Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia đình dân tộc Ê-Đê và H’Mông hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.98 KB, 27 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
–––––––––––––––––––––––

TẠ THỊ THẢO

XÃ HỘI HÓA VAI TRÕ GIỚI Ở TRẺ EM
TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC Ê ĐÊ VÀ
H’MÔNG HIỆN NAY
Chuyên ngành

: Xã hội học

Mã số

: 9 31 03 01

TÓM TẮT U N N TI N S XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI - 2019


Công trình đƣợc hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Đình Tấn

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Đức Vinh
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Chí Dũng
Phản biện 3: PGS.TS. Hoàng Thu Hƣơng

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại


Học viện Khoa học Xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
vào hồi … giờ ….. phút, ngày …. Tháng….. năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
và Thƣ viện Học viện Khoa học Xã hội


DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA T C GIẢ
1. Tạ Thị Thảo (2017), Vai trò của gia đình trong việc hình thành,
bảo lưu nhận thức về giới của trẻ em người Ê-đê hiện nay, Tạp
chí Giáo dục lý luận (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Học viện Chính trị khu vực I), Số 12/2017, trang 62-67.
2. Tạ Thị Thảo (2018), Vai trò của phụ nữ Ê-đê trong quá trình xã
hội hóa giới cho trẻ em dân tộc Ê-đê, Tạp chí Khoa học Chính
trị (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện Chính
trị khu vực II), Số 03/2018, trang 59-63.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình đƣợc xem là môi trƣờng xã hội hóa quan trọng nhất trong
việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. Chức năng xã hội hoá của gia
đình đƣợc biểu hiện qua nhiều nội dung, trong đó có giáo dục trong lao
động - nghề nghiệp, giáo dục giới tính, xuyên suốt là sự phân biệt những
phẩm chất mà nam giới và phụ nữ trong gia đình cần có đƣợc, trong mọi nội
dung giáo dục đều nhắc đến vai trò của mỗi giới.
Tác giả lựa chọn nghiên cứu xã hội hóa vai trò giới ở hai dân tộc
Ê Đê và Mông xuất phát từ lý do sau:
- Thứ nhất, các nghiên cứu về xã hội hóa giới trong cộng đồng
DTTS hiện nay chƣa có nhiều, nghiên cứu này đóng góp cả về mặt lý
luận và thực tiễn.

- Thứ hai, dân tộc Mông là DTTS khá đông ngƣời tại Việt Nam
(với tổng dân số là 1.251.040 ngƣời, đứng thứ 7 trên tổng số DTTS cả
nƣớc), có những đặc trƣng văn hóa đặc sắc ở khu vực phía Bắc. Dân tộc
Mông thuộc nhóm dân tộc có quy mô hộ gia đình cao nhất trong tất cả
các DTTS - trung bình có đến 5,6 thành viên/hộ cùng sinh sống. Bên
cạnh đó, dân tộc Mông nằm trong nhóm có thu nhập thấp nhất cả nƣớc
(thu nhập bình quân đầu ngƣời dƣới 632.000 đồng/ngƣời/tháng); đời
sống kinh tế khó khăn, với tỷ lệ hộ nghèo chiếm khoảng 43%, là 1 trong
2 dân tộc có tỷ lệ nghèo đa chiều cao hơn 80%. Xét về khía cạnh tổ chức
đời sống xã hội, xã hội truyền thống của ngƣời Mông có cấu trúc khá
thống nhất, đó là xã hội phụ quyền rất mạnh với sự đề cao vai trò, quyền
lợi cũng nhƣ trách nhiệm của ngƣời đàn ông. Cấu trúc xã hội ấy đƣợc
xây dựng trên cơ sở của tế bào xã hội đó là gia đình. Ngƣời đảm đƣơng
vị trí “chủ nhà” luôn là ngƣời bố, khi ngƣời bố không còn, quyền chủ
nhà đƣợc trao cho con trai lớn. Trong khi ngƣời đàn ông có quyền quyết
định mọi công việc đối nội – đối ngoại trong gia đình và luôn đƣợc coi
trọng, thì phụ nữ hầu nhƣ không có quyền quyết định bất cứ công việc
nào của gia đình, không đƣợc tham gia các công việc xã hội; có thể nói
vị trí và vai trò của phụ nữ ở dân tộc này quá chênh lệch so với đàn ông.
Thứ ba, dân tộc Ê Đê có tổng số dân là 367.890 ngƣời, đứng thứ
10 trên tổng số DTTS cả nƣớc, là dân tộc có đặc điểm nổi bật là chế độ
mẫu hệ điển hình, thể hiện rõ nét trong các lĩnh vực: tổ chức xã hội, chế
độ hôn nhân, thừa kế tài sản, giáo dục, lao động xã hội… Nếu nhƣ trong
gia đình phụ hệ ngƣời đàn ông là ngƣời quyết định mọi công việc trong
gia đình, trong gia đình mẫu hệ Ê Đê, ngƣời phụ nữ cao tuổi, có uy tín

1


nhất trong gia đình sẽ đứng ra quản lý tài sản, hƣớng dẫn mọi thành viên

trong gia đình sản xuất, giải quyết những mối quan hệ trong gia đình;
ngƣời đàn ông chỉ có vai trò bên ngoài cộng đồng.
Với những đặc trƣng văn hóa nêu trên, tác giả lựa chọn hai nhóm
dân tộc Ê Đê và Mông để nghiên cứu, với mục đích phân tích bối cảnh
và những đặc trƣng trong quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong
gia đình 2 dân tộc hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia
đình dân tộc Ê Đê và Mông qua các nội dung - phƣơng pháp xã hội hóa
và các yếu tố ảnh hƣởng tới quá trình này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án tập trung thực hiện những
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về xã hội hóa và xã hội hóa vai
trò giới.
- Xác định cơ sở lý luận làm nền tảng cho nghiên cứu về quá trình
xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia đình DTTS, gồm: thao tác hóa hệ
thống khái niệm công cụ liên quan đến đề tài luận án, vận dụng các quan điểm
lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu xã hội học để phân tích thực nghiệm
quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia đình DTTS.
- Mô tả và phân tích quan niệm, nội dung và phƣơng pháp xã hội hóa
vai trò giới ở trẻ em trong các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông hiện nay.
- Phân tích những yếu tố ảnh hƣởng tới quá trình xã hội hóa vai trò
giới ở trẻ em trong các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong
gia đình dân tộc Ê Đê và Mông hiện nay qua các khía cạnh: nội dung xã
hội hóa, phƣơng pháp xã hội hóa và các yếu tố ảnh hƣởng tới quá trình xã

hội hóa vai trò giới ở trẻ em.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn đối tượng nghiên cứu
- Luận án tập trung nghiên cứu quá trình xã hội hóa vai trò giới ở
trẻ em trong gia đình dân tộc Ê Đê và Mông ở các khía cạnh: quan niệm,
nội dung và phƣơng pháp xã hội hóa vai trò giới.

2


Giới hạn về khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu chính: đại diện hộ gia đình dân tộc Mông
(huyện Đồng Văn - tỉnh Hà Giang) và hộ gia đình dân tộc Ê Đê (huyện
Krông Buk - tỉnh Đắk Lắk), trẻ em dân tộc Mông và dân tộc Ê Đê (từ 715 tuổi).
Giới hạn về thời gian quan sát đối tượng nghiên cứu
- Quá trình khảo sát, thu thập thông tin định tính và định lƣợng
phục vụ cho luận án đƣợc thực hiện từ tháng 5/2016 - 7/2017.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
- Luận án vận dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về chức năng xã hội hóa của gia đình
hiện nay. Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tƣợng,
các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua
lại, chuyển hóa lẫn nhau. Do đó các sự vật, hiện tƣợng không thể tồn tại
biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa
lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Các sự vật, hiện tƣợng trong thế
giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác
động qua lại lẫn nhau. Chúng ta chỉ có thể đánh giá bản chất của một
con ngƣời cụ thể thông qua các mối liên hệ, sự tác động của con ngƣời
đó đối với ngƣời khác, đối với xã hội, thông qua hoạt động của chính

con ngƣời ấy. Sự vận động, biến đổi trong các hoạt động của con ngƣời
diễn ra trong các điều kiện lịch sử cụ thể, nó chịu tác động bởi những
quan hệ xã hội, tƣơng tác xã hội tồn tại trong các thời kỳ phát triển khác
nhau của xã hội. Vận dụng vào luận án, xem xét quá trình xã hội hóa vai
trò giới ở trẻ em trong các gia đình dân tộc Ê Đê và dân tộc Mông nhƣ là
một bộ phận của cấu trúc xã hội, đặt nó trong bối cảnh xã hội cụ thể,
trong sự tƣơng quan với các yếu tố chủ quan và khách quan.
- Luận án sử dụng lý thuyết xã hội học gồm lý thuyết: Lý thuyết xã
hội hóa và xã hội hóa giới; Lý thuyết cấu trúc - chức năng; Thuyết tƣơng
tác biểu trƣng; thuyết nữ quyền.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phƣơng pháp phân tích tài liệu sẵn có
Luận án thu thập những thông tin từ các tài liệu có sẵn để làm rõ
các nội dung:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài.
- Thao tác hóa các khái niệm có liên quan đến đề tài luận án.
- Vận dụng các lý thuyết xã hội học trong nghiên cứu.
- Đặt câu hỏi nghiên cứu và xây dựng giả thuyết nghiên cứu.

