Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

MÔĐUN 18 phương pháp dạy học tích cực BDTX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.96 KB, 6 trang )

MÔĐUN 18. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
A. LÍ DO CHỌN MÔĐUN:
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự thách thức của quá trình
hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải có nguồn nhân lực, người lao động có đủ
phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn mới. Người lao
động phải có khả năng thích ứng, khả năng thu nhận và vận dụng linh hoạt, sáng tạo
tri thức của nhân loại vào điều kiện hoàn cảnh thực tế, tạo ra những sản phẩm đáp
ứng yêu cầu của xã hội.
Để có nguồn nhân lực trên, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới giáo dục, trong đó có
đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung giáo dục và phương pháp dạy và học.
Định hướng đổi mới PPD&H đã được xác định trong Nghị Quyết Trung ương 4
khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12- 1996) và được thể chế
hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi ban hành ngày 27/6/2005, điều 2.4, đã ghi “Phương
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học; Bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say
mê học tập và ý chí vươn lên”.
B. NỘI DUNG MÔĐUN:
I . DẠY HỌC TÍCH CỰC:
1. Dạy học tích cực
Dạy họ tích cực là sự kết hợp linh hoạt nhiều PPDH phù hợp với nội dung, trình
độ nhận thức của HS và điều kiện thực tế để đạt được mục tiêu của bài học.
Dạy học tích cực là phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh (HS)
có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền
thụ một chiều “đọc- chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm
trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực (D&HTC). Trong cách dạy này
học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo
nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. D&HTC là điều kiện tốt
khuyến khích sự tham gia chủ động, sáng tạo và ngày càng độc lập của học sinh vào
quá trình học tập.
2. Dấu hiệu đặc trưng của dạy học tích cực:
2.1. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh:


Trong D&HTC, người học được cuốn hút tham gia vào các hoạt động học tập
do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó, tự lực khám phá, tìm tòi kiến thức không


thụ động trông chờ vào việc truyền thụ của giáo viên. Người học được hoạt động,
được trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề, vận dụng kiến
thức vào thực tế cuộc sống theo khả năng nhận thức, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân.
2.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học:
D&HTC xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là
một biện pháp nâng cao hiệu quả học tập mà còn là một mục tiêu dạy học.
Trong PP học thì cốt lõi là PP tự học, điều quan trọng là phải giúp người học
biết cách khai thác, lựa chọn tìm kiếm thông tin bằng cách hình thành thói quen tự
học, tự nghiên cứu. Khi người học có phương pháp, thói quen, ý chí tự học thì sẽ
ham học, thích học, đó là điều kiện tốt để khơi dậy nội lực, khả năng vốn có của mỗi
cá nhân, kết quả học tập sẽ nâng cao.
2.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác:
Trong một lớp học, trình độ kiến thức, khả năng tư duy của học sinh không
đồng đều vì vậy không thể áp dụng cách dạy đồng loạt. Cách dạy này hạn chế khả
năng nhận thức của học sinh. HS khá giỏi không có điều kiện để phát triển. HS yếu
kém cũng không có cơ hội để vươn lên.
Để phát huy tính tích cực của người học đòi hỏi phải có sự phân hóa về trình
độ, cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập. Cần tăng cường cá thể hoá hoạt
động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.
Tuy vậy, lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan
hệ hợp tác giữa các cá nhân trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.Thông qua thảo
luận, tranh luận trong nhóm, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ và được chia sẻ. HS
không chỉ có điều kiện học tập với nhau mà còn học tập lẫn nhau.
Dạy học thông qua hợp tác nhóm tạo nên mối quan hệ tương tác giữa trò với
trò, giữa thày với trò, tạo nên sự bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên và tạo

nên môi trường học tập an toàn. Học tập hợp tác theo nhóm còn phát triển ở HS kỹ
năng tổ chức, kỹ năng điều khiển và lãnh đạo. Thông qua đó hình thành ở HS những
phẩm chất của người lao động mới.
2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò:
Trong dạy - học, việc đánh giá HS không chỉ nhằm mục đích nhận định kết quả
thực trạng và để điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời nhận định kết
quả thực trạng và để điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.


