Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý GIÁO dục kỹ NĂNG SỐNG CHO học SINH TRUNG học cơ sở THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM đáp ỨNG NHU cầu xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.78 KB, 52 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ
SỞ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
- Nghiên cứu trên thế giới
Tầm quan trọng của các hoạt động giáo dục kỹ năng
sống (GDKNS) được nhiều nhà giáo dục trên thế giới quan
tâm, coi các hoạt động GDKNS giúp học sinh gắn kiến thức
với cuộc sống, HĐ này có ý nghĩa quan trọng trong công tác
giáo dục thế hệ trẻ. Quản lý các hoạt động này được xem có ý
nghĩa thiết thực trong trường phổ thông thể hiện qua các quan
điểm từ trước đến nay như sau:
Thế kỷ XIX, C.Mác (1818-1883) và F.Anghen (18201895)[3] đã xây dựng học thuyết mới trong lịch sử phát triển
lồi người. Các ơng khơng chỉ tổng kết, tìm ra quy luật của
tiến trình phát triển trong triết học, kinh tế và xã hội; hình
thành chủ nghĩa Mác Lênin có sức sống mãnh liệt qua khơng
gian, thời gian mà các ơng cịn được coi là ơng tổ của nền
giáo dục hiện đại. C.Mác và F.Anghen đã xác định mục đích
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là tạo ra "con người phát triển
toàn diện". Quan điểm giáo dục của hai ông là phát triển nhân
cách con người về mọi mặt theo "phương thức giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất". Chính quan điểm này đã được


Lênin kế thừa và phát triển thành hiện thực nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của C.Mác và F.Anghen, kết
quả của giáo dục là con người có sức khoẻ, biết làm và có khả
năng thích ứng với sự biến đổi của nghề nghiệp. Trong những


nghiên cứu về giáo dục, Lênin đã đánh giá rất cao vai trò của
ngơn ngữ trong q trình hình thành và phát triển nhân cách
con người mà trong đó kỹ năng giao tiếp chính là phương tiện
dẫn đến việc hình thành, phát triển nhân cách con người trong
xã hội. Từ những năm đầu của thế kỷ 20, có nhiều nhà triết
học, tâm lý học, xã hội học đã tiếp tục quan tâm đến lĩnh vực
giao tiếp. Nhà triết học và tâm lý học người Mỹ G.Mit, nhà
bác học người Đức C.Giaspe, nhà triết học hiện sinh Nhật
Bản Mactin Babơ, nhà triết học người Pháp Gien Marơsen,
nhà triết học người Nga B.M. Beccheriev... đã có những
nghiên cứu trong lĩnh vực này. Trong đó các nhà nghiên cứu
khoa học đã chú ý đến nghiên cứu hiện tượng tiếp xúc giữa
con người với con người. Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ
trước, hàng loạt các nhà tâm lý học hiện đại, với nhiều cơng
trình nghiên cứu, họ đã đưa ra được phạm trù giao tiếp như là
một phạm trù cơ bản.


Cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, trước bối cảnh tồn
cầu hóa, quốc tế hóa, các nước đều rất quan tâm đến vấn đề
giáo dục con người trong xã hội mới. Một trong bốn trụ cột
của nền giáo dục toàn cầu trong thế kỷ XXI đã được
UNESCO đề xuất là “học để cùng chung sống” và được coi là
một trong những trụ cột quan trọng, then chốt của giáo dục
hiện đại. Câu hỏi đặt ra là “Kỹ năng nào là cần thiết cho mỗi
con người để thành công trong công việc và cuộc sống?”, một
trong những kỹ năng toàn cầu đỏi hỏi ở mỗi con người hoàn
thiện là phải có “kỹ năng giao tiếp”. Chương trình giáo dục
các giá trị sống của UNESCO [4] được coi là đối tác của các
nhà giáo dục trên tồn cầu. Đó là chương trình ứng dụng