3


Các nguồn số liệu đƣợc thu thập từ:
- Số liệu thống kê của các cơ quan thống kê cấp Trung ƣơng và
địa phƣơng (Báo cáo thống kê, niên giám thống kê,…)
- Báo cáo tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của các địa phƣơng
tiến hành khảo sát.
- Các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí có liên quan đến
đối tƣợng nghiên cứu của luận án.
Phƣơng pháp quan sát

+ Tác giả tiến hành quan sát tham dự với 105 trẻ em trong độ tuổi
dƣới 9 tuổi, quan sát công việc hàng ngày của trẻ em tại các gia đình, từ
đó phân loại các công việc theo các nhóm vai trò giới (vai trò sản xuất,
vai trò tái sản xuất); quan sát thái độ của trẻ em khi tiếp nhận sự dạy bảo
việc thực hiện các công việc nhà từ ngƣời lớn trong gia đình
(ông/bà/bố/mẹ). Quan sát không tham dự đối với ngƣời lớn trong gia
đình khi họ thực hiện các hoạt động dạy dỗ trẻ em làm các công việc
trong gia đình.
Phƣơng pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Luận án tiến hành thu thập thông tin với 653 hộ gia đình ở 2 tỉnh
Hà Giang và Đắk Lắk. Sử dụng các câu hỏi liên quan đến quá trình xã hội
hóa vai trò giới qua các mặt nhƣ: phân công lao động trong gia đình, quan
hệ xã hội, những mong đợi về tính cách dành cho trẻ em trai và trẻ em gái.
Nhóm đƣợc phỏng vấn gồm: chủ hộ gia đình, trẻ em trai, trẻ em
gái dân tộc Mông và dân tộc Ê Đê.
Mẫu nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận án là dân tộc Mông và dân tộc Ê
Đê, để đảm bảo tính đại diện của mẫu nghiên cứu, địa phƣơng đƣợc lựa
chọn phải đại diện cho vùng nghiên cứu về các điều kiện kinh tế - chính
trị - văn hóa - xã hội và là nơi tập trung nhiều dân tộc Mông và dân tộc Ê
Đê. Trong khuôn khổ luận án và khả năng nghiên cứu, tổng mẫu điều tra
ở cả 2 dân tộc là 653 hộ gia đình.
Mẫu nghiên cứu đƣợc lựa chọn theo phƣơng pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên hệ thống trên cơ sở danh sách lấy mẫu gồm các hộ gia đình có từ
2-3 thế hệ cùng chung sống (danh sách đƣợc lọc từ danh sách nhân khẩu
do địa phƣơng quản lý). Mẫu nghiên cứu đƣợc phân chia trên cơ cấu giới
tính, độ tuổi, học vấn và nghề nghiệp. Ở 4 xã tiến hành khảo sát, tác giả
lựa chọn cách thức chia đều một cách tƣơng đối theo giới tính của chủ
hộ để đảm bảo tính khách quan trong các quan điểm. Mẫu trẻ em cũng
đƣợc lựa chọn ngay tại các hộ gia đình đƣợc khảo sát để đảm bảo có sự

tƣơng quan trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong quá trình

4


khảo sát. Tuy nhiên, trên thực tế tác giả chỉ tiến hành thu thập thông tin
bằng bảng hỏi độc lập với 200 trẻ em thuộc 2 dân tộc Mông và Ê Đê.
Đây là số lƣợng trẻ có thể tham gia trả lời, thuộc nhóm tuổi chủ yếu từ
9-14 tuổi; những trẻ em dƣới 9 tuổi tác giả tiến hành quan sát tại gia đình
và thông qua phỏng vấn cha mẹ.
Phƣơng pháp xử lý số liệu
Số liệu định lƣợng đƣợc phân tích, xử lý bằng phần mềm SPSS
16.0. Luận án sử dụng các phép phân tích thống kê dƣới đây: phân tích
thống kê mô tả, phân tích thống kê suy luận (Phân tích so sánh và Phân
tích tương quan).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Bằng phƣơng pháp phân tích xã hội học, luận án có những đóng
góp mới sau:
- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp vào hệ
thống lý luận về xã hội hóa nói chung và xã hội hóa giới nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu thực tiễn mô tả bức tranh
xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông
hiện nay trên các khía cạnh nội dung và phƣơng pháp xã hội hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án “Xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia đình dân tộc
Ê Đê và Mông hiện nay” đi sâu vào phân tích quá trình xã hội hóa vai
trò giới ở trẻ em trong gia đình dân tộc Ê Đê và Mông thông qua nhận
thức, nội dung và phƣơng pháp xã hội hóa.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thông qua kết quả nghiên cứu, luận án đƣa ra những kiến giải về
nhận thức, nội dung và phƣơng pháp xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em
trong các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông hiện nay. Qua đó có thể thấy
đƣợc những yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình xã hội hóa vai trò giới hiện
nay, và sự thay đổi trong mô hình xã hội hóa vai trò giới truyền thống
trong các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông hiện nay.
7. Cấu trúc của luận án
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Chƣơng 3: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP XÃ HỘI HÓA VAI
TRÒ GIỚI Ở TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC Ê ĐÊ VÀ
MÔNG HIỆN NAY

5


Chƣơng 4: MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI QUÁ TRÌNH
XÃ HỘI HÓA VAI TRÒ GIỚI Ở TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH DÂN
TỘC Ê ĐÊ VÀ MÔNG
KẾT LUẬN
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các nội dung nghiên cứu về xã hội hóa vai trò giới
1.1.1. Quan niệm về vai trò giới
Các vai trò giới chính là biểu hiện rõ nét nhất của sự phân công lao
động theo giới, vì giới là một sản phẩm của xã hội, vừa có tính lịch sử, vừa
có tính phi lịch sử; vấn đề giới vận động một cách khách quan cùng sự vận
động của xã hội, nó biến đổi theo thời gian và tùy thuộc vào mỗi nền văn
hóa khác nhau. Có không nhiều nghiên cứu chuyên biệt về vai trò giới,
hầu hết đều đề cập đến vai trò giới dƣới cách tiếp cận cấu trúc – chức năng
về sự phân công lao động theo giới. Theo đó, các thành viên trong gia đình

thừa nhận và thực hiện các vai trò của mình, chuyên môn hóa các vai trò,
đó là nền tảng của một gia đình ổn định. Hầu hết các công trình đều chỉ ra
rằng xét từ quan điểm bình đẳng giới, ngƣời phụ nữ dù trẻ hay già vẫn
luôn là ngƣời gánh vác phần lớn công việc nội trợ trong gia đình, vai trò
của ngƣời nam giới chỉ mang tính hỗ trợ. Và sự phân công này đƣợc ƣu
tiên tiếp nối nhƣ một thói quen truyền thống, gắn với gia đình truyền
thống. Đồng thời sự phân công lao động nội trợ theo giới góp phần xã hội
hóa vai trò giới truyền thống và định hình khuôn mẫu giới từ trong gia
đình. Giới là vấn đề vừa mang tính lịch sử vừa mang tính xã hội. Vấn đề
giới vận động và biến đổi cũng với sự biến đổi của xã hội, tuy nhiên sự
biến đổi đó diễn ra rất chậm. Điều này đã đƣợc các nghiên cứu chứng
minh rằng mặc dù sự thay đổi của xã hội có tác động đến quan niệm và
việc thực hiện các vai trò giới ở trong gia đình, nhƣ vai trò đóng góp kinh
tế của phụ nữ đối với gia đình đƣợc nâng lên, tuy nhiên những quan
niệm về vai trò truyền thống của phụ nữ nhƣ: vai trò tái sản xuất (sinh
con, chăm sóc gia đình: cả thể chất và tinh thần) thì dƣờng nhƣ vẫn chƣa
có sự thay đổi nhiều. Phụ nữ vẫn là trụ cột trong việc nuôi dƣỡng và
chăm sóc con cái trong gia đình, mọi sinh hoạt bên ngoài xã hội đều dành
cho ngƣời chồng.
1.1.2. Phương pháp xã hội hóa vai trò giới
Hiệu quả của giáo dục không đơn thuần nằm ở nội dung, thái độ của
ngƣời giáo dục - ngƣời tiếp thu mà còn phụ thuộc vào phƣơng pháp giáo
dục. Việc giáo dục thông qua phƣơng pháp truyền miệng, giải thích và nhắc

