đại diện mở rộng cho những trường hợp khác”

và một trong những trường hợp này là “ủy quyền đại diện có thể được đưa ra sau khi
người đại diện đã hành động trên danh nghĩa người được đại diện; hành động của người
đại diện được coi là ‘chấp thuận’”.
Do đó, theo khoản 1 Điều 139 quy định về hậu quả pháp lý của hành vi đại diện
như sau: “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp
6


với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện”. Vì vậy,
Công ty kim khí Hưng Yên chịu trách nhiệm với bên thứ ba là Công ty Vinausteel.
Bộ nguyên tắc châu Âu cũng theo hướng này tại Điều 3:302, theo đó “khi người
đại diện hành động trong phạm vi đại diện như đã được định nghĩa tại Điều 3:301, các
giao dịch của người đại diện ràng buộc trực tiếp người được đại diện và người thứ ba”. Ở
đây, “người đại diện làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp lý giữa người
được đại diện và người thứ ba”.4
Có thể thấy, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng do người đại diện ký kết trong phạm
vi đại diện là nghĩa vụ, trách nhiệm của bên được đại diện. Nói cách khác, hợp đồng dù
do người đại diện ký thì trách nhiệm vẫn thuộc về pháp nhân, và pháp nhân không được
từ chối trách nhiệm này.
Câu 7: Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng
có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không?
Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên
(như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải
được giải quyết tại Tòa án.
Trả lời:
Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có
thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận này vẫn có ràng buộc Công ty Hưng Yên.
Thứ nhất, vì có thỏa thuận trọng tài trong Hợp đồng nên điều lệ của Công ty Hưng
Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Công ty Hưng yên (như tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải được giải quyết tại Tòa án là không

được áp dụng. Vì theo Luật Trọng tài thương mại 2010: “Trong trường hợp các bên tranh
chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối
thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể
thực hiện được”5. Việc Công ty Hưng Yên có điều lệ như trên là quy định của riêng Công
ty, không thể áp dụng với một công ty khác được.
Thứ hai, theo Điều 19 Luật Trọng tài thương mại nói về tính độc lập của thỏa
thuận trọng tài như sau: “Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay
đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không
làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài.” Như vậy, dù thỏa thuận trọng tài là điều khoản
nhỏ hay văn bản đi kèm thì đều tách biệt với hợp đồng được thỏa thuận. Do đó, Công ty
Hưng Yên vẫn phải chịu trách nhiệm cho những phần khác của hợp đồng chính, không vì
có thỏa thuận trọng tài mà mất đi nghĩa vụ của mình.

4 Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 35-37, tr. 285.
5 Điều 6 Luật Trọng tài thương mại 2010.

7


Mục 2: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ
Câu 1: Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân
hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)?
Trả lời:
Trích từ phần Xét thấy của Quyết định:
“Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công văn số 064CV/XDII.TCKT gửi Chi
nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An trong đó có nội dung “đề nghị Ngân hàng Công
thương Nghệ An không cho các Xí nghiệp thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An vay
vốn khi chưa có bảo lãnh vay vốn của Công ty kể từ ngày 06/4/2001...” và “Các văn bản
của Công ty liên quan tới vay vốn tại Ngân hàng Công thương Nghệ An ban hành trước

ngày 06/4/2001 đều bãi bỏ”, nhưng ngày 14/5/2001 Ngân hàng vẫn ký Hợp đồng tín
dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền”.
Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm
với Ngân hàng về hợp đồng trên không?
Trả lời:
Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex phải chịu trách nhiệm với
Ngân hàng về hợp đồng trên.
Trích từ Quyết định: “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty
cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex phải trả khoản tiền nợ gốc và lãi (1.382.040.000 đồng)
cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam là có căn cứ”.
Tòa giải thích như sau:
“Khi nhận được tiền, Xí nghiệp xây dựng 4 đã mua máy móc phục vụ công việc
được Công ty giao và “cứ 6 tháng Xí nghiệp có báo cáo tài chính một lần” nên Ban giám
đốc Công ty đều biết việc vay vốn Ngân hàng của Xí nghiệp xây dựng 4 và không phản
đối. Hơn nữa, ngày 28/10/2002, Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công văn số 44
QĐ/CTII điều chuyển một số máy móc, phương tiện vận tải của Xí nghiệp xây dựng 4
(trong đó có một số thiết bị, máy móc hình thành từ vốn vay Ngân hàng theo hợp đồng
tín dụng trên) về văn phòng cơ quan để phục vụ thi công một số công trình do Công ty
thực hiện.
Mặt khác, ngày 29/10/2004, Công ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex có văn bản
(thư xác nhận số dư) yêu cầu Ngân hàng Công thương Nghệ An xác nhận công nợ của Xí
nghiệp xây dựng 4 Công ty xây dựng số II Nghệ An tính đến ngày 30/6/2004; Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Nghệ An đã xác nhận vào Thư xác nhận dư nợ: Xí nghiệp xây
dựng 4 còn nợ 1.731.000.000 đồng.