những kỹ thuật, kỹ năng đơn giản nhưng mang tính chun
mơn cao bao gồm kỹ năng lắng nghe tích cực, những câu hỏi
theo dạng mở - đóng và cách thảo luận tìm ra hướng giải
quyết. Chương trình này đã làm phong phú thêm vốn sống
cho các bạn trẻ, trang bị những giá trị tích cực, các kỹ năng
sống thiết thực, hữu ích trong hành trang bước vào đời.
Như vậy, với quan niệm và cách phân loại có những nét
khác nhau. Nhưng tựu chung lại hầu hết các nước đều nhận


thấy vai trị quan trọng của việc hình thành kỹ năng sống cho
người học.
- Nghiên cứu trong nước
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến bắt đầu
từ chương trình của UNICEF (1996) “Giáo dục KNS để bảo
vệ sức khỏe và phịng chơng HIV/AIDS cho thanh thiếu niên
trong và ngồi nhà trường”. Theo đó, KNS bao gồm những kỹ
năng cốt lõi như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng xác định giá trị, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng kiên định,
kĩ năng đạt mục tiêu v.v..
Trong giai đoạn hiện nay, đã có một số cơng trình nghiên
cứu trong nước đề cập đến vấn đề KNS nói chung và KNS
trong nhà trường nói riêng như:
Ngành giáo dục đã triển khai chương trình giáo dục
KNS vào hệ thống GD chính quy và khơng chính quy. Nội
dung GD của nhà trường phổ thông được định hướng bởi
nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu GD KNS. Bộ GD&ĐT
cũng tăng cường công tác chỉ đạo biên soạn sách, tài liệu GD
KNS, công tác bồi dưỡng cán bộ, GV trang bị kiến thức GD
KNS cho HS.



Ngày 31 tháng 5 năm 2012, Bộ trưởng bộ GD&ĐT đã
ban hành Kế hoạch số 444/KH-BGDĐT [5] về việc tổ chức
chương trình tập huấn cán bộ cốt cán trường trung học phổ
thông về việc GD&ĐT, giá trị sống và giao tiếp ứng xử trong
QLGD.
Trong cuốn “Giáo trình Giáo dục kĩ năng sống” Nguyễn
Thanh Bình khẳng định những yêu cầu cụ thể đối với việc đổi
mới nội dung chương trình và PP dạy học. Tác giả cho rằng:
“Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học là hướng vào
học tập chủ động, chống thói quen thụ động, đồng thời coi
dạy học thông qua tổ chức hoạt động của học sinh là đặc
trưng thứ nhất của phương pháp dạy học tích cực” [8].
Tác giả Nguyễn Dục Quang cho rằng: “Cách thức giáo
dục kĩ năng sống được hiểu bao gồm những phương pháp tiếp
cận, các phương pháp dạy học tích cực và các hình thức tổ
chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống cần quan tâm đến vai
trò của người học” [32].
Trong nghiên cứu của Ngô Thị Tuyên trong cuốn “Cẩm
nang giáo dục cho học sinh tiểu học” đã chỉ ra rằng KNS là
sản phẩm bắt buộc phải có của GD nhà trường. Tác giả đưa ra


khái niệm về KNS, các loại KNS, vị trí vai trò của KNS trong
GD nhà trường, PP GD KNS và trình bày PP xây dựng một
chương trình học tập, nguyên tắc chọn nội dung và hướng dẫn
GV PP GD cho HS bằng việc làm để có được sản phẩm là
KNS [37].
Tác giả Lục Thị Nga đánh giá mức độ cần thiết của

GDKNS cho HS, tác giả và cho rằng: Nhân cách được hình
thành qua hai con đường cơ bản trong nhà trường: con đường
dạy học và con đường GD NGLL. Bên cạnh việc làm rõ
những vấn đề cơ bản về GD KNS cho HS TH, PP dạy học tích
hợp KNS vào môn Khoa học tác giả đưa ra PP dạy học tích
hợp KNS vào HĐ NGLL và phân tích ý nghĩa thực tiễn của
HĐ GD NGLL trong việc rèn luyện KNS cho HS TH và chỉ
ra những yếu tố cần thiết, hiệu quả của HĐ NGLL trong việc
nâng cao chất lượng GD KNS cho HS TH [28].
- Nghiên cứu về “thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trung học cơ sở” (2010) của tác giả Mai Thị Kim
Oanh, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam; đề tài này chuyên
sâu tìm hiểu thực trạng KNS của học sinh THCS và tổ chức
GDKNS cho học sinh trường THCS. Nghiên cứu về “Kỹ
năng sống của sinh viên tại trường Cao đẳng Sư phạm Nha