6


đi nhắc lại nhiều lần đƣợc các gia đình coi trọng; thêm vào đó là phƣơng
pháp nêu gƣơng, mỗi bậc cha mẹ là tấm gƣơng về lối sống và lao động để
con cái noi theo. Các nghiên cứu chỉ ra rằng: Trong gia đình, để đảm bảo

việc tuân thủ các nội dung giáo dục, gia đình Việt Nam truyền thống đặc
biệt sử dụng quyền uy của chủ thể giáo dục. Phƣơng pháp giáo dục ở đây là
buộc phải tuân theo, phải chấp hành chứ không đƣợc phép tranh luận, phân
tích đúng sai. Bên cạnh đó phƣơng pháp nêu gƣơng cũng đƣợc xem là
phƣơng pháp thƣờng đƣợc các gia đình sử dụng, những tấm gƣơng đƣợc
hình thức hóa thông qua các câu chuyện kể, các câu châm ngôn, ca dao, tục
ngữ, đƣợc truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Giáo dục thông qua
lao động và bằng lao động là phƣơng pháp phổ biến, đƣợc đại đa số các gia
đình sử dụng, với quan niệm dạy con nên ngƣời là phải dạy con biết tự lao
động. Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ em trong các gia đình nông dân đã đƣợc
hƣớng dẫn lao động và tham gia lao động phù hợp với lứa tuổi.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xã hội hóa vai trò giới
Môi trƣờng xã hội hóa là nơi cá nhân có thể thực hiện thuận lợi
các tƣơng tác xã hội của mình nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh
nghiệm xã hội. Các nghiên cứu trƣớc đây đã chỉ ra rằng gia đình là nơi
xã hội hóa vấn đề giới, truyền lại các kiến thức và kỹ năng về giới. Do
vậy, nhận thức về bình đẳng giới của các thế hệ đi trƣớc trong gia đình
nhƣ ông bà, cha mẹ… tác động rất lớn đến nhận thức của các thế hệ kế
tiếp. Trong gia đình, con ngƣời học những bài học đầu tiên về tôn ti trật
tự, về sự tuân thủ, sự phân biệt đối xử. Con trai học cách quyết đoán và
thống trị, con gái học sự phục tùng. Gia đình chính là nơi tạo ra tôn ti
trật tự. Sự nhận thức không đúng đắn về giới và bình đẳng giới sẽ tạo ra
những tôn ti trật tự trong đó làm giảm vị thế của phụ nữ, dẫn đến bất
bình đẳng giới ngay trong gia đình. Trong gia đình truyền thống, ông bà,
cha mẹ truyền dạy cho cháu con những nguyên mẫu về các quan niệm và
hành vi mong đợi đƣợc cho là thích hợp đối với mỗi giới và các kỳ vọng
của xã hội đối với nam giới và phụ nữ.
1.2. Về phƣơng pháp nghiên cứu
Ở Việt Nam hiện nay chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về xã
hội hóa vai trò giới, chủ yếu là các nghiên cứu có nội dung về chức năng

giáo dục của gia đình, trong đó có lồng ghép nội dung giáo dục bản sắc
giới tính. Mặc dù không phải là vấn đề xã hội tế nhị hay nhạy cảm
nhƣng chủ đề này lại ít đƣợc nghiên cứu, có thể do xã hội nhìn nhận nó
nhƣ hiện tƣợng phổ biến trong đời sống xã hội. Các nguồn cung cấp
thông tin thì cho rằng sự phân công lao động theo giới tính là phù hợp
với vai trò của mỗi giới. Với các nghiên cứu không thuộc chuyên ngành

7


xã hội học, khi tiến hành thu thập thông tin về quan hệ giới trong gia
đình, sự phân công lao động trong gia đình chủ yếu sử dụng phƣơng
pháp thu thập tƣ liệu, phân tích và tổng hợp, thống kê so sánh các tƣ liệu
sẵn có; một số sử dụng phƣơng pháp điền dã dân tộc học. Phƣơng pháp
chọn mẫu chủ yếu đƣợc sử dụng là chọn mẫu ngẫu nhiên. Các lý thuyết
đƣợc sử dụng để phân tích quá trình xã hội hóa giới trong nghiên cứu
này chủ yếu là các lý thuyết tâm lý học nhƣ thuyết động thái tâm lý (lý
thuyết phân tâm học của S.Freud; quan điểm của Nancy Chodorov); lý
thuyết sinh học; lý thuyết học hỏi xã hội; thuyết phát triển nhận thức.
Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên
quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu kể trên đều nhìn nhận về vấn đề xã hội
hóa nhƣ một chức năng của thiết chế gia đình. Nếu xem xét dƣới góc độ
giới, các công trình đƣa lại bức tranh khá toàn cảnh về thực trạng bất bình
đẳng giới nói chung, các nguyên nhân và hệ thống giải pháp nhằm thực
hiện bình đẳng giới. Tuy nhiên, nhắc đến quá trình xã hội hóa vai trò giới,
thực tế cho thấy có không nhiều các công trình, bài viết về chức năng này
ở các gia đình DTTS. Dựa trên sự khuyết thiếu này, tác giả mạnh dạn lựa
chọn giải quyết vấn đề xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia đình dân
tộc Ê Đê và Mông hiện nay với mong muốn bổ sung vào hệ thống các

công trình nghiên cứu ứng dụng về giới ở Việt Nam hiện nay. Về mặt
phƣơng pháp, nghiên cứu này sử dụng các phƣơng pháp liên ngành để thu
thập thông tin cho đề tài, gồm có các phƣơng pháp điều tra xã hội học và
điền dã dân tộc học. Tránh việc phân tích vấn đề nặng về khía cạnh tâm lý
khi sử dụng các lý thuyết tâm lý trong nghiên cứu, tác giả luận án sử dụng
các lý thuyết xã hội học nhƣ: thuyết cấu trúc - chức năng, lý thuyết xã hội
hóa và lý thuyết tƣơng tác biểu trƣng, nhằm phân tích một cách khách
quan quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia đình DTTS.
Chƣơng 2. CƠ SỞ Ý U N VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Các khái niệm công cụ
2.1.1. Khái niệm giới
“Giới là quan hệ xã hội giữa nam và nữ và cách thức mối quan
hệ đó được xây dựng nên trong xã hội.”. Theo định nghĩa này, giới
không ám chỉ khái niệm nam giới hoặc phụ nữ với tƣ cách cá nhân mà
nói với quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ (tính tập thể), quan hệ
này thay đổi theo thời gian, theo hoàn cảnh kinh tế và xã hội. Những yếu
tố ảnh hƣởng tới sự thay đổi quan hệ giới trong xã hội tùy thuộc vào sự