8


Như vậy, sau khi Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền Ngân hàng, Công ty xây dựng số
II Nghệ An biết và không phản đối nên Công ty xây dựng số II Nghệ An (nay là Công ty

cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex) phải chịu trách nhiệm trả khoản nợ này”6.
Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm.
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.
Trích khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 về hậu quả của giao dịch dân sự do người
không có quyền đại diện xác lập, thực hiện:
“1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp
sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc
không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có
quyền đại diện”.
Thứ nhất, việc Giám đốc Công ty xây dựng số II Nghệ An (nay là Công ty cổ phần
xây dựng 16 - Vinaconex) nói Công ty không chịu trách nhiệm vì Ngân hàng cho vay vốn
sai nguyên tắc thì phải tự chịu trách nhiệm là không có cơ sở. Ngày 25/02/2001, Tổng
giám đốc Công ty xây dựng số II có Văn bản số 23CV/TCT thông báo cho Chi nhánh
Ngân hàng Công thường Nghệ An (nay là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam –
Chi nhánh Nghệ An) biết việc Công ty đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 trực tiếp vay
vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An. Việc Công ty xây dựng số II Nghệ
An có Công văn số 06CV/SDII.TCKT ngày 06/4/2011 đề nghị Ngân hàng không cho các
Xí nghiệp thuộc Công ty vay vốn khi chưa có bảo lãnh sau đó thì vì Ngân hàng không
nhận được, nên Ngân hàng không biết là không được cho Xí nghiệp thuộc Công ty xây
dựng số II vay vốn. Ngoài ra, bên Công ty cũng không có bằng chứng chứng minh Ngân
hàng đã nhận được Công văn số 06CV/SDII.TCKT ngày 06/4/2011 nên việc Ngân hàng
vẫn tiếp tục ký kết với Xí nghiệp xây dựng 4 là việc có thể chấp nhận được, và Công văn
số 06CV/SDII.TCKT coi như không có. Theo điểm a và điểm c khoản 1 Điều 142 nêu
trên, Công ty xây dựng số II có quyền và nghĩa vụ đối với giao dịch với Ngân hàng do đã

công nhân giao dịch này.
Thứ hai, “cứ 6 tháng Xí nghiệp có báo cáo tài chính một lần” nên sau khi Xí
nghiệp 4 nhận được tiền, Ban giám đốc Công ty đều biết việc Xí nghiệp vay vốn và
không hề phản đối. Ngoài ra, Công ty xây dựng số II có văn bản yêu cầu Ngân hàng xác
nhận công nợ của Xí nghiệp xây dựng 4. Điều này cho thấy Ban giám đốc Công ty xây
dựng số II đều biết và không hề phản đối việc Xí nghiệp xây dựng 4 vay vốn. Do đó theo
6 Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

9


điểm b khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 đã được nêu ở trên, Công ty xây dựng số II phải có
trách nhiệm đối với giao dịch giữa Xí nghiệp xây dựng 4 và Ngân hàng.
Đồng quan điểm nêu trên, theo Điều 3:207 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng,
“giao dịch được xác lập, thực hiện bởi người không có quyền được đại diện hay vượt quá
phạm vi đại diện có thể được người đại diện chấp nhận. Một khi được chấp nhận, giao
dịch được coi là đã được phép”. Với quy định này, “giao dịch của người đại diện được coi
là như đã ràng buộc người được đại diện và người thứ ba ngay từ đầu”. Tương tự như vậy
trong Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 2.2.9)7.
Câu 4: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân
hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex
không có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao?
Trả lời:
Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng
phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có
quyền đại diện) thì sự phản đối này của Ngân hàng không được chấp nhận.
Theo BLDS 2015 về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại
diện xác lập, thực hiện: “Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền
đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại

diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này” 8.
Trong trường hợp này, Công ty xây dựng số II không phản đối hợp đồng, nghĩa là
đã công nhận giao dịch theo điểm a khoản 1 Điều 142 BLDS 2015. Chính vì vậy, theo
điều luật đã nêu ở phía trên về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại
diện xác lập, Ngân hàng Công thương Nghệ An (người đã giao dịch với người không có
quyền đại diện) không có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch
dân sự đã xác lập.
Bàn về vấn đề này, PGS. TS. Đỗ Văn Đại trích dẫn một số nguyên tắc, điều luật
nước ngoài và bình luận như sau:
“Nghiên cứu so sánh cho thấy các hệ thống luật mà chúng tôi biết không cho phép
người thứ ba phủ nhận giao dịch khi người trước đó không có quyền đại diện, vượt quá
phạm vi đại diện. Chẳng hạn, theo Điều 3:302 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng, “giao
dịch được xác lập, thực hiện bởi người không có quyền được đại diện hay vượt quá phạm
vi đại diện có thể được người đại diện chấp nhận. Một khi được chấp nhận, giao dịch
được coi là đã được phép”. Với quy định này, “giao dịch của người đại diện được coi là
như đã ràng buộc người được đại diện và người thứ ba ngay từ đầu”. Tương tự như vậy
trong Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 2.2.9). Ở Anh, “đại diện là quan hệ phát sinh khi một
7 Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 48-51, tr. 355.
8 Khoản 3 Điều 142 BLDS 2015.

