Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Luận văn tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.96 KB, 31 trang )

1
MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Tên đề mục
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
a. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
b. Phạm vị và phương pháp nghiên cứu
3. Kết cấu đề tài
Chương I: Những vấn đề chung
1.1. Khái quát chung về tình hình xã Đông Phong
1.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội xã

10
11

Đông Phong
1.1.2. Cơ cấu tổ chức xã Đông Phong
1.2. Lý luận chung về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công


12

chức xã Đông Phong
1.2.1. Khía niệm cơ bản về cán bộ, công chức và đào tạo,

13
14

bồi dưỡng
1.2.2. Vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
1.3. Mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo cán bộ, công

15

chức cấp xã
1.4. Tiêu chí đánh giá đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

16

chức cấp xã
1.5. Quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp

17


1.6. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc đào tạo, bồi dưỡng

18

cán bộ, công chức cấp cấp cơ sở.

Chương II: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

19

chức cấp cơ sở tại xã Đông Phong.
2.1. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại

20
21
22

xã Đông Phong
2.1.1. Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
2.1.2. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
2.1.3. Tổ chức triển khai kê hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán

23

bộ, công chức xã Đông Phong
2.2. Đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức tại xã Đông Phong

Số trang


24
25
26
27


2
2.2.1. Những thành tự đạt được
2.2.2. Những tồn tại hạn chế
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào

28

tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức tại xã Đông Phong
3.1. Sự cần thiết phải nầng cao chất lượng đào tạo, bồi

29

dưỡng cán bộ, công chức tại xã Đông Phong
3.2. Một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng đào

30

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại xã Đông Phong
Danh sách tài liệu tham khảo


3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân, trong giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất là
xây dựng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức. Trong đó có vấn đề đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã cần được quan tâm nghiên cứu cả về lý

luận và tổng kết thực tiễn.
Theo Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá IX, hệ thống chính trị ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) có vai trò quan trọng
trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp
luật của nhà nước. Thực tế hiện nay chất lượng của đội ngũ CBCC của hệ
thống chính trị ở cơ sở còn nhiều hạn chế ít được đào tạo, bồi dưỡng. Để đáp
ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới cần phải đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó xây dựng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ có ý nghĩa quyết định.
Chính vì vậy, pháp lệnh sữa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh cán
bộ, công chức (năm 2003) đã qui định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
các chức danh, chức vụ trong hệ thống chính trị ở cơ sở được cụ thể hoá theo
Nghị định số: 114/2003/NĐ -CP, Ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn. Từ đó, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói
chung và CBCC cấp xã cơ sở trở thành một nhiệm vụ trước mắt cấp bách vừa là
nhiệm vụ thường xuyên lâu dài.
Nhận thức tầm quan trọng đó trong thời gian qua, các địa phương trong
cả nước đã triển khai thực hiện Quyết định số 874/1996/QĐ - TTg và Quyết
định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 07/05/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 20012005. Thực hiện tiếp theo là Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức giai đoạn 2006-2010. Do vậy phần lớn đội ngũ cán bộ các cấp, và CBCC
cấp xã từng bước được trang bị kiến thức lý luận chính trị, nhà nước pháp luật
và quản lý hành chính. Họ đã cùng với nhân dân tạo nên những thành tựu
trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần làm thay đổi rõ rệt bộ mặt
thành thị và nông thôn ở nước ta.
Tuy nhiên, những hạn chế lâu nay về công tác CBCC vẫn chưa được
khắc phục như Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ ba, ĐCSVN khoá VIII
đánh giá “Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình trạng
“Vừa thừa vừa thiếu”. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa

đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới" [13, tr.68]; “Công tác đào tạo, bồi
dưỡng chưa gắng với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ. Chất


4
lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp. Nội dung chương trình và phương pháp
đào tạo, cán bộ chậm đổi mới, chưa gắn với tổng kết thực tiễn của công cuộc
đổi mới;..." [13, tr.71].
Thời gian qua Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình rất quan tâm
đến công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC tỉnh nhà. Nhưng nhìn chung đội ngũ
CBCC cấp xã, xét về tiêu chuẩn, trình độ được đào tạo, bồi dưỡng chỉ đáp
ứng được một phần nào nhưng còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm, đào tạo,
bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý hành chính nhà nước
và trình độ LLCT. Hiện nay, đại đa số CBCC cấp xã làm việc theo kinh
nghiệm thực tiễn, thói quen, vì vậy, trong quá trình thực thi công việc gặp
nhiều khó khăn, nhất là những sự việc nhạy cảm như đất đai, chế độ chính
sách, dân tộc, tôn giáo…
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra. Tôi chọn đề tài:
“Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã Đông Phong – H. Cao Phong –
T. Hòa Bình” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực CBCC nói chung và
CBCC dân tộc nói riêng từ trước đến nay đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu và đây cũng là lĩnh vực được chọn làm đề tài của luận án tiến
sĩ và luận văn thạc sỹ triết học và luật học. Có thể đưa ra một số công trình,
đề tài và bài viết tiêu biểu của các tác giả có liên quan đến đề tài nghiên cứu
của luận văn này.
- Luận văn tiến sỹ Hồ Văn Thâm: Nâng cao năng lực tư duy của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (Bảo vệ tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996).