8


vận động và phát triển của chính các quan hệ xã hội. cụ thể đó là các
quan hệ có liên quan đến vấn đề dân tộc, văn hóa, phong tục, tập quán.
2.1.2. Khái niệm vai trò giới
Theo Từ điển Xã hội học Oxford “Vai trò giới quy định những
cách thức khác nhau mà nam và nữ được chờ đợi là cần hành động theo
và quy định những nhiệm vụ khác nhau mà họ được trông đợi phảm đảm
đương”. Các vai trò giới bao gồm các quyền và trách nhiệm đƣợc chuẩn
hóa đối với nam giới và phụ nữ trong một xã hội, một cộng đồng cụ thể,
tùy theo từng nền văn hóa xã hội các vai trò giới đƣợc hình thành theo

cách khác nhau. Trong các phân tích về giới, vai trò giới đƣợc xem nhƣ
một yếu tố cốt lõi trong việc duy trì sự bất bình đẳng giới. Trong giới
hạn luận án, tác giả mong muốn trả lời câu hỏi: ngƣời Ê Đê và ngƣời
Mông quan niệm nhƣ thế nào về vai trò giới? Việc “ai làm gì” thể hiện
những vấn đề nào của văn hóa tộc ngƣời? Quá trình hình thành vai trò
giới ở trẻ em dân tộc Ê Đê và dân tộc Mông trong phạm vi gia đình diễn
ra nhƣ thế nào?
2.1.3. Khái niệm xã hội hóa
Để phản ánh rõ nét về quá trình xã hội hóa cá nhân, tác giả sử dụng
khái niệm đƣợc đa số các nhà xã hội học đồng thuận: “Xã hội hóa là quá
trình trong đó cá nhân học cách trở thành thành viên xã hội thông qua
việc học tập, lĩnh hội các giá trị, chuẩn mực xã hội và đóng các vai trò xã
hội” (Phạm Tất Dong & cộng sự 1999: 259). Cá nhân trong quá trình xã
hội hóa không đơn thuần chỉ là việc thu nhận kinh nghiệm xã hội mà còn
chuyển hóa nó thành những giá trị, những tâm thế của cá nhân, thể hiện sự
tác động ngƣợc trở lại của cá nhân vào môi trƣờng xung quanh thông qua
hoạt động của mình.
2.1.4. Khái niệm xã hội hóa vai trò giới
Xã hội hóa giới là việc trẻ em học cách nhận diện mình thuộc giới
nào và các vai trò tƣơng ứng mà nhóm, cộng đồng hay xã hội nói chung
gắn cho mỗi giới. Nghiên cứu về quá trình xã hội hóa với các tác nhân
xã hội hóa (gia đình, trƣờng học, nhóm thành viên, truyền thông đại
chúng) là một lĩnh vực nghiên cứu khá rộng với nhiều nội dung, và cần
kết hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành. Với phạm vi nghiên
cứu của luận án, tác giả chỉ phân tích quá trình xã hội hóa vai trò giới
với tác nhân xã hội hóa là gia đình.
2.1.5. Khái niệm trẻ em và trẻ em dân tộc thiểu số
Khái niệm trẻ em
Luận án sử dụng khái niệm trẻ em do Luật trẻ em (2016) quy
định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.


9


Khái niệm trẻ em dân tộc thiểu số
Tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về
công tác dân tộc quy định: “DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so
với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.”. Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009, hiện nay ở
Việt Nam có 54 dân tộc, dân tộc Kinh chiếm đa số (trên 85%), 53 dân
tộc còn lại chiếm tỷ lệ khoảng 15%, xếp vào nhóm DTTS. Nhƣ vậy trẻ
em DTTS đƣợc hiểu là những ngƣời dƣới 16 tuổi, không phải là dân tộc
Kinh. Trong luận án này, nhóm trẻ em DTTS đƣợc nghiên cứu là nhóm
trẻ em ngƣời dân tộc Mông và dân tộc Ê Đê.
2.2. Các lý thuyết xã hội học
- Luận án sử dụng lý thuyết xã hội học gồm lý thuyết: Lý thuyết xã
hội hóa và xã hội hóa giới; Lý thuyết cấu trúc - chức năng; Thuyết tƣơng
tác biểu trƣng; thuyết nữ quyền.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
2.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Hiện nay, các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông có quan niệm nhƣ
thế nào về vai trò giới?
- Các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông thực hiện việc xã hội hóa
vai trò giới ở trẻ em nhƣ thế nào?
- Những yếu tố nào ảnh hƣởng tới quá trình xã hội hóa vai trò giới
ở trẻ em trong các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông hiện nay?
2.3.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Trƣớc những biến đổi về đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội, các
hộ gia đình dân tộc Ê Đê và Mông nói chung vẫn duy trì các quan niệm
về vai trò của phụ nữ và nam giới trong gia đình theo hƣớng nam ngoại,

nữ nội.
- Vai trò giới đƣợc truyền đạt đến trẻ em từ sớm thông qua những
kỳ vọng của cha mẹ đối với đứa trẻ về những phẩm chất, tính cách, ứng
xử trong gia đình, trong cộng đồng đối với mỗi giới; bằng việc giáo dục
trẻ em làm những công việc nhà và công việc lao động sản xuất.
- Các yếu tố có thể ảnh hƣởng đến quá trình xã hội hóa vai trò
giới ở trẻ em trong gia đình dân tộc Ê Đê và Mông hiện nay đƣợc kể đến
là: các yếu tố thuộc về đặc điểm của cha mẹ (trình độ học vấn, nghề
nghiệp, độ tuổi…), đặc điểm hộ gia đình (cấu trúc hộ gia đình, điều kiện
kinh tế, …), bên cạnh đó còn có các yếu tố xã hội nhƣ: phong tục tập
quán, khuôn mẫu giới…

10


2.3.3. Khung phân tích
Điều kiện kinh tế - xã hội

Đặc điểm cha mẹ: Học
vấn, nghề nghiệp, tuổi, dân
tộc

Đặc điểm hộ gia đình:
Quy mô, mức sống, nơi cƣ
trú

Xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia đình
dân tộc Ê Đê và Mông hiện nay

Quan niệm vai trò

giới trong gia đình

Nội dung xã hội
hóa vai trò giới cho
trẻ em

Phƣơng pháp XHH
vai trò giới cho trẻ
em

Đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán

2.4. Đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội của địa bàn nghiên cứu
2.4.1. Tỉnh Hà Giang
Dân tộc Mông - Huyện Đồng Văn
Hà Giang là tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, là khu vực có
sự đa dạng về bản sắc văn hóa DTTS. Là nơi tập trung sinh sống của
nhiều dân tộc, trong đó dân tộc Mông chiếm 32,9% dân số toàn tỉnh.
Dân cƣ chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp, chăn nuôi nhỏ lẻ, đời sống
kinh tế còn nhiều khó khăn, điều kiện xã hội còn nhiều khoảng cách so
với các địa phƣơng trong cả nƣớc. Dân tộc Mông xếp thứ 6 về quy mô
dân số, tỷ lệ dân số hoạt động kinh tế cao, tuy nhiên chủ yếu là hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp thô sơ. Tỷ lệ ngƣời dân tộc Mông tốt
nghiệp các cấp học đƣợc đánh giá thấp nhất trong số các DTTS (37,7%
dân số biết đọc-viết tiếng Việt). Dân cƣ sinh sống theo từng bản/làng,
nam – nữ ngƣời Mông lập gia đình khá sớm, tuổi kết hôn trung bình là
18,9. Xã hội của ngƣời Mông là xã hội phụ quyền nên ngƣời chủ gia
đình thƣờng là ngƣời nam giới, đó là ngƣời cha trong gia đình, khi
ngƣời cha mất đi thì ngƣời con trai lớn sẽ đảm nhận vai trò đó. Trong