10


bên, người được đại diện, cho phép người khác, người đại diện, hành động trên danh
nghĩa của họ và người đại diện chấp nhận làm việc được cho phép”. Trong thực tế, “các
nguyên tắc của đại diện mở rộng cho những trường hợp khác” và một trong những trường
hợp này là “ủy quyền đại diện có thể được đưa ra sau khi người đại diện đã hành động
trên danh nghĩa người được đại diện; hành động của người đại diện được coi là ‘chấp
thuận’”.

Ở Pháp, án lệ không cho phép người thứ ba phủ nhận giao dịch khi người được địa
diện chấp nhận giao dịch. Ở đây, pháp luật Pháp theo hướng các quy định về không có
quyền đại diện hay vượt quá phạm vi địa diện được thiết lập để bảo vệ người được đại
diện nên chỉ được người địai diện được viện dẫn án lệ để áp dụng, còn người thứ ba
không được viện dẫn án kệ để vô hiệu hóa hợp đồng khi người được đại diện chấp nhận
và muốn duy trì hợp đồng, với lý do “vô hiệu hợp đồng do không có quyền đại diện của
người đại diện là vô hiệu tương đối và chỉ người được đại diện mới được yêu cầu tuyên
bố hợp đồng vô hiệu”.

11


PHẦN 2
Mục 1: HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sỡ hữu tài
sản.
Trả lời:
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sỡ hữu tài sản:
1. Từ 6 hình thức sỡ hữu tài sản (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở

2.
-

-

-

-

hữu chung, sở hữu của các tổ chức chính trị xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã

hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp), BLDS 2015 rút lại
còn 3 hình thức sở hữu tài sản (sở hữu toàn dân, sở hữu riêng, sở hữu chung).
Viêc rút gọn này thực chất là gộp 4 loại sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở
hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và sở hữu của cá tổ chức chính trị xã hội lại thành một.
Điều này giúp giản lược bộ luật và tránh sự trùng lặp một phần ý của ba loại sở hữu
này.
Sở hữu toàn dân
Điểm mới đầu tiên của BLDS 2015 về sở hữu toàn dân là tên tiểu mục này. Từ “sở
hữu nhà nước” (BLDS 2005) đổi thành “sở hữu toàn dân” (BLDS 2015). Điều này
phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013 là tôn trọng người dân của đất nước (ví
dụ: tất cả chữ “Nhân dân” đều được viết hoa chữ “N”).
Sở hữu toàn dân: Điều 197 của BLDS 2015 thay đổi định nghĩa về tài sản thuộc sở
hữu toàn dân so với Điều 200 BLDS 2005 theo Hiến pháp 2013: “Đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên
thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”9.
Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp:
Điều 200 BLDS 2015 bỏ đi giới hạn quyền sở hữu của Nhà nước là chỉ trong
“doanh nghiệp nhà nước” của Điều 203 BLDS 2015 thành “doanh nghiệp”:
“Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước
thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Quyền của cá nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc sở hữu
toàn dân: Điều 203 BLDS 2015 bỏ đi điều kiện “trong trường hợp pháp luật có
quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” của Điều 206 BLDS
2005. Đồng thời, cũng không quy định thêm điều kiện nào trong việc sử dụng,
khai thác này: “Cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất, khai thác nguồn lợi thủy

9 Điều 53 Hiến pháp 2013.


12


3.
-

4.
-

-

-

sản, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân đúng mục
đích, có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của
pháp luật”.
Sỡ hữu riêng
Điểm mới đầu tiên của BLDS 2015 về sở hữu riêng là tên tiểu mục này. Từ “sở
hữu tư nhân” (BLDS 2005) đổi thành “sở hữu riêng” (BLDS 2015).
Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng: được gộp Điều 211 về sở hữu tư nhân
và Điều 212 về tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân của BLDS 2005 thành Điều
205 của BLDS 2015.
Sở hữu chung
Là sở hữu được gộp 4 loại sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở hữu của tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
và sở hữu của cá tổ chức chính trị xã hội lại thành một.
Sở hữu chung của cộng đồng: xác định rõ tài sản chung của công đồng là tài sản
chung hợp nhất không phân chia (Điều 211 BLDS 2015)
Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình: được BLDS 2015 thêm như một