Trang - Khánh Hòa” (2013), tác giả đã nghiên cứu và đề xuất
các biện pháp giáo dục KNS cho người học thông qua công
tác giáo viên chủ nhiệm.
- Đề tài: “Xây dụng hệ thống bài tập thực hành để luyện
tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh viên Sư
phạm Kỹ thuật Công nghiệp, Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng
Yên”. Ở đề tài này mục tiêu là nhằm rèn luyện kỹ năng giải
quyết vấn đề, nâng cao khả năng giao tiếp cho sinh viên trong
trường.
- Đề tài thạc sĩ của Huỳnh Phú Thịnh trường Đại học An
Giang (2013) “Rèn luyện KNS cho sinh viên thiệt thòi
Trường Đại học An Giang. Bài viết của Nguyễn Thị Tuấn
Anh, trường Đại học Thủ Dầu Một “Các bước chuẩn bị một

bài thuyết trình hiệu quả”. Đề tài thạc sĩ của giáo viên tâm lý
học Nguyễn Hữu Long “Kỹ năng sống cho lứa tuổi học trò”
nghiên cứu nhận thức kỹ năng sống để tiến đến việc hình thành
kỹ năng hành vi cho học sinh. Đề tài “Xây dựng hệ thống bài
tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao
tiếp cho sinh viên Sư phạm kỹ thuật công nghiệp trường Đại
học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên”; do nhóm giáo viên thực hiện


nhằm rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, nâng cao khả năng
giao tiếp cho các sinh viên trong khoa.
Như vậy, HĐ GD KNS đã được nhiều nhà khoa học,
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh khác
nhau. Trong các cơng trình nghiên cứu, các tác giả đã chỉ rõ
vai trò, tầm quan trọng của HĐ GD KNS, cách thức tổ chức
HĐ GD KNS cho HS, đồng thời cũng đề ra một số biện pháp
tổ chức, QL HĐ GD KNS.
Tuy nhiên các nghiên cứu về quản lý GD KNS thông
qua hoạt động trải nghiệm (HĐTN) ở các trường THCS cịn
chưa được quan tâm nhiều. Vì vậy, việc thực hiện đề tài này
sẽ không trùng lắp, đảm bảo tính độc lập và có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn lớn đối với việc nâng cao hiệu quản lý giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động trải nghiệm ở
các trường THCS huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên nói riêng và
các trường THCS nói chung nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống trong
trường trung học cơ sở
- Khái niệm kĩ năng sống



Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ
các chức năng và tham gia vào cuộc sống hành ngày
(UNESCO). Tổ chức y tế thế giới (WTO) cho rằng, “Kỹ năng
sống là những kỹ năng thiết thực mà con người cần để có
cuộc sống an tồn khoẻ mạnh. Đó là những kỹ năng mang
tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng
trong những tình huống hàng ngày để tương tác một cách hiệu
quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề,
những tình huống trong cuộc sống hàng ngày” [17, tr.16].
Theo chương trình giáo dục kỹ năng sống của Quỹ nhi đồng
Liên hiệp quốc (UNICEF, 1996), “Kỹ năng sống bao gồm
những kỹ năng cốt lõi như: Kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ
năng kiên định và kỹ năng đạt mục tiêu” [19, tr. 29].
Các nhà giáo dục Thái Lan xem kỹ năng sống là thuộc
tính hay năng lực tâm lý xã hội giúp cá nhân đương đầu với
tất cả tình huống hàng ngày một cách có hiệu quả và có thể
đáp ứng với hồn cảnh tương lai để có thể sống hạnh phúc,
bao gồm:
1) Kỹ năng ra quyết định một cách đúng đắn