- Luận văn thạc sỹ Trần Ngọc Điệp: Đào tạo cán bộ, công chức của tỉnh
Cần Thơ (Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1999).
- Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ): Chính quyền xã
và quản lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Luận văn thạc sỹ Vy Văn Vũ: Vấn đề quy hoạch đào tạo và sử dụng
đội ngũ cán bộ, công chức quản lý kinh tế của tỉnh Đồng Nai (Bảo vệ tại Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000).
- Lê Chi Mai: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề
và giải pháp (Tạp chí Cộng sản số 20/2002).
- Lê Thị Vân Hạnh: Đào tạo, bồi dưỡng công chức để nâng cao năng
lực thực thi (Tạp chí quản lý nhà nước số 103/2004).
Các công trình và các bài viết trên đã đề cập nhiều đến việc xây dựng
đội ngũ cán bộ cấp xã và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã.


5
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào đề cập nghiên cứu đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã, đặc biệt là xã Đông
Phong thuộc huyện Cao Phong tỉnh Hòa Bình một xã vùng cao có tỉ lệ người
dân tộc chiếm đa số. Đồng thời những kết quả nghiên cứu thể hiện trong các
công trình nêu trên cần được phát triển vận dụng khi nghiên cứu đề tài này.
a. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Mục đích của luận văn
+ Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về CBCC nói chung và CBCC
cấp xã nói riêng.
+ Xác định những vấn đề lý luận về đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói
chung và đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã.
+ Nhận diện các yếu tố đặc thù ảnh hưởng đến việc đào tạo, bồi dưỡng
CBCC cấp xã.
+ Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC
xã Đông Phong đề xuất phương hướng giải pháp tăng cường đào tạo, bồi

dưỡng CBCC tại xã.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã Đông Phong
trên cơ sở đó làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò CBCC xã khái niệm, đặc
điểm, nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã và những yêu cầu có tính
tất yếu khách quan của việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã Đông Phong.
- Phân tích thực trạng đội ngũ CBCC và công tác đào tạo, bồi dưỡng
CBCC xã Đông Phong. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tìm ra các nhân tố có tính
tích cực thúc đẩy; các nhân tố có tính "rào cản" tiến trình đào tạo, bồi dưỡng
CBCC xã và đánh giá được ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân ưu điểm, hạn chế của
công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã Đông Phong.
- Trên cơ sở lý luận và thực trạng đội ngũ CBCC và công tác đào tạo, bồi
dưỡng CBCC xã Đông Phong, đưa ra những quan điểm và giải pháp có tính đặc
thù để thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã lĐông Phong trong thời
gian tới.
b. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đội ngũ CBCC trong hệ thống chính trị xã Đông Phong bao gồm: cán
bộ chuyên trách, công chức chuyên môn CBCC không chuyên trách cấp xã,
người trong quy hoạch dự kiến tạo nguồn cho các chức danh cấp xã.
+ Phạm vi không gian: xã Đông Phong.


6
+ Về đánh giá thực trạng đội ngũ CBCC cấp xã chỉ giới hạn trong
phạm vi thời gian: 2014 đến hết năm 2017.
- phương pháp nghiên cứu của luận văn
Sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp thống kê, tổng hợp,
phân tích tài liệu liên quan, phương pháp so sánh và phỏng vấn trực tiếp các
đối tượng là CBCC đang công tác tại xã Đông Phong.

3. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm
03 chương.
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã Đông
Phong
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo bồi
dưỡng cán bộ, công chức xã Đông Phong.


7
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát chung về tình hình xã Đông Phong.
1.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội.
Đông Phong là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình, Việt
Nam. Xã Đông Phong có diện tích 9,46 km²
Độ cao trung bình của xã là 399 m. Tuy là một xã vùng cao nhưng trên
địa bàn lại có ít núi cao. Nhìn chung, địa hình của xã có cấu trúc thoai thoải,
độ dốc trung bình của đồi núi khoảng 10-15 o, chủ yếu là đồi dạng bát úp, thấp
dần theo chiều từ đông nam đến tây bắc.
Do điều kiện tự nhiên đa dạng, phức tạp nên Đông Phong có điều kiện
rất thuận lợi để hình thành nền nông nghiệp đa dạng về cây trồng và vật nuôi.
Tuy nhiên, địa hình đa dạng và phức tạp như vậy cũng sẽ gây khó khăn trong
việc thiết kế, xây dựng và nâng cao hiệu quả sử dụng của các công trình thủy
lợi và các cơ sở hạ tầng khác.
Khí hậu Đông Phong thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và
ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều; mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ trung bình
hàng năm từ 22 đến 24oC. Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao. Tuy vậy,
lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu trong các tháng