điều luật mới (Điều 212 BLDS 2015) so với BLDS 2005.
Sở hữu chung của vợ chồng: Tại Điều 213 BLDS 2015 được thêm một khoản mới
so với BLDS 2005 như sau: “Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo
thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung
của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.
Định đoạt tài sản chung: Điều 218 BLDS 2015 có một số thay đổi so với Điều 223
BLDS 2005 như sau:
o Bỏ “theo quy định của pháp luật” đối với quyền định đoạt của mỗi chủ sở hữu:
“Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của
mình” (khoản 1 Điều 218 BLDS 2015).
o Ở khoản 3 điều này, thêm ý: “Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản
và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán
cho người không phải là chủ sở hữu chung”.
o Thêm hai trường hợp từ bỏ quyền sở hữu thành hai khoản mới:
“5. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần
quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì
phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
6. Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài
sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định tại Điều
228 của Bộ luật này”.

-

Chia tài sản thuộc sở hữu chung: Khoản 1 Điều 219 BLDS 2015 thêm ý “trừ
trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác” so với Điều 224 BLDS
2005: “Trường hợp sỡ hữu chung…bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường
hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác”.
13



Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với các chủ thể.
Câu 2: Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là
Quyết định 377) cho câu trả lời?
Trả lời:
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân
với bà Thẩm.
Phần Xét thấy của Quyết định 377 nói rõ: “Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông
Lưu và bà Thẩm là quan hệ hôn nhân hợp pháp và vẫn đang tồn tại theo quy định của
pháp luật, còn quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê là vi phạm pháp luật. Căn nhà số
150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu
tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm”10.
Câu 3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sỡ hữu chung của vợ chông bà hay sở
hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
Trả lời:
Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà, không phải sở
hữu riêng của ông Lưu.
Trích từ phần Nhận thấy của bản án: “Còn bà Thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A
Lý Thường Kiệt trên diện tích 101 m2 đất là tài sản chung vợ chồng bà nên không nhất trí
theo yêu cầu của bà Xê. Bà đề nghị Tòa giải quyết theo pháp luật để bà được hưởng thừa
kế tài sản của ông Lưu cùng với chị Hương”.
Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết
định 377 cho câu trả lời?
Trả lời:
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên không thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm mà chỉ thuộc sở hữu riêng của ông Lưu.
Theo như Tòa: “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà
Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác và căn nhà được

tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông; bà Thẩm không có đóng góp về kinh tế cũng như
công sức để cùng ông Lưu tạo lập ra căn nhà này nên ông Lưu có quyền định đoạt đối với
căn nhà nêu trên.”
Câu 5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao?
Trả lời:
Theo em, giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là chưa hợp lý.
10 Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

14


Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về tài sản chung
của vợ chồng:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có
được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”11.
Ở đây, Tòa không công nhận căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản chung
do căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông Lưu khi ông vào miền Nam đi
công tác và bà Thẩm không góp công sức, kinh tế cùng với ông Lưu. Tuy nhiên, thứ nhất,
ông Lưu và bà Thẩm là vợ chồng hợp pháp(Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết
hôn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tịa Ủy ban nhân dân xa
Kinh Kệ, huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú thọ 12). Thứ hai, theo như điều luật đã nêu trên, tài
sản chung của vợ chồng có bao gồm thu nhập hợp pháp. Do đó, mặc dù thu nhập đó là do
ông Lưu làm ra nhưng vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng ông Lưu bà Thẩm về mặt

pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là phần tiền dùng để tạo lập căn nhà số 150/6A Lý
Thường Kiệt cũng là tài sản chung của vợ chồng ông Lưu, bà Thẩm. Vì vậy, cũng theo
điều luật trích dẫn phía trên, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng, căn nhà là của
chung vợ chồng ông Lưu, bà Thẩm.
Ngoài ra, trong Luật Hôn nhân và gia đình cũng có nói: “vợ, chồng bình đẳng với
nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”. Nghĩa là, mặc dù
tiền do ông Lưu làm ra nhưng vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng ông Lưu bà Thẩm,
không cần biết bà Thẩm có hay không làm ra tiền và góp vốn xây dựng nhà.
Như vậy, căn nhà trên không phải là tài sản riêng của ông Lưu và việc Tòa xác
định căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản riêng của ông Lưu là không có căn cứ
hợp lý, không đúng theo quy định của pháp luật.
Câu 6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể
di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
11 Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình.
12 Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

15


Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không thể di
chúc định đoạt toàn bộ căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt.
Theo luật, vợ chồng có quyền định đoạt ngang nhau đối với tài sản chung của vợ
chồng . Căn cứ theo khoản 2 Điều 213 BLDS 2015 về sở hữu chung của vợ chồng: “Vợ
chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”. Do đó trong trường hợp này, ông Lưu chỉ
có quyền di chúc định đoạt ½ căn nhà trên thôi, ½ còn lại của căn nhà là thuộc về bà

Thẩm.
13

13 Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình: Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.