2) Kỹ năng sáng tạo
3) Kỹ năng giải quyết xung đột
4) Kỹ năng phân tích và đánh giá tình hình
5) Kỹ năng giao tiếp
6) Kỹ năng quan hệ liên nhân cách
7) Kỹ năng làm chủ cảm xúc
8) Kỹ năng làm chủ được cú sốc
9) Kỹ năng đồng cảm

10) Kỹ năng thực hành.
Thuật ngữ kỹ năng sống được người Việt Nam biết đến
nhiều từ chương trình của UNICEF (1996) “Giáo dục kỹ năng
sống để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho
thanh niên trong và ngoài nhà trường”. Khái niệm kỹ năng
sống được giới thiệu trong chương trình này bao gồm những
kỹ năng sống cốt lõi như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng
kiên định và kỹ năng đạt mục tiêu. Tham gia chương trình đầu
tiên này có ngành Giáo dục và Hội chữ thập đỏ. Sang giai


đoạn 2 chương trình này mang tên: “Giáo dục sống khoẻ
mạnh và kỹ năng sống”. Ngồi ngành giáo dục cịn có Trung
ương Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam. Hội liên hiệp phụ nữ đã định nghĩa như sau:
Kỹ năng sống là các kỹ năng thiết thực mà con người cần đến
để có cuộc sống an tồn, khoẻ mạnh và hiệu quả. Theo họ
những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng ra quyết định, kỹ năng từ
chối, kỹ năng thương thuyết, đàm phán, kỹ năng lắng nghe,
kỹ năng nhận biết…ở đây kỹ năng giao tiếp được phân nhỏ để
chị em phụ nữ dễ hiểu hơn. Khái niệm kỹ năng sống được
hiểu với nội hàm đầy đủ và đa dạng hơn sau hội thảo “Chất
lượng giáo dục và kỹ năng sống” được tổ chức từ ngày 23 đến
ngày 25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội.
Nghiên cứu các quan niệm trên, tác giả đã kết hợp ưu
điểm của các khái niệm và rút ra khái niệm về KNS cho luận
văn là: Kĩ năng sống là kĩ năng mà mỗi cá nhân hình thành
được thông qua những hoạt động và trải nghiệm của cá nhân
đó trong suốt q trình tồn tại và phát triển, giúp con người

giải quyết tình huống, ứng phó với thách thức, giao tiếp hiệu
quả trong cuộc sống hàng ngày.
- Giáo dục kỹ năng sống trong trường trung học cơ sở


- Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà
trường phổ thơng
Mục đích của HĐGD KNS giúp học sinh hình thành các
khả năng tâm lý xã hội, để học sinh biết tiếp thu những giá trị
tinh hoa văn hóa của nhân loại, củng cố mở rộng kiến thức đã
học với đời sống thực tiễn, củng cố các kỹ năng, hình thành và
phát triển các năng lực chủ yếu (năng lực tự hồn thiện, năng
lực thích ứng, năng lực giao tiếp ứng xử, năng lực tổ chức, quản
lý, hợp tác và cạnh tranh, năng lực hoạt động chính trị xã hội...)
giải quyết tốt các vấn đề của cuộc sống, và tự chủ, biết quyết
định các vấn đề về hành vi của bản thân.
Mục đích HĐGD KNS cho học sinh nhằm thay đổi đến
hành vi, đặc biệt giúp cho xây dựng cho HS những hành vi từ
tiêu cực, sang tích cực từ bị động sang chủ động trong tình
huống từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và chất
lượng cuộc sống.
- Nội dung giáo dục kỹ năng sống
Hiện nay nội dung GD KNS cho HS nói chung và HS
THCS nói riêng chưa có chương trình chuẩn, do vậy vậy xây
dựng nội dung GD KNS cho HS phụ thuộc vào trình độ đội


ngũ đến tài chính, cơ sở vật chất đến văn hoc, tập quán của
đọa phương phương. Mặc dù vậy, có thể khái quát giáo dục
KNS cho học sinh THCS bao gồm giáo dục các KNS cơ bản