11


gia đình ngƣời đàn ông là lao động chính, là ngƣời đảm đƣơng những
công việc nặng nhọc nhất. Còn phụ nữ, trẻ em, ngƣời già là nguồn lao
động phụ.
2.4.2. Tỉnh Đắk Lắk
Dân tộc Ê Đê – Huyện Krông Búk
Dân tộc Ê Đê là 1 trong 5 DTTS ở Việt Nam thuộc nhóm ngôn ngữ
Nam Đảo, cƣ trú tại 59/63 tỉnh thành, phố trên cả nƣớc, họ cƣ trú chủ yếu
ở khu vực tỉnh Đắk Lắk (chiếm khoảng 90,1% dân số toàn dân tộc Ê Đê
trên cả nƣớc), nơi đây đã tạo ra bản sắc văn hóa của dân tộc Ê Đê, mặc dù
cƣ trú tại nhiều địa phƣơng khác nhau, với nhiều nhóm địa vực song tên
gọi Ê Đê vẫn là tên gọi thống nhất của họ. Dân tộc Ê Đê gắn với núi rừng
và sống nhờ vào rừng. Trong sản xuất việc làm nƣơng rẫy (hma) chiếm
vị trí trọng yếu và là nguồn sống chính của dân tộc Ê Đê. Đặc điểm nổi
bật của ngƣời Ê Đê là văn hóa mẫu hệ điển hình. Văn hóa này đã chi
phối mạnh mẽ, sâu sắc đến đời sống của từng thành viên trong cộng
đồng. Theo đó ngƣời phụ nữ Ê Đê có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng
không những trong gia đình mà còn cả ngoài xã hội.
Tiểu kết chƣơng 2
Chƣơng 2 cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu
quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong gia đình DTTS (dân tộc Ê
Đê và dân tộc Mông). Trên cơ sở vận dụng, kế thừa các luận điểm và sự
lý giải các hiện tƣợng của kết quả nghiên cứu trƣớc đó, luận án vận dụng
các lý thuyết xã hội hóa, lý thuyết cấu trúc - chức năng và lý thuyết
tƣơng tác biểu trƣng vào lý giải quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em
trong gia đình dân tộc Ê Đê và dân tộc Mông.
Các nghiên cứu về xã hội hóa nói chung và xã hội hóa giới nói
riêng ít đề cập đến đối tƣợng cụ thể là trẻ em DTTS, và xem quá trình xã

hội hóa giới nhƣ là quá trình giáo dục bản sắc giới. Kết quả nghiên cứu
xoay quanh việc lý giải các kỳ vọng giới của cha mẹ đối với con cái bằng
các lý thuyết tâm lý học và thuyết sinh học. Luận án kế thừa những kết
quả nghiên cứu này và khai thác sâu hơn dƣới góc độ xã hội học để thấy
đƣợc quan niệm giới của các gia đình dân tộc Ê Đê và Mông, từ đó phân
tích quá trình hình thành vai trò giới ở trẻ em trong các gia đình này.

12


Chƣơng 3. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PH P XÃ HỘI HÓA VAI
TRÕ GIỚI Ở TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC Ê ĐÊ VÀ
MÔNG HIỆN NAY
3.1. Nội dung vai trò giới trong gia đình dân tộc Ê Đê và dân
tộc Mông
3.1.1. Quan niệm vai trò giới trong gia đình dân tộc Ê Đê và
dân tộc Mông
Thứ nhất, vai trò sản xuất
Lao động trong cộng đồng các DTTS đƣợc phân công theo “việc
đàn ông” và “việc đàn bà”. Sự phân công lao động này xuất phát từ
quan niệm nam giới là phái mạnh, phải đảm nhận những việc nặng, cần
tính toán, kỹ thuật; còn phụ nữ thuộc phái yếu, nên phụ trách những
việc nhẹ, việc không tên.
Mặc dù 2 dân tộc đƣợc nghiên cứu thuộc 2 nhóm hôn nhân khác
nhau (phụ hệ và mẫu hệ), nhƣng trên thực tế theo quan niệm truyền
thống, nam giới là trụ cột kinh tế, là ngƣời kiếm cơm nuôi sống các
thành viên trong gia đình. Kết quả khảo sát định lƣợng cho thấy, tỷ lệ
đồng tình với quan niệm lao động tạo ra thu nhập là trách nhiệm của
nam giới chiếm tới 92%, 68% ngƣời trả lời (NTL) không đồng tình với
quan niệm đây là trách nhiệm của phụ nữ.

Thứ hai, vai trò tái sản xuất
Vai trò tái sản xuất bao gồm trách nhiệm sinh đẻ hoặc nuôi con
và công việc nhà để duy trì và tái sản xuất sức lao động. Vai trò này
không chỉ bao gồm sự tái sản xuất sinh học (sinh con) mà còn có cả sự
chăm sóc, duy trì lực lƣợng lao động trong gia đình. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, 95,5% NTL đồng tình với quan niệm đây là công việc của phụ
nữ; trong khi tỷ lệ coi đó là công việc của nam giới chỉ chiếm 10%.
Trong gia đình dân tộc Ê Đê, dƣới tác động của phân công lao
động theo giới, vai trò và thân phận của ngƣời phụ nữ và ngƣời đàn
ông Ê Đê là khác nhau trong gia đình và xã hội. Trong gia đình ngƣời
phụ nữ có 2 vai trò nổi bật đó là tái sản xuất - ngƣời duy trì nòi giống
(sinh con và nuôi dạy con cái) và sản xuất (chủ yếu gắn với phạm vi gia
đình). Ngƣời đàn ông chỉ đóng vai trò sản xuất và vai trò cộng đồng.
Trong gia đình dân tộc Mông, trên 70% NTL đồng tình với quan
niệm công việc tái sản xuất là hoạt động của phụ nữ. Ngƣời phụ nữ có
trách nhiệm thu vén mọi công việc trong nhà (đó đƣợc coi là những
công việc nhẹ nhàng, thích hợp với phụ nữ): chăm sóc và dạy dỗ con
cái, sinh đẻ, chăm sóc ngƣời ốm,….

13


Thứ ba, vai trò cộng đồng
Trong hoạt động cộng đồng đƣợc phân chia thành hai nhóm việc:
tham gia các công việc trong cộng đồng và quản lý/lãnh đạo cộng đồng.
Đa số NTL đồng tình với việc nam giới lãnh đạo cộng đồng, còn phụ nữ
thích hợp với việc tham gia các hoạt động trong cộng đồng. Đối với dân
tộc Ê Đê, có sự phân chia rất rõ về phạm vi hoạt động của phụ nữ và nam
giới. Nam giới Ê Đê đảm nhiệm 2 vai trò chính: vai trò sản xuất và vai
trò cộng đồng, ngƣời đàn ông Ê Đê đƣợc quyền sử dụng của cải vật chất

do mình tạo ra cho gia đình nhà vợ để tăng thêm uy tín và quyền lực của
mình trong cộng đồng. Đối với dân tộc Mông, mặc dù không có một quy
định cụ thể nào về vai trò của phụ nữ và nam giới trong cộng đồng,
nhƣng cả cộng đồng đều hiểu một quy định bất thành văn đó là phạm vi
bên ngoài gia đình là phạm vi hoạt động của nam giới, phụ nữ chỉ đóng
vai trò phụ.
3.1.2. Nội dung xã hội hóa vai trò giới trong gia đình dân tộc
Ê Đê và dân tộc Mông
3.1.2.1. Nguyên tắc đặt tên theo giới tính
Kết quả khảo sát trên hai dân tộc Ê Đê và Mông cho thấy tỷ lệ NTL
cho biết tên con đƣợc đặt theo giới tính của đứa trẻ chiếm khá lớn. Những
tên gọi thể hiện đức tính mạnh mẽ, thể hiện hoài bão, mong ƣớc, các hiện
tƣợng thiên nhiên, tên các loài thú đƣợc sử dụng để đặt cho con trai; trong
khi đó tên con gái là những tên gọi thể hiện sự dịu dàng, nữ tính, có thể là
tên các loài hoa hoặc tên đồ trang sức.
3.1.2.2. Kỳ vọng về vị thế, tính cách và phẩm chất
Với đặc trƣng hôn nhân khác nhau, nên có sự khác biệt trong kỳ
vọng của gia đình về vai trò của phụ nữ và nam giới ở dân tộc Ê Đê và
Mông. Dân tộc Mông thuộc nhóm dân tộc theo phụ hệ, với hình thức
hôn nhân một vợ một chồng, vợ cƣ trú bên nhà chồng. Trong gia đình
ngƣời nam giới có toàn quyền, do đó tộc ngƣời kỳ vọng phần lớn ở
ngƣời nam giới. Nam giới đóng vai trò là trụ cột của gia đình, đƣợc xã
hội hóa để trở thành ngƣời chủ của gia đình. Trong khi đó, dân tộc Ê Đê
với đặc trƣng mẫu hệ điển hình, chế độ hôn nhân một vợ một chồng,
chồng cƣ trú bên nhà vợ, con cái mang họ mẹ. Trong gia đình ngƣời phụ
nữ là chủ, quyết định sản xuất, phân phối nguồn lực trong gia đình, điều
hành phong tục tập quán. Do đó với tộc ngƣời này, tâm lý thích con gái
là phổ biến, và con gái đƣợc xã hội hóa để trở thành ngƣời chủ gia đình
(Khoa Sang).