16


Mục 2: DIỆN THỪA KẾ
Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
hay không? Vì sao?
Trả lời:
Chỉ có bà Thẩm và chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu, còn bà
Xê thì không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.
Theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Đối với người vợ, để được hưởng thừa kế của nhau, thì quan hệ hôn nhân giữa vợ
và chồng ở đây phải là quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc hôn nhân đấy phải được pháp
luật công nhận là hôn nhân thực tế. Do bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu (Ông Võ
Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có đăng
ký kết hôn tịa Ủy ban nhân dân xa Kinh Kệ, huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú thọ 14), nên bà
thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Còn đối với bà Xê, mặc dù ông Lưu và bà Xê có làm thủ tục
đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang tuy
nhiên vì ông Lưu chưa ly hôn với bà Thẩm nên việc ông kết hôn với bà Xê là bất hợp
pháp15. Do đó, để biết bà có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu hay không, ta xét
coi quan hệ giữa bà Xê và ông Lưu có phải hay không phải hôn nhân thực tế.
Do ông Lưu thuộc trường hợp người có nhiều chồng hoặc vợ, ta căn cứ vào điểm a
khoảng 4 Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có quy định: “Trong
trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn

nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố
danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam
và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc
kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ
đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người
thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”16.
Ở đây, ông Lưu và bà Xê làm thủ tục đăng ký kết hôn và chung sống với bà Xê từ
năm 1996 và đến năm 2003 thì ông Lưu chết. Như vậy, thời điểm mà hai ông bà chung
sống với nhau là sau ngày 25-3-1997, là ngày cuối cùng công nhận hôn nhân thực tế ở
miền Nam. Do đó, quan hệ giữa hai người không phải là hôn nhân thực tế, và bà Xê
14 Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

15 Điều 5: “2. Cấm các hành vi sau đây:
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.
16 Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990.

17


đương nhiên cũng không nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu theo trích dẫn từ
Nghị quyết số 02 đã nêu trên.
Về phần chị Hương, chị là con đẻ của ông Lưu (Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn
Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban
nhân dân xa Kinh Kệ, huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú thọ và có một con chung là chị Võ Thị
Thu Hương17) nên đương nhiên thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản 1 Điều
651 BLDS 2015 đã nêu trên.
Câu 2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi
trên có khác không? Vì sao?
Trả lời:

Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976, thì hôn nhân của hai người
vẫn không được công nhận là hôn nhân hợp pháp, vì ở thời kỳ đó, Luật Hôn nhân và Gia
đình 1959 đã có quy định “Cấm lấy vợ lẽ”18. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai người được
công nhận là hôn nhân thực tế. Cũng vì thế, bà Xê nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của
ông Lưu.
Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có quy định: “Trong trường
hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn
bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán
bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau
không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người
thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng
thứ nhất của tất cả các người vợ”19.
Do ông Lưu và bà Xê kết hôn và chung sống với nhau ở miền Nam (Tiền Giang)
vào cuối 1976, trước thời hạn cuối cùng công nhận hôn nhận thực tế ở miền Nam (ngày
25-3-1977). Theo đó, bà Xê là vợ thực tế của ông Lưu, nằm trong hàng thừa kế thứ nhất
của ông Lưu theo Nghị quyết 02 đã nêu trên.
Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì
sao?
Trả lời:
Trong vụ việc trên, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu.
Vì ông Lưu đã viết di chúc để lại toàn bộ tài sản cho bà Xê. Do đó, theo di chúc,
chị Hương không được hưởng phần nào từ di sản của ông Lưu. Tuy nhiên, ta xét thêm chị
Hương có hay không thuộc trường hợp được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc.
17 Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
18 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình.
19 Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990.