sau, cần thiết sau:
Theo công văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28 tháng 1
năm 2015 về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ
năng sống tại các cơ sở GDMN, GDPT, GDTX thì nội dung
GDKNS là:
Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và
kĩ năng phù hợp. Hình thành cho HS những hành vi, thói quen
lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực
trong các mối quan hệ,các tình huống và hoạt động hàng ngày.
Như vậy có rất nhiều KNS mà con người cần phải học
trong suốt cả cuộc đời. Trên cơ sở thực trạng của GDKNS cho
học sinh trong nhà trường THCS trong những năm qua và
hướng dẫn GDKNS của bộ Giáo dục, có thể đề xuất những
nội dung GDKNS cho học sinh THCS bao gồm một số KNS
cơ bản sau: KN chủ bản thân của mỗi con người, khả năng
ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả
năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. ...


Như vậy, nội dung giáo dục KNS cho học sinh THCS
chủ yếu tập trung vào nhận thức, đến thái độ và vận dụng để
đưa ra hành vi phù hợp là những kỹ năng được vận dụng
trong những tình huống cụ thể nhằm trang bị cho các em kiến
thức, kỹ năng sống hịa nhập với gia đình, trong tập thể và
ngồi xã hội, giúp các em có bản lĩnh đối mặt, tháo gỡ những
khó khăn trong học tập, trong cuộc sống hàng ngày, biết quan
tâm, chia sẻ với mọi người xung quanh, biết điều chỉnh cảm
xúc cá nhân, phục vụ bản thân, quan tâm giúp đỡ người
khác ... Vì vậy giáo viên cần có những hiểu biết về tâm lứa
tuổi, đặc thù vùng miền để lựa chọn nội dung giáo dục KNS

cho các em hiệu quả nhất.
- Phương pháp, con đường giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh Trung học cơ sở
Phương pháp tổ chức các HĐGD trong trường THCS rất
đa dạng, có thể kết hợp GDKNS với HDDH trên lớp, và các
HĐTN, cùng với đó là tự giáo dục. Trong phạm vi cho phép
có thể đề cập đến một số phương pháp sau:


- Phương pháp tiếp cận cùng tham gia: Tạo sự tương tác
giữa GV với HS, HS và HS và tăng cường sự tham gia của
học sinh trong học tập, thực hành kĩ năng.
- Phương pháp tiếp cận hướng vào người học: Dựa
vào kinh nghiệm sống và đáp ứng nhu cầu của học sinh.
- Phương pháp tiếp cận hoạt động: Tạo tình huống để
HS tham gia các hoạt động để xây dựng hành vi/ thay đổi
hành vi.
Với các phương pháp tiếp cận trên, các phương pháp
dạy học cụ thể được sử dụng trong giáo dục KNS cho học
sinh THCS là: Phương pháp động não, phương pháp thảo
luận nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp nghiên
cứu tình huống, phương pháp trị chơi...
Ngồi ra có thể sử dụng một số phương pháp khác như
phương pháp giao nhiệm vụ, dự án, Đàm thoại, chia sẻ, trị
chuyện; Động viên, khích lệ, khen thưởng; Sử dụng những
câu chuyện đời sống; Thông qua hoạt động trải nghiệm;
Thông qua các cuộc thi; Phương pháp giao việc...