14


3.1.2.3. Ứng xử trong gia đình
Việc đề cao quan hệ trong gia đình theo chiều dọc khiến cho gia
đình truyền thống đặc biệt chú ý đến việc giáo dục tôn ti trật tự và thứ
bậc trong gia đình. Sự phân chia này căn cứ trên 3 yếu tố: thế hệ, lứa
tuổi và giới tính. Trong đó ông/bà, cha/mẹ, anh/chị là ngƣời trên, con/em
là kẻ dƣới. Trong gia đình phụ hệ, con trai đƣợc ƣu tiên hơn con gái,
chồng có quyền hơn vợ; trong gia đình mẫu hệ, con gái đƣợc ƣu tiên hơn
con trai, ngƣời phụ nữ có quyền uy ở trong gia đình. Ngay từ khi còn
nhỏ tuổi, trẻ em đã đƣợc dạy bảo để nhận biết những tôn ti, trật tự đó.
3.2. Phƣơng pháp xã hội hóa vai trò giới
3.2.1. Xã hội hóa thông qua lao động
Đây là phƣơng pháp phổ biến nhất, hết sức đƣợc coi trọng trong
gia đình. Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ em đã đƣợc các gia đình hƣớng dẫn
lao động và tham gia lao động phù hợp với sức lực của lứa tuổi. Thông
qua lao động, trẻ em đƣợc học hỏi và truyền đạt những kinh nghiệm sản
xuất, sự khéo léo trong nghề nghiệp, trong ứng xử. Phƣơng pháp xã hội
hóa qua lao động và bằng lao động một mặt đề cao giá trị lao động, một
mặt phân hóa rất rõ quan hệ sản xuất, vai trò của mỗi giới. Việc xã hội
hóa bằng hình thức cầm tay chỉ việc là hình thức đƣợc các gia đình Ê Đê
và Mông ƣa chuộng.
Để chắc chắn hơn nữa về mối quan hệ giữa sự phân công lao động
trong gia đình với quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em, chúng tôi tiến
hành nhóm các công việc trong gia đình thành các nhóm đặc trƣng: nhóm
công việc nội trợ; nhóm việc sửa chữa, sản xuất đồ dùng gia đình; nhóm
chăm sóc, giáo dục con cái; nhóm công việc cộng đồng. Kết quả cho thấy
có sự đồng nhất trong quan điểm của cả cha mẹ và con cái về các hoạt
động đƣợc xem là phù hợp với mỗi giới tính, điều này có nghĩa sự xã hội

hóa giới từ phía cha mẹ nhận đƣợc sự tiếp nhận chủ động và đồng tình từ
phía con cái. Điều này tạo thuận lợi cho việc duy trì các vai trò giới
trong phạm vi gia đình.
3.2.2. Xã hội hóa thông qua văn hóa truyền thống
Ngoài cách thức xã hội hóa thông qua lao động, trong cộng đồng
DTTS nói chung, dân tộc Mông và Ê Đê nói riêng còn thực hiện dạy dỗ
con cái trong gia đình bằng các biểu trƣng văn hóa truyền thống dân tộc
nhƣ Luật tục, ca dao, tục ngữ,..

15


Luật tục Ê Đê đề cập tới nhiều lĩnh vực khác nhau về đời sống
của tộc ngƣời Ê Đê nhƣ: sản xuất, quan hệ sở hữu, tổ chức xã hội,
quan hệ cộng đồng, hôn nhân, gia đình,… Ngƣời Mông luôn nhấn
mạnh vài trò dạy dỗ, bảo ban của cha mẹ đối với con cái. Những
quan niệm về vai trò dạy bảo của cha mẹ đối với con gái cũng đƣợc
thể hiện qua dân ca Mông
Tiểu kết chƣơng 3
Chƣơng 3 đã khái quát đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội của
nhóm khách thể nghiên cứu là dân tộc Ê Đê và dân tộc Mông. Mô tả quá
trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong các gia đình Ê Đê và Mông
biểu hiện trên khía cạnh quan niệm về vai trò giới, nội dung và phƣơng
pháp xã hội hóa vai trò giới.
Kết quả nghiên cứu cho thấy những định kiến về vai trò giới, về
trách nhiệm của phụ nữ và nam giới không chỉ tồn tại trong nhận thức
của nam giới, mà còn trong chính cả nhận thức của phụ nữ. Họ đƣợc dạy
dỗ và nuôi dƣỡng theo một hình mẫu chung giống với bà và mẹ của họ
trƣớc đây và đến lƣợt họ cũng sẽ tiếp tục dạy dỗ con cái của họ nhƣ vậy.
Theo tinh thần đó, đời ngƣời phụ nữ nhƣ một vòng tròn khép kín.

Chƣơng 4. MỘT SỐ Y U TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI
QU TRÌNH XÃ HỘI HÓA VAI TRÕ GIỚI Ở TRẺ EM
TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC Ê ĐÊ VÀ MÔNG
4.1. Đặc điểm hộ gia đình
4.1.1. Cấu trúc hộ gia đình
Đối với gia đình hạt nhân, có 2 thế hệ cha mẹ và con cái, trẻ em
chịu sự xã hội hóa trực tiếp từ cha mẹ của chúng. Đối với các gia đình
đa thế hệ, có từ 3 thế hệ trở lên cùng chung sống, đây là kiểu loại gia
đình phổ biến ở cộng đồng dân tộc theo chế độ mẫu hệ nhƣ dân tộc Ê
Đê. Trẻ em học hỏi các vai trò giới thông qua những thành viên sống
cùng trong gia đình, đó đƣợc coi là những tấm gƣơng phản chiếu hành vi
giới cho trẻ. Trẻ học tập dựa trên quá trình quan sát, bắt chƣớc hành vi
và tập thực hành hành vi phù hợp với giới tính. Trẻ trai học hỏi vai trò
giới từ ngƣời cha, ngƣời cậu (anh/em trai của mẹ), đặc biệt là từ ngƣời
cậu (trong các gia đình mẫu hệ) các kỹ năng lao động sản xuất, đan lát,

16


săn bắn, phát rẫy, làm nƣơng,…Trẻ gái học tập vai trò giới từ ngƣời bà,
ngƣời mẹ, ngƣời dì (chị/em gái của mẹ), trẻ học các kỹ năng thêu thùa,
nấu ăn, chăm sóc gia đình. Thông qua quá trình quan sát và bắt chƣớc
hành vi của các thành viên trong gia đình, trẻ em hình thành bản sắc
giới, chuẩn bị các vai trò giới trong tƣơng lai phù hợp với giới tính của
mình, đƣợc xã hội chấp nhận.
4.1.2. Điều kiện kinh tế
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt trong nhận định
về mức độ ảnh hƣởng của phân công lao động đến sự hình thành vai trò
giới ở trẻ em trong gia đình 2 dân tộc Mông và Ê Đê thuộc các nhóm
mức sống. Đa phần các hộ gia đình trong mẫu khảo sát thuộc mức sống

khá giả cho rằng sự phân công lao động trong gia đình có ảnh hƣởng tới
sự hình thành vai trò giới ở trẻ em, tỷ lệ này ở nhóm hộ có mức sống
trung bình là 59,8%, và ở nhóm hộ nghèo là 46,8%; điều cần nói ở đây
là số liệu khảo sát cũng cho thấy nhóm hộ trung bình và nhóm hộ nghèo
ít quan tâm đến sự phân công lao động này, thể hiện ở tỷ lệ hộ cho rằng
mức độ ảnh hƣởng của sự phân công lao động đến sự hình thành vai trò
giới ở trẻ em là ít hoặc thậm chí là không ảnh hƣởng (chiếm từ 32% đến
36%); có thể nguyên nhân của sự đánh giá này là do ở các hộ có mức
sống trung bình và nghèo thì hầu hết các thành viên trong gia đình đều
phải tham gia vào quá trình lao động tạo ra thu nhập cho gia đình, nên
họ ít quan tâm đến ý nghĩa của sự phân công lao động. nhau. Ở cả 2 dân
tộc, độ tuổi trẻ em tham gia công việc gia đình từ khá sớm, với những
công việc phụ giúp bố mẹ trong gia đình, các e bắt đầu tham gia khi
bƣớc vào tuổi thứ 6-7, còn các công việc sản xuất, các em bắt đầu tham
gia ở độ tuổi 12-13.
4.1.3. Nơi cư trú
So với trẻ em sống ở khu vực thành thị, quá trình xã hội hóa vai
trò giới ở trẻ em DTTS diễn ra sớm hơn. Cụ thể với vai trò sản xuất, trẻ
em DTTS ở độ tuổi 13 tuổi đã đƣợc coi nhƣ lao động chính trong gia
đình; từ 8 -12 tuổi đƣợc coi là lao động phụ, giúp trông nom việc nhà,
chăn thả gia súc, gia cầm hoặc phụ giúp các công việc gieo trồng, thu
hoạch; dƣới 8 tuổi các em làm các công việc nhà phụ giúp bố mẹ: lấy
củi, lấy nƣớc, trông em, nấu cơm, dọn nhà,…