18



Theo luật, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.20
Ở đây, chị Hương là người đã thành niên (chị sinh năm 1965, nghĩa là đến ngày
ông Lưu chết (năm 2003), chị đã là người thành niên), chị cũng không bị mất khả năng
lao động. Như vậy, chị Hương không thuộc trường hợp nào trong hai trường hợp đã nêu
phía trên, và theo đó chị không là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
của ông Lưu.
Như vậy, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu trong vụ việc trên.
Câu 4: Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu
đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Theo pháp luật hiện hành, thời điểm người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản
là di sản do người quá cố để lại là thời điểm người thừa kế nhận di sản đó.
Tuy nhiên, trong BLDS 2015 thì không có điều luật nào nói cụ thể thời điểm
người thừa kế có quyền sở hữu đối tài sản, chỉ xác định rằng tại thời điểm mở thừa kế,
người thừa kế có các quyền tài sản do người chết để lại, quy định trong Điều 614 BLDS
201521.
Bàn về vấn đề này, PGS. TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang có nhận định:
“Nếu cho rằng người thừa kế đương nhiên là chủ sở hữu đối với di sản thừa kế tại thời
điểm mở thừa kế thì về logic, họ sẽ không có quyền từ chối nhận di sản. Di sản đã thuộc
sở hữu của họ nên việc từ chối đó trở thành việc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản, và
như vậy sẽ phát sinh một hậu quả pháp lý hoàn toàn khác. Bởi theo quy định tại khoản 1
Điều 228 BLDS 2015 thì tài sản đã bị chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu sẽ trở thành tài sản
vô chủ, nếu tài sản đó là động sản thì sẽ thuộc sở hữu của người phát hiện được; nếu tài

sản đó là bất động sản thì thuộc sở hữu của Nhà nước.
Tóm lại, chúng tôi cho rằng, thời điểm mở thừa kế chỉ là thời điểm làm phát sinh
quyền của người thừa kế mà chưa xác lập quyền sở hữu đối với di sản, quyền sở hữu đối
với di sản thừa kế chỉ xác lập ở người thừa kế kể từ thời điểm họ nhận di sản đó bởi nếu

20 Điều 644 BLDS 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

21 Điều 614. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

19


người thừa kế không nhận di sản thì đương nhiên sẽ không phát sinh quyền sở hữu của họ
đối với di sản thừa kế”22.
Trong trường hợp người thừa kế di sản được định đoạt bằng di chúc, thì di chúc
này là ý chí của riêng người lập di chúc, là hành vi pháp lý đơn phương từ người lập di
chúc. Và việc có hay không đồng ý với việc định đoạt này là quyền của người thừa kế
theo di chúc. Nếu người thừa kế không đồng ý nhận di sản thì sẽ không xảy ra vấn đề
quyền sở hữu ở người thừa kế này. Cũng tương tự đối với trường hợp thừa kế theo pháp
luật hay không phụ thuộc vào nội dung di chúc, người thừa kế cũng hoàn toàn có quyền
từ chối tiếp nhận di sản theo Điều 620 BLDS 2015. Và như vậy, người thừa kế đó sẽ
không có quyền sở hữu đối với di sản đó.
Như vậy, thời điểm một người thừa kế có quyền sở hữu đối với di sản do người
chết để lại là khi người đó nhận di sản đó. Trong thực tế, người thừa kế được coi là đã
nhận di sản đó từ thời điểm hoàn tất thủ tục khai nhận di sản tại cơ quan công chứng
(trong trường hợp không có tranh chấp) hoặc bản án có hiệu lực của Tòa án (trong trường
hợp có tranh chấp về thừa kế).
Câu 5: Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?

Trả lời:
Trích bản án:
“Ông Hà chết ngày 12/5/2008 thì bà Lý Thị Ơn là vợ và các con ông Hà được thừa
kế và nhà đất này đã chuyển dịch quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở sang cho bà
Lý Thị Ơn; ngày 04/3/2011 bà Ơn đã đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất”.
Theo đó, ta thấy được, thời điểm mà người thừa kế của ông Hà (là bà Ơn) có
quyền sở hữu nhà ở và đất tranh chấp là sau khi ông Hà chết vào ngày 12/5/2008.
Việc Tòa xác định như vậy là hợp lý, bởi theo luật, kể từ thời điểm mở thừa kế,
những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại23.

22 Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang, Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp, 2017, tr.
98-99.
23 Điều 614 BLDS 2015

20


Mục 3: THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn
bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
Trả lời:
Phần Xét thấy của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
cho thấy việc ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê
như sau: “Việc ông Lưu lập văn bản đề là “Di chúc” ngày 27-7-2002 là thể hiện ý chí của
ông Lưu để lại tài sản của ông cho bà Xê là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp
luật”.
Câu 2: Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
Trả lời:

Trong trường hợp này, chỉ có bà Thẩm là người thuộc diện được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu, còn bà Xê và chị
Hương thì không thuộc vào diện này.
Theo luật, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.24
Ở đây, bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, nên việc bà là người thừa kế không
phụ thuộc nội dung di chúc là hoàn toàn tất nhiên.
Về phía chị Hương không phải là con chưa thành niên(chị sinh năm 1965, nghĩa là
đến ngày ông Lưu chết (năm 2003), chị đã là người thành niên), cũng không phải là
người thành niên mà không có khả năng lao động, nên chị không phải là người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Về phía bà Xê, thứ nhất, bà không phải là vợ hợp pháp, cũng không phải vợ thực
tế của ông Lưu. Theo nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có quy định:
“Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công
bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền
Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà
việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người

24 Điều 644 BLDS 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

21


vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là
người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”25.