Trong dạy học thụ động, GV giữ độc quyền đánh giá HS. Trong D&HTC, học
sinh được tạo điều kiện phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau để điều
chỉnh cách học. Tự đánh giá và tự điều chỉnh hành vi, hoạt động kịp thời là năng lực
rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho HS.
Để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì
việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại
các kỹ năng đã học mà cần khuyến khích phát triển trí thông minh, óc sáng tạo trong
việc giải quyết những tình huống thực tế.
Thông qua việc đánh giá, học sinh không chỉ được rèn luyện kĩ năng xem xét,
phân tích vấn đề mà trên cơ sở đó tự điều chỉnh cách học, điều chỉnh hành vi phù
hợp.
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
1 . Một số phương pháp dạy học tích cực:
1.1. Phương pháp vấn đáp
1.2. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
1.3. Phương pháp hoạt động nhóm
1.4. Phương pháp đóng vai
1.5. Phương pháp động não
2. Một số kĩ thuật dạy học tích cực:
2.1. Kĩ thuật chia nhóm
phút”

2.2. Kĩ thuật giao nhiệm vụ
em biết 3”
2.3. Kĩ thuật đặt câu hỏi

2.9. Kĩ thuật “ Trình bày 1
2. 10. Kĩ thuật “Chúng
2.11. Kĩ thuật “ Hỏi và trả lời”

2.4. Kĩ thuật “khăn trải bàn”
Chuyên gia”

2.12.



thuật

“Hỏi

2.5. Kĩ thuật “phòng tranh”
Tư duy”

2.13. Kĩ thuật “Lược đồ

2.6 . Kĩ thuật “công đoạn”

2.14. Kĩ thuật “Viết tích cực”

2.7. Kĩ thuật “các mảnh ghép”


2.15. Phân tích phim Video

2.8. Kĩ thuật động não:
III. KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG DẠY VÀ HỌC MÔN VĂN:


1. Kĩ thuật đặt câu hỏi:
Trong quá trình giảng dạy, hệ thống câu hỏi của GV giữ một vai trò rất quan trọng ,
nhằm định hướng, dẫn dắt cho HS từng bước phát hiện ra bản chất sự việc, quy luật
hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, khả năng khám phá.
Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Liên quan đến việc thực hiện MT bài học , ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu; đúng lúc,
đúng chỗ; phù hợp với trình độ HS; kích thích suy nghĩ của HS; phù hợp với thời
gian thực tế; sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; không
ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích; không hỏi nhiều vấn đề cùng một
lúc.
Có 2 cách đặt câu hỏi cho HS: dạng câu hỏi đóng và dạng câu hỏi mở.
Câu hỏi đóng thường hàm ý câu trả lời. HS trả lời đơn giản, không cần tư duy nhiều.
Câu hỏi mở tạo cho HS nêu được ý kiến của cá nhân, phải tư duy mới tìm được câu
trả lời đúng và có sức thuyết phục. Dạng câu hỏi này sử dụng nhiều trong PPDH tích
cực.
Ví dụ: Khi dạy bài “Sóng” của Xuân Quỳnh, thay vì GV hỏi: “Bài thơ được viết
theo thể thơ gì? có từ ngữ nào được lặp lại không?” (câu hỏi đóng) thì GV nên hỏi:
“Anh chị có nhận xét gì về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ Sóng? Âm điệu, nhịp điệu
đó được tạo nên bởi những yếu tố nào?” (câu hỏi mở).
2. Kĩ thuật “các mảnh ghép”:
2.1. Mục đích: - Nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp.
- Kích thích sự tham gia tích cực của HS.
2.2. Cách thức tiến hành:
Vòng 1:

- Hoạt động theo nhóm 3 hoặc 4 người.
- Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ.
- Đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong
nhiệm vụ được giao.
- Mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm.
Vòng 2:
- Hình thành nhóm 3 hoặc 4 người mới (1 người từ nhóm 1, 1 người từ nhóm 2, 1
người từ nhóm 3...).