Trên đây là một số phương pháp chủ yếu trong tổ chức

giáo dục KNS được vận dụng từ các phương pháp giáo dục và
phương pháp dạy học. Tuy nhiên, khi vận dụng những
phương pháp, người GV cần lựa chọn các phương pháp phù
hợp với tâm sinh lý lứa tuổi đến điều kiện nhà trường.
Về các con đường GD KNS cho HS trong trường THCS,
GV có thể đưa nội dung giáo dục KNS lồng ghép, tích hợp
vào một số mơn học có ưu thế như: GDCD, Lịch sử, Địa lý,
Ngữ văn... GV cần chú ý mức độ tích hợp, lồng ghép kiến
thức cho phù hợp, tránh làm thay đổi kiến thức cơ bản của bài
dạy. Giáo dục KNS có thể thơng qua giảng dạy các chủ đề tích
hợp kiến thức mới. Chương trình GD KNS được cấu trúc
thành các chủ đề. Trong từng chủ đề đều có thể tích hợp các
kiến thức mới cho học sinh. Căn cứ vào chủ đề giáo dục của
tháng, mỗi tháng có thể xây dựng chương trình giáo dục
hướng đến tập trung giáo dục một HĐTN phù hợp.
GDKNS có thể thực hiện thơng qua HĐTN thơng qua
các HĐNGLL, hoạt động xã hội như: các cuộc thi tìm hiểu về
truyền thống, các hoạt động văn nghệ, thể thao, tham gia các
lễ hội truyền thống, tham gia phong trào đền ơn đáp nghĩa,
uống nước nhớ nguồn,...


GD KNS có thể thơng qua hoạt động tạo lập kiến thức
mới như thơng qua các mơn học điển hình như Tốn, Hóa, Lý,
Sinh... “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực’’:
“Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các
di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương’’.
- Các điều kiện thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh Trung học cơ sở
Cũng như trong dạy học các môn văn hóa, hoạt động giáo

dục KNS cần có điều kiện về nguồn lực tài chính, CSVC gồm
các trang thiết bị, tài liệu để hoạt động đạt hiệu quả cao nhất,
cụ thể như:
Để thực hiện mục tiêu, điều kiện đảm bảo tổ chức các
hoạt động giáo dục kỹ năng sống ngồi cơng tác chỉ đạo bằng
văn bản hướng dẫn, nguồn lực cán bộ, sự quan tâm, đầu tư về
cơ chế, chính sách … thì một trong những điều kiện khơng
thể thiếu đó chính là cơ sở vật chất. Theo thơng tư
04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/2/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định tại điều 4 và điều 6 như sau:
Điều 4. Cơ sở vật chất


1. Có phịng học, phịng chức năng có đủ ánh sáng, đảm
bảo các yêu cầu về vệ sinh trường học theo quy định.
2. Thiết bị dạy học phải bảo đảm an toàn, phù hợp với
nội dung dạy học, hoạt động và tâm lý lứa tuổi người học.
Điều 6. Giáo trình, tài liệu
Có đủ giáo trình, tài liệu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành hoặc phê duyệt. Nếu giáo trình, tài liệu tự lựa chọn hoặc
tự xây dựng thì phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép
hoạt động hoặc cơ quan xác nhận đăng ký hoạt động theo quy
định tại Điều 7, Điều 8 của Quy định này chấp thuận; đảm
bảo yêu cầu, có nội dung phù hợp với thuần phong mỹ tục
Việt Nam, không trái với các quy định của pháp luật.
- Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải
nghiệm trong trường trung học cơ sở
- Hoạt động trải nghiệm
Cuốn Kỹ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo trong trường trung học [41, tr.19], của tác

giả Đinh Thị Kim Thoa cho rằng hoạt động trải nghiệm sáng
tạo là hoạt động giáo dục thông qua sự trải nghiệm và sáng


tạo của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm học được trong
nhà trường với thực tiễn đời sống mà nhờ đó các kinh nghiệm
được tích lũy thêm và chuyển hóa dần thành năng lực.
Theo Bùi Ngọc Diệp trong cuốn Một số vấn đề chung về
hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường phổ thông [17,
tr.16], hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một biểu hiện của
hoạt động giáo dục đang tồn tại trong chương trình giáo dục
hiện hành. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động mang
tính xã hội, thực tiễn đến với môi trường giáo dục trong nhà
trường để học sinh tự chủ trải nghiệm trong tập thể, qua đó
hình thành và thể hiện được phẩm chất, năng lực, nhận ra
năng khiếu, sở thích, đam mê, bộc lộ và điều chỉnh cá tính,
giá trị; nhận ra chính mình cũng như khuynh hướng phát triển
của bản thân; bổ trợ cho và cùng với các hoạt động day học
trong chương trình giáo dục thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo
dục. Hoạt động này nhấn mạnh sự trải nghiệm, thúc đẩy năng
lực sáng tạo của người hcoj và được tổ chức thực hiện một
cách linh hoạt sáng tạo.
Theo Lê Huy Hoàng trong cuốn Tổ chức các hoạt động
trải nghiệm sáng tạo khoa học kĩ thuật” [21, tr.56], hoạt động
trải nghiệm sáng tạo là hoạt động xã hội, thực tiễn giúp học