Như vậy, trong ba người là bà Xê, bà Thẩm và chị Hương thì chỉ có bà Thẩm là
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu.
Câu 3: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:
Trích từ phần Xét thấy của Quyết định:
“Tuy nhiên, do bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của ông Lưu đã già yếu, không còn
khả năng lao động, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự thì bà Thẩm được thừa kế
tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu.
Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm là
người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành,khi giải
quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị
khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu
cầu)”.
Như vậy, theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu là vì thứ nhất, bà là vợ
hợp pháp của ông, nay đã già yếu và không còn khả năng lao động; thứ hai, bà có công
chăm sóc nuôi con chung từu nhỏ đến khi trưởng thành của bà và ông Lưu khi ông vào
miền Nam công tác.
Câu 4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?
Trả lời:
Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì bà vẫn được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu.
Theo luật, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.26
Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, nên theo điểm a điều luật nêu trên, bà hoàn
toàn có quyền được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, còn điều kiện
25 Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990.
26 Điều 644 BLDS 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

22


có khả năng lao động hay không không ảnh hưởng đến việc bà có quyền được hưởng
thừa kế từ di sản của ông Lưu.
Câu 5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là 200 triệu đồng.
Do bà Thẩm là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Điều
644 BLDS 2015 nên bà Thẩm được hưởng 2/3 suất thừa kế của ông Lưu.
Người thừa kế của ông Lưu gồm bà Thẩm và bà Xê, do đó, một suất thừa kế sẽ là:
600 triệu : 2 = 300 triệu
Như vậy, 2/3 suất thừa kế sẽ là: 300 x 2/3 = 200 triệu.
Vậy bà Thẩm được hưởng khản tiền là 200 triệu đồng từ di sản sản của ông Lưu
có giá tị 600 triệu đồng.
Câu 6: Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà
Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?
Trả lời:
Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có
thể được chấp nhận, cũng có thể không.
Vì theo khoản 2 Điều 660 BLDS 2015, những người thừa kế có quyền yêu cầu
phân chia di sản bằng hiện vật. Theo đó, yêu cầu chia di sản bằng hiện vật của bà Thẩm

là có căn cứ hợp lý. Về vấn đề này, PGS. TS. Đỗ Văn Đại có nhận định: “Nếu cho nhận
bằng hiện vật thì sẽ tạo điều kiện để tài sản được giữ lại trong gia đình. Bởi lẽ, nếu không
cho hưởng bằng hiện vật (tức hưởng bằng giá trị), tài sản sẽ thuộc về người được hưởng
thừa kế theo di chúc mà người này có thể không phải là người thân thuộc trong gia đình,
trong khi đó người được hưởng thừa kế phụ tuộc vào nội dung di chúc là cha, mẹ, vợ,
chồng hay con của người lập di chúc” 27. Bà Xê ở đây chỉ là vợ hai của ông Lưu, sống ở
miền Nam không liên hệ đến bà Thẩm (vợ hợp pháp của ông Xê, sống ở miền Bắc) và
người thân của 2 ông bà, nên không thể coi là người thân trong gia đình. Vì vậy, yêu cầu
của bà Thẩm là hợp tình, vì theo trích dẫn nêu trên, bà Thẩm muốn một phần tài sản của
ông Lưu được giữ lại trong gia đính.
Trong thực tế khi có một người thừa kế yêu cầu và khi tài sản có thể phân chia
được thì Tòa án phải chia di sản bằng hiện vật. Đó là thông điệp trong vụ việc của Quyết
định số 353/2011/DS-GĐT ngày 18-5-2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao. Cụ
thể, theo Tòa dân sự: “Chị Minh (là con của ông Hùng là một trong các thừa kế thế vị di
sản của vợ chồng cụ Được, cụ Để) được các thừa kế nhường cho hưởng thừa kế 4/6 giá
27 Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2019,
Bản án số 48-51, tr. 430.

23


trị di sản thừa kế, trong khi đó di sản thừa kế cụ Được, cụ Để để lại 4.966m 2 đất vườn, là
có thể chia được, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không chia cho chị
Minh được hưởng bằng hiện vật là không đúng, không đảm bảo quyền lợi chính đáng của
chị Minh”28.
Tuy nhiên, khi việc phân chia thành nhiều phần không làm ảnh hưởng tới giá trị tài
sản thì sẽ chia di sản bằng hiện vật theo nguyên tắc đã nêu trên. Đây là thông điệp của
Tòa án nhân dân tối cao trong một vụ việc, theo đó: “nhà đất có diện tích lớn có thể chia
bằng hiện vật cho các đương sự mà vẫn đảm bảo giá trị tài sản. Nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm giao toàn bộ nhà đất cho bà Cam và chỉ chia cho những