17


4.2. Đặc điểm của cha mẹ
4.2.1. Trình độ học vấn
Kiểm định tƣơng quan giữa các nhóm học vấn với quan niệm về

khuôn mẫu giới cho thấy không có mối liên hệ giữa hai biến số này
(p>0,05). Nhƣ vậy có nghĩa ở bất kỳ nhóm học vấn nào, các bậc cha mẹ
cũng bị ảnh hƣởng bởi nhãn giá trị giới theo chuẩn mực chung của xã
hội gán cho mỗi giới. Tuy nhiên có sự khác biệt trong quan niệm về
khuôn mẫu giới giữa 2 nhóm dân tộc. Theo đó dân tộc Ê Đê đề cao vị
thế trụ cột gia đình đối với con gái; dân tộc Mông đề cao vị thế trụ cột
gia đình đối với con trai.
Về cách thức xã hội hóa, kiểm định Chi-Square cho thấy không đủ căn
cứ khẳng định có mối liên hệ giữa học vấn của cha mẹ với cách thức xã
hội hóa (p>0,05). Cách thức đƣợc đa số các bậc cha mẹ sử dụng để xã
hội hóa giới là làm mẫu cho con làm theo và vừa làm vừa chỉ cho con
cách làm. Có thể thấy rõ ràng, dù ở nhóm học vấn nào các bậc cha mẹ
ngƣời dân tộc Ê Đê và dân tộc Mông đều có quan niệm nhƣ nhau về vai
trò của mỗi giới, và trên cơ sở đó họ lựa chọn cùng cách thức để xã hội
hóa giới cho cái mình.
4.2.2. Nghề nghiệp
Kiểm định Chi-Square cho thấy có mối liên hệ giữa nghề nghiệp
của bố mẹ ngƣời dân tộc Mông với kỳ vọng vị thế của con cái. Trong
nhóm cha mẹ làm nông nghiệp, đa số đều kỳ vọng con trai sẽ làm trụ cột
gia đình (93,8%), và không đồng tình với việc con gái là trụ cột (58,8%),
trong khi đó nhóm cha mẹ làm thuê thì có tới 70,0% đồng tình với việc
con gái là trụ cột gia đình (p<0,05). Không có mối liên hệ giữa nghề
nghiệp của các bậc cha mẹ ngƣời dân tộc Ê Đê với quan niệm về vai trò
trụ cột gia đình. Ở bất cứ nhóm nghề nghiệp nào, trong cộng đồng dân
tộc Ê Đê, con gái luôn có vai trò, vị trí quan trọng hơn con trai. Đây là
đặc trƣng của chế độ Mẫu hệ, thể hiện tính mẫu quyền trong cộng đồng
dân tộc này.
So sánh sự khác biệt giữa các nhóm nghề nghiệp với cách thức xã
hội hóa vai trò giới ở 2 dân tộc cho thấy không có khác biệt mang ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Tuy nhiên, các bậc cha mẹ ngƣời dân tộc Mông

làm nông nghiệp cho rằng sự PCLĐ trong gia đình có ảnh hƣởng rất
nhiều đến sự hình thành vai trò giới ở trẻ em sau này, trong khi đó các
bậc cha mẹ ở nhóm nghề làm thuê thì không quan tâm lắm đến việc này.

18


Kết quả nghiên cứu cho thấy: (1) Ở dân tộc Mông: có mối liên hệ
giữa độ tuổi tham gia công việc sản xuất và công việc tái sản xuất của trẻ
em trong các gia đình với nghề nghiệp của cha mẹ (p<0,05); (2) Ở dân
tộc Ê Đê: Kiểm định Chi-Square cho thấy không có mối liên hệ nào giữa
2 nhân tố này.
4.2.3. Tuổi
Dù ở nhóm tuổi nào thì mức độ đồng tình hoặc không đồng tình
với các nhóm quan niệm khác nhau về vai trò giới có sự chênh lệch
không đáng kể. So sánh kỳ vọng con cái là trụ cột gia đình giữa các
nhóm tuổi cho thấy không có sự chênh lệch nhiều giữa các nhóm tuổi về
kỳ vọng con trai là trụ cột gia đình, ở nhóm dân tộc Mông ĐTB thể hiện
mức độ đồng tình cao; ở nhóm dân tộc Ê Đê mức độ đồng tình thể hiện
thấp hơn so với dân tộc Mông, do yếu tố Mẫu hệ chi phối. Ngƣợc lại ở
kỳ vọng con gái là trụ cột gia đình, mức độ đồng tình cao ở nhóm dân
tộc Ê Đê, thấp hơn ở nhóm dân tộc Mông, tuy nhiên không có sự chênh
lệch nhiều giữa các nhóm tuổi.
Khi kiểm định mối liên hệ giữa độ tuổi của các bậc cha mẹ với
phƣơng pháp xã hội hóa giới cho trẻ em mà họ sử dụng không cho thấy
có mối liên hệ nào đáng tin cậy (Kiểm định Chi-Square p>0,05). Nhƣ
vậy có nghĩa, dù ở độ tuổi nào thì các bậc cha mẹ ngƣời dân tộc Mông
và dân tộc Ê Đê cũng đều sử dụng phƣơng pháp xã hội hóa truyền thống
là xã hội hóa thông qua lao động.
4.3. Đặc điểm văn hóa - xã hội

4.3.1. Yếu tố phong tục tập quán
Kết quả thảo luận nhóm tập trung và các cuộc phỏng vấn sâu đều
chỉ ra rằng bên cạnh yếu tố sinh học tự nhiên, yếu tố phong tục tập quán
là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới quá trình xã hội hóa
vai trò giới ở trẻ em trong gia đình DTTS.
Quan niệm truyền thống về nghề nghiệp một mặt đề cao giá trị lao
động, một mặt phân hóa rất rõ quan hệ sản xuất, vai trò của mỗi giới. Đã
là con trai thì phải biết làm nƣơng, đã là con gái thì phải biết làm lanh,
xe sợi, dệt vải. Những định kiến và tƣ duy lâu đời này dần bồi tụ thành
phông nền văn hóa, thành truyền thống dân tộc, thành “cái lý” mà trai
gái DTTS phải tuân theo.