sinh tự chủ trải nghiệm trong tập thể, qua đó hình thành và thể
hiện phẩm chất năng lực; nhận ra năng khiêu, sở thích, đam
mê, bộc lộ và điều chỉnh cá tính, giá trị, nhận ra chính mình

cũng như khuynh hướng phát triển bản thân; bổ trợ và cùng
với các hoạt động dạy học trong CTGD thực hiện tốt nhất
mục tiêu giáo dục. Hoạt động này nhấn mạnh sự trải nghiệm,
thúc đẩy năng lực sáng tạo của người học và được tổ chức
một cách linh hoạt, sáng tạo.
Nhìn chung, từ các phân tích trên có thể đưa ra: coi hoạt
động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, được tổ chức theo
phương thức trải nghiệm, qua đó phát triển tình cảm, đạo
đức, phẩm chất nhân cách, các năng lực thực tiễn…, từ đó
tích lũy kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng
tạo của cá nhân mình [39].
- Giáo dục kĩ năng sống thông qua hoạt động trải
nghiệm
-Khái niệm
Các hoạt động GDKNS thông qua hoạt động trải nghiệm
thực chất là các HĐGD KNS được tổ chức cho HS thâm nhập
vào các hoạt động thực tế, những việc làm cụ thể, và bằng


việc thơng qua các hành động của mình, HS có cơ hội và điều
kiện thuận lợi để phát triển, nâng cao các tố chất và tiềm năng
của bản thân. Tuy nhiên để có hiệu quả cao trong GDKNS
cho HS, người GV cần tạo điều kiện để các em chủ động tham
gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động; được trải
nghiệm, từ thiết kế hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh
giá kết quả hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả
năng của bản thân.
Như vậy, dựa trên quan niệm về GD KNS và HĐTN:
Giáo dục KNS thông qua hoạt động trải nghiệm về cơ bản
mang tính chất của hoạt động thực tế, được nhà trường và

các nhà giáo dục tổ chức trên tinh thần tự chủ, với sự nỗ lực
tự giáo dục của bản thân người học nhằm phát triển cho họ
các kỹ năng giao tiếp, giải quyết tình huống trong cuộc sống
và ứng phó với thách thức của bối cảnh.
- Vai trị giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải
nghiệm ở trường THCS
THỨ NHẤT: TẠO CƠ HỘI GẮN KẾT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TẾ XÃ HỘI


GD KNS thông qua HĐTN sẽ tạo cơ hội cho học sinh
trong quá trình trải nghiệm thể hiện được giá trị bản thân
mình, thiết lập được các quan hệ giữa cá nhân với tập thể, với
các cá nhân khác, với mơi trường học và mơi trường sống. Sự
trải nghiệm có ý nghĩa sẽ huy động tổng thể các giá trị của cá
nhân từ cảm xúc đến ý thức và hành động. Sự trải nghiệm huy
động toàn bộ năng lực hành động, sự liên kết trách nhiệm của
bản thân với xã hội.
GD KNS THƠNG QUA HĐTN CĨ THỂ QUAN SÁT TRỰC
TIẾP ĐƯỢC QUA HÀNH VI CỦA NGƯỜI ĐƯỢC GIÁO DỤC QUA
SẢN PHẨM CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC. ƯU THỂ CỦA GD KNS
VỚI NHIỀU HOẠT ĐỘNG PHONG PHÚ, ĐA DẠNG, DIỄN RA
TRÊN BÌNH DIỆN RỘNG, TẠO MƠI TRƯỜNG GẮN LÍ LUẬN VỚI
THỰC TIỄN. CÁC HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN VỀ KHOA HỌC KĨ
THUẬT, HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI, VĂN HÓA, VĂN NGHỆ, VUI CHƠI
GIẢI TRÍ…CÙNG TẬP THỂ CĨ TÁC ĐỘNG MẠNH MẼ, SÂU SẮC
TỚI ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM CỦA HỌC SINH. GD KNS LÀ MÔI
TRƯỜNG RÈN LUYỆN PHẨM CHẤT, NHÂN CÁCH, TÀI NĂNG,
THIÊN HƯỚNG CÁ NHÂN CHO HỌC SINH. QUA ĐÓ MÀ CÁC
MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI, VỚI