người thừa kế khác bằng giá trị là không đảm bảo quyền lợi của các thừa kế” 29. Như vậy,
chừng nào chia di sản được bằng hiện vật thì chúng ta phải ưu tiên chia di sản bằng hiện
vật. Thực tế, chia di sản bằng hiện vật là chia di sản thành nhiều phần và việc phân chia
thành nhiều phần này có thể ảnh hưởng tới giá trị của tài sản. Do đó, nếu việc phân chia
thành nhiều phần làm cho tài sản mất đi giá trị thì không nên chia bằng hiện vật. Đối với
di sản là nhà, đất thì khi chia di sản, chúng ta có hệ quả là tài sản chung của những người
thừa kế chấm dứt và khối tài sản chung này được chia thành các phần để trở thành sở hữu
riêng lẽ của từng người thừa kế.
Do di sản tranh chấp ở đây là căn nhà có diện tích 116,64m2, nên việc chia căn nhà
ra là hết sức khó khăn. Bên cạnh đó, trong di chúc ông Lưu đã định đoạt căn nhà cho bà
Xê. Việc chia di sản bằng hiện vật cho bà Thẩm nữa là trái với ý chí của ông Lưu khi lập
di chúc. Ngoài ra, bà Thẩm hiện đang ở miền Bắc, bà đã già yếu không còn khả năng lao
động, còn căn nhà là ở miền Nam, nơi ông Lưu và bà Xê sống cùng với nhau, nên việc
chia căn nhà là chưa hợp lý vì bà Thẩm muốn di chuyển đến căn nhà Lý Thường Kiệt đó
là khó khăn cho bà nên không có ý nghĩa thực tiễn. Mặt khác, việc chia căn nhà ra làm
giảm đi giá trị của căn nhà.
Tuy nhiên, khi việc phân chia thành nhiều phần không làm ảnh hưởng tới giá trị tài sản
thì sẽ chia di sản bằng hiện vật theo nguyên tắc đã nêu trên. Đây là thông điệp của Tòa án
nhân dân tối cao trong một vụ việc, theo đó: “nhà đất có diện tích lớn có thể chia bằng
hiện vật cho các đương sự mà vẫn đảm bảo giá trị tài sản. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm giao toàn bộ nhà đất cho bà Cam và chỉ chia cho những người thừa
kế khác bằng giá trị là không đảm bảo quyền lợi của các thừa kế”30.
Do đó, yêu cầu chia di sản bằng hiện vật của bà Thẩm có thể sẽ không được chấp
nhận.
Câu 7: Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho
thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
Trả lời:
28 Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản rán và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, Bản án
số 157-160, tr. 582.
29 Quyết định số 23/2009/DS-GĐT ngày 15-1-2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

30 Quyết định số 23/2009/DS-GĐT ngày 15-1-2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

24


Trong phần Xét thấy của Bản án nêu rõ:
“Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ Anh Văn Lầm (chết năm 1938) có 2 con là bà
Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1932. Cụ Khánh và cụ
Nguyễn Tài Ngọt (chết năm 1973) có 01 con là ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930.
Năm 2002 cụ Khánh chết. Mặc dù các đương sự không xuất trình được giấy khai sinh
một cách đầy đủ nhưng đều thống nhất xác nhận các con của cụ Khánh là bà Khót, ông
Tâm, ông Nhật”.
Câu 8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
Trả lời:
Ông Nguyễn Tài Nhật là người được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản
có tranh chấp.
Trích từ phần Xét thấy của Bản án: “Ngày 30/5/1992 tại Phòng công chứng nhà
nước số 2, Thành phố Hồ Chí Minh cụ Khánh lập di chúc cho ông Nhật là người duy nhất
được quyền thừa kế căn nhà 83 Lương Định Của, phường An Khánh, quận 2” 31.
Câu 9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên
của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:
Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm đã là con đã thành niên của cụ
Khánh.
Trích từ phần Xét thấy của bản án: “Tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi,
ông Tâm 68 tuổi lại là thương binh 2/4, thấy tại Điều 140, 145 của Bộ luật lao động năm
1994 quy định độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam
và từ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ”.
Câu 10: Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

Trả lời:
Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc.
Trích từ bản án: “Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu
của bà Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc, cụ thể mỗi người được hưởng là 400.000.000 đồng”.
Tòa cũng giải thích rằng: “Bộ luật lao động còn có các quy định về chế độ đối với
người lao động từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và từ 61 tuổi trở lên đối với nam. Như vậy,
pháp luật không đặt ra giới hạn tuổi tối đa được tham gia các quan hệ lao động mà việc
tham gia quan hệ lao động để được hưởng các chế dộ đãi ngộ chứ không phỉa là căn cứ
xác định một người không còn khả năng lao động. Các nguyên đơn cũng không xuất trình
được chứng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là những người không có khả năng lao
31 Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh.

25


×