19


4.3.2. Hiện tượng kết hôn sớm và hôn nhân cận huyết thống
Chính tập quán này đã giải thích cho lý do vì sao trẻ em DTTS
thƣờng đƣợc giáo dục các vai trò sản xuất và vai trò tái sản xuất từ rất
sớm. Theo truyền thống, từ 6 - 8 tuổi, trẻ em đã tập làm quen với các
công việc nhà: nấu cơm, dọn nhà, trông em, lấy nƣớc, lấy củi,…Từ 9 12 tuổi, trẻ em bắt đầu học các kỹ năng lao động sản xuất, trẻ em gái học
cách phân biệt các loại rau rừng, cây thuốc trong rừng, học cách trồng
lanh, xe lanh, dệt vải, thêu thùa, in sáp ong,…, trẻ em trai học cách đan
lát, học phát nƣơng, làm rẫy, học cách rèn đúc công cụ lao động,… Từ
13 tuổi trở lên các em đƣợc coi nhƣ lao động chính trong gia đình, cùng
với cha mẹ lao động tạo ra của cải vật chất. Trẻ em gái bắt đầu học cách
lựa chọn bạn đời và những ứng xử trong hôn nhân từ ngƣời bà và ngƣời
mẹ của mình để chuẩn bị cho cuộc sống gia đình. Và ở độ tuổi này, trẻ
em đƣợc coi nhƣ đã trƣởng thành ở cả phƣơng diện thể chất và tinh thần,
có nghĩa là có thể làm mẹ, làm cha.
4.3.3. Chuẩn mực giới và vai trò giới

Trong cộng đồng DTTS nói chung, nhìn từ góc độ của ngƣời
DTTS về sự bình đẳng trong công việc, việc ai làm gì xuất phát từ quan
niệm giúp đỡ lẫn nhau, ai khỏe hơn thì làm việc nặng hơn, ai làm việc gì
tốt hơn thì sẽ làm việc đó. Vai trò của các thành viên trong gia đình phụ
thuộc lẫn nha, vai trò ngƣời này sẽ giúp ngƣời kia hoàn thành vai trò
khác, Sự chia sẻ công việc ở đây không phải xuất phát từ nhận thức về
quyền của giới nào, mà gắn với một mục tiêu chung để duy trì cuộc
sống, để cùng tồn tại.
Trong cách xã hội hóa vai trò giới, ngƣời DTTS thích thuận theo
lẽ thường, theo một chuẩn mực giới đã thấm sâu vào tiềm thức của nhiều
thế hệ. Nó là một vòng tròn khép kín về chu trình hình thành bản sắc giới
và vai trò giới. Ở đó những ngƣời bà, ngƣời mẹ truyền dạy cho con gái,
cháu gái mình những kỹ năng cần thiết, những phẩm chất để trở thành một
ngƣời phụ nữ của gia đình. Những ngƣời đàn ông, ngƣời ông, ngƣời cha,
ngƣời cậu truyền dạy cho con trai, cháu trai của mình những vai trò là
ngƣời trụ cột của gia đình, là lao động chính, có trách nhiệm nuôi sống gia
đình, giao tiếp với cộng đồng và duy trì thế lực của dòng họ.

20


Tiểu kết chƣơng 4
Chƣơng 4 phân tích các yếu tố ảnh hƣởng tới quá trình xã hội hóa
vai trò giới ở trẻ em trong gia đình dân tộc Ê Đê và dân tộc Mông cho
kết quả nhƣ sau:
Các yếu tố thuộc đặc điểm hộ gia đình
Về cấu trúc hộ gia đình, kết quả khảo sát cho thấy quy mô hộ gia
đình có ảnh hƣởng đến quá trình xã hội hóa giới ở trẻ em. Về điều kiện
kinh tế gia đình, xét ở mức độ ảnh hƣởng chung nhất đối với quá trình
xã hội hóa giới ở trẻ em cho thấy không có sự khác biệt nhiều giữa các

nhóm gia đình thuộc mức sống khác nhau. Tuy nhiên, có sự chênh lệch
trong việc đánh giá mức độ ảnh hƣởng của cách thức xã hội hóa giới ở
trẻ em giữa nhóm gia đình có mức sống khá giả với nhóm có mức sống
trung bình và nghèo.
Các yếu tố thuộc đặc điểm của cha mẹ
Các yếu tố này gồm có học vấn, nghề nghiệp, độ tuổi. Kết quả
nghiên cứu cho thấy không có sự chênh lệch nhiều giữa các nhóm cha mẹ
này ở cả 2 dân tộc. Dù thuộc nhóm nghề nghiệp, độ tuổi, học vấn nào, các
bậc cha mẹ ngƣời dân tộc Ê Đê và dân tộc Mông cũng đều hƣớng các con
của họ theo những chuẩn mực giới truyền thống, họ lựa chọn cách thức xã
hội hóa giới thông qua lao động và bằng hoạt động lao động. Trẻ em trong
các gia đình đƣợc tiếp cận từ sớm (dƣới 9 tuổi) với các hoạt động lao động
trong phạm vi gia đình nhƣ phụ giúp cha mẹ việc nhà. Từ trên 9 tuổi các
em bắt đầu tham gia công việc sản xuất, phụ giúp cha mẹ trên nƣơng rẫy.
Các yếu tố văn hóa - xã hội
Yếu tố văn hóa - xã hội đƣợc xét đến trong luận án này gồm tập
quán kết hôn sớm và chuẩn mực vai trò giới của cộng đồng. Kết quả
nghiên cứu định tính cho thấy, việc trẻ em DTTS tham gia các công việc
trong gia đình từ khá sớm, ngoài mục đích hỗ trợ giúp đỡ cha mẹ thì bên
cạnh đó là việc chuẩn bị hành trang cho cuộc sống gia đình trong tƣơng lai
bởi độ tuổi kết hôn ở các tộc ngƣời đƣợc khảo sát là khá sớm. Hiện tƣợng
tảo hôn, kết hôn sớm và hôn nhân cận huyết vẫn còn phổ biến trong cộng
đồng Mông. Và trong cách xã hội hóa vai trò giới, ngƣời DTTS thích
thuận theo lẽ thường, theo một chuẩn mực giới đã thấm sâu vào tiềm
thức của nhiều thế hệ. Nó là một vòng tròn khép kín về chu trình hình
thành bản sắc giới và vai trò giới.

21



K T U N
Qua nghiên cứu về quá trình xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em trong
gia đình dân tộc Ê Đê và dân tộc Mông, với quy mô mẫu là 200 hộ gia
đình tại 2 tỉnh là Hà Giang và Đắk Lắk, những kết luận đƣợc rút ra từ
nghiên cứu này chỉ đúng với cỡ mẫu nghiên cứu, có giá trị tham khảo, góp
phần bổ sung vào các nghiên cứu về giới, không mang tính suy rộng hay
đại diện cho các gia đình thuộc 2 dân tộc này tại các địa phƣơng khác.
Chúng tôi rút ra một số kết luận nhƣ sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu về giới nói chung ít đề cập rõ ràng
đến quá trình xã hội hóa vai trò giới ở nhóm DTTS. Chủ yếu đề cập đến
sự phân công lao động theo giới, mối quan hệ giới hay sự bất bình đẳng
giới. Hoặc chỉ nghiên cứu một cách chung chung về quá trình xã hội hóa
giới ở trẻ em sống tại khu vực thành thị hoặc vùng phụ cận thành thị.
1.2. Kết quả nghiên cứu góp phần khẳng định lý thuyết xã hội hoá
cũng nhƣ cách tiếp cận xã hội hoá về giới, lý thuyết cấu trúc chức năng,
lý thuyết tƣơng tác biểu trƣng, thuyết nữ quyền trong nghiên cứu về giới,
đó là trẻ em học hỏi các vai trò giới qua các khuôn mẫu hành vi của
ngƣời lớn trong gia đình. Sự phân công lao động theo giới trong gia đình
dân tộc Mông (chế độ phụ hệ) và dân tộc Ê Đê (chế độ Mẫu hệ), đƣợc
xem nhƣ điều kiện tiên quyết cho sự ổn định của gia đình và từ đó dẫn
tới sự ổn định của xã hội. Trong cấu trúc xã hội này, phụ nữ và nam giới
thực hiện tốt các chức năng của mình, phụ nữ sẽ hoạt động chủ yếu trong
phạm vi gia đình, còn nam giới là cầu nối giữa gia đình và xã hội. Các
yếu tố nhƣ cấu trúc hộ gia đình, phong tục tập quán truyền thống đƣợc
khẳng định có ảnh hƣởng trong việc xã hội hóa vai trò giới ở trẻ em. Trẻ
em với tƣ cách là sản phẩm kế tục nòi giống của gia đình, dòng họ; là
thành viên của cộng đồng xã hội buộc phải có những hành vi ứng xử nhƣ
thế nào đƣợc cho là phù hợp với chuẩn mực giới mà gia đình và xã hội
kỳ vọng. Khẳng định cách tiếp cận nữ quyền khi nghiên cứu về các vai
trò giới, cho thấy sự phân công lao động theo giới trong các gia đình có

nguồn gốc từ sự khác biệt giới tính và các chức năng sinh học giữa phụ
nữ và nam giới.
1.3. Hiện nay, quan niệm của các hộ gia đình Ê Đê và Mông nói
chung có sự thay đổi về trách nhiệm của phụ nữ và nam giới trong đời
sống gia đình, cụ thể là trong hoạt động sản xuất và tái sản xuất. Họ

22


×