- Các câu trả lời và thông tin ở vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ
với nhau.
- Sau khi chia sẻ thông tin vòng 1, nhiệm vụ mới được giao cho nhóm mới để giải
quyết.
- Các nhóm mới trình bày, chia sẻ kết quả nhiệm vụ ở vòng 2.
Ví dụ: Áp dụng kĩ thuật “các mảnh ghép” khi dạy bài “Đặc điểm của ngôn ngữ nói
và ngôn ngữ viết” (Ngữ văn 10 – tập 1).
GV chia lớp thành 3 nhóm làm việc tại 3 góc:
Nhóm 1 lập bảng so sánh ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết theo các tiêu chí: phương
tiện ngôn ngữ; tình huống giao tiếp; phương tiện phụ trợ; từ ngữ, câu văn.
Nhóm 2 làm các bài tập 1,2 trong SGK.
Nhóm 3 tìm các ví dụ về ngôn ngữ nói và viết trong văn học và đời sống.
Sau một thời gian làm việc khoảng 15 phút, các nhóm HS sẽ hoán đổi vị trí theo
chiều kim đồng hồ để trải nghiệm các nhiệm vụ (15 phút).
Cuối cùng đại diện các nhóm sẽ trình bày hiểu biết của mình về ngôn ngữ nói và
viết.
3. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”:
Mục đích:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của HS.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS.

- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS.
3.2. Cách tiến hành kĩ thuật “khăn phủ bàn”:
- Hoạt động theo nhóm (4 người/nhóm).
- Mỗi người ngồi vào vị trí ở 4 phía.
- Tập trung vào câu hỏi hoặc chủ đề.
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, viết vào ô ý kiến cá nhân
của mình về vấn đề được hỏi.
- Khi mọi người đều viết xong, chia sẻ và thảo luận câu trả lời.
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn phủ bàn.


Ví dụ: Vận dụng kĩ thuật này vào dạy trích đoạn “Người cầm quyền khôi phục uy
quyền” (Ngữ văn 11), GV nêu vấn đề: “Ai là người cầm quyền khôi phục uy
quyền”? Mạch cảm hứng chủ đạo của đoạn trích là gì?
HS sẽ viết ý kiến cá nhân: có HS cho rằng Gia – ve là “người cầm quyền” bởi
hắn đại diện cho pháp luật lúc bấy giờ. Bấy lâu nay, hắn vẫn phục tùng ông thị
trưởng Ma- đơ- len nhưng kể từ khi Ma- đơ- len tự thú, trở về với tên họ thật là 1
người tù khổ sai thì cũng là lúc tên mật thám Gia-ve “khôi phục” quyền hành của
hắn.
Tuy nhiên, sẽ có HS nghĩ khác: Giăng – Van – Giăng mới chính là “người cầm
quyền khôi phục uy quyền” bởi lúc đầu tên thanh tra rất hống hách nhưng rồi hắn
“run sợ”, nem nép nghe theo Giăng-Van-Giăng. Ban đầu Giăng-Van-Giăng nhún
nhường nhưng càng ngày ông càng lấy lại uy thế và sức mạnh của mình trước Giave.
Từ các ý kiến cá nhân, cả nhóm sẽ thống nhất: đặt trong phạm vi trích đoạn, ý
kiến thứ hai thuyết phục hơn. ..
C. KẾT LUẬN: Trên đây một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực
chúng ta có thể vận dụng trong các bài dạy của mình sao cho đạt hiệu quả cao. Sử
dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học tích cực trong một giờ dạy một cách thích
hợp sẽ đem lại hiệu quả mong muốn. Học sinh không chỉ hứng thú với tiết học, tiếp
thu bài nhanh hơn mà còn có cơ hội thể hiện sự hiểu biết, khả năng tư duy, nói trước

đám đông, phát triển kỹ năng... Đó là mục tiêu của dạy học hiện đại.



×