THIÊN NHIÊN VÀ MƠI TRƯỜNG SỐNG ĐƯỢC HÌNH THÀNH.
GD KNS THÔNG QUA HĐTN LÀ MÔI TRƯỜNG TỐT CHO VIỆC
PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN NHÂN CÁCH CHO HỌC SINH, LÀ ĐIỀU
KIỆN TỐT NHẤT ĐỂ CÁC EM PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ THỂ, CHỦ
ĐỘNG, SÁNG TẠO TRONG QUÁ TRÌNH RÈN LUYỆN VÀ HỌC
TẬP, GĨP PHẦN HÌNH THÀNH TÌNH CẢM VÀ NIỂM TIN ĐÚNG
ĐẮN.
THỨ HAI: HĐTN GÓP PHẦN NÂNG CAO, RÈN LUYỆN,
PHÁT TRIỂN KNS
TRONG Q TRÌNH TỔ CHỨC GD KNS THƠNG QUA
HĐTN, MỘT LƯỢNG LỚN THƠNG TIN CĨ THỂ ĐƯỢC TRUYỀN
QUA LẠI VỚI NHAU TRONG MƠI TRƯỜNG KIẾN TẠO XÃ HỘI,
CÁC KỸ NĂNG CĨ THỂ ĐƯỢC HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ BỞI
CHÍNH SỰ KHÁM PHÁ CỦA NGƯỜI HỌC HOẶC BỞI SỰ
TRUYỀN THỤ KIẾN THỨC TỪ NGƯỜI HỌC HIỂU BIẾT HƠN
(ĐĨNG VAI TRỊ NHƯ CHUN GIA) SANG NGƯỜI HỌC CỊN
CHƯA BIẾT (ĐĨNG VAI TRỊ NHƯ NGƯỜI HƯỞNG THỤ,
NGƯỜI ĐƯỢC GIÚP ĐỠ). NHƯ VẬY, KỸ NĂNG ĐƯỢC RÈN
LUYỆN VÀ CHIẾM LĨNH BỞI CHÍNH CÁ NHÂN NGƯỜI HỌC


HOẶC ĐƯỢC XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ TRONG MÔI TRƯỜNG
KIẾN TẠO XÃ HỘI THÔNG QUA HĐTN.
Thứ ba: phát triển nhân cách, năng lực cá nhân toàn
diện
Giáo dục kỹ năng sống thông qua HĐTN giúp học sinh
tăng cường sự hiểu biết và tiếp thu các giá trị tốt đẹp, nâng
cao ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường và

xã hội. Tổ chức GD KNS thông qua HĐTN giúp học sinh
củng cố các kĩ năng đã có, trên cơ sở đó, tiếp tục rèn luyện và
phát triển các năng lực của bản thân. Quá trình trải nghiệm
giúp cho học sinh có thái độ đúng đắn trước những vấn đề của
cuộc sống.
- Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động trải
nghiệm
Những năm gần đây, Bộ GD&ĐT tạo đã yêu cầu các
trường phổ thông chú trọng đổi mới phương pháp dạy học,
tăng cường các HĐGD KNS trong đó tăng cường tính sáng
tạo, tích cực của HS để phát triển phẩm chất, năng lực cho
học sinh. Do vậy, GD KNS thông qua hoạt động trải nghiệm
đạt các mục tiêu như sau:


×