7, 8 và 9 nên dễ gây úng lụt, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống của
nhân dân.
Nhìn một cách tổng thể, khí hậu Đông Phong thuộc loại mát mẻ, lượng
mưa khá và tương đối điều hòa. Điều kiện khí hậu như vậy đã tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi với nhiều hình thức
canh tác hoặc mô hình chăn nuôi khác nhau.
Vì thế hiện nay xã đẩy mạnh phát chiển nông nghiệp, đầu vào các loại
loại cây trồng như cam, mía..đem lại hiệu quả kinh tế cao.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức.
Xã Đông Phong hiện có 18 cán bộ, công chức, trong đó:
Chủ tịch: 01

CC Địa chính: 01

Phó chủ tịch: 01

CC Văn hóa – Xã hội: 02

Chủ tịch MTTQ: 01

CC Địa chính xã: 01

Bí thư đoàn thanh niên: 01

CC Văn phòng – Thống kê: 01

Chủ tịch hội phụ nữ xã: 01

CC Tư pháp – Hộ tịch: 01



8
Chủ tịch hội Nông dân: 01

CHT.BCHQS XÃ: 01

Chủ tịch hội cựu chiến binh: 01

Trưởng công an xã: 01
Kế toán: 01
Kế toán trưởng: 01

1.2. Lý luận chung về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
1.2.1. Khái niệm về cán bộ, công chức và đào đào tạo, bồi dưỡng cấp

- Khái niệm về cán bộ, công chức cấp xã.
Ở Việt Nam khái niệm CBCC cấp xã mới được hình thành từ khi
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức được
ban hành vào ngày 29 tháng 4 năm 2003 Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị
định hướng dẫn. Trong đó có Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10
năm 2003 của Chính phủ về CBCC xã, phường, thị trấn quy định về chức
danh, tiêu chuẩn, nghĩa vụ, quyền lợi, những việc không được làm, chế độ
chính sách và quản lý CBCC xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là
CBCC cấp xã hoặc cấp cơ sở) [10]. Đội ngũ cán bộ cơ sở gồm có: Cán bộ
chuyên trách cấp xã, công chức cấp xã và cán bộ không chuyên trách cấp xã.
Cán bộ chuyên trách cấp xã: Là cán bộ phải dành phần lớn thời gian
lao động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử: Gồm cán bộ chủ chốt của cấp ủy
Đảng, HĐND, UBND, những người đứng đầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị xã hội.

Công chức cấp xã được UBND tuyển chọn gồm: Trưởng Công an xã,
Chỉ huy trưởng quân sự, cán bộ văn phòng thống kê, địa chính- xây dựng địa
chính- kế toán, tư pháp- hộ tịch, văn hoá xã hội. Số lượng chuyên trách đó do
Chính phủ quy định.
Cán bộ công chức chuyên trách xã có chế độ làm việc và hưởng lương,
chính sách về cơ bản như CBCC Nhà nước, CBCC cấp xã có đủ điều kiện
được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Như vậy so với những quy định trước đây của pháp luật, những quy
định trên theo Nghị quyết Ban Chấp hành TW 5 (khoá IX) về đội ngũ CBCC
xã đặc biệt là CBCC chuyên trách, đã có những thay đổi. Đối tượng sau
không phải là chuyên trách: Trưởng Ban Tổ chức, Trưởng ban Tuyên giáo,
Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy, cán bộ văn phòng Đảng ủy, Phó Công
an xã, công an viên, Phó Chỉ huy trưởng quân sự, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt


9
trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh, Chủ tịch
Hội chữ thập đỏ, Chủ tịch người cao tuội cấp xã.
Cán bộ chuyên trách xã (gồm 11 chức danh) gồm những người do dân
bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ.
Bí thư, phó bí thư đảng ủy (hoặc thường trực đảng ủy xã); bí thư, phó
bí thư chi bộ xã (nơi chưa thành lập đảng ủy xã).
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc;
Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh;
Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ;
Chủ tịch Hội nông dân;
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
Công chức cấp xã (có 7 chức danh) gồm những người được tuyển

dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã gồm có:
Trưởng Công an xã (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
Chỉ huy trưởng quân sự;
Văn phòng thống kê;
Địa chính - Xây dựng;
Tài chính - Kế toán;
Tư pháp - Hộ tịch;
Văn hoá - Xã hội.
Ngoài ra còn có cán bộ không chuyên trách cấp xã, có 19 chức danh gồm:
Trưởng Ban Tổ chức Đảng;
Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng;
Trưởng Ban Tuyên giáo;
Cán bộ Văn phòng Đảng ủy;
Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
Phó Chỉ huy trưởng quân sự;
Cán bộ kế hoạch, giao thông, thuỷ lợi, nông, lâm, ngư nghiệp;
Cán bộ Lao động- Thương binh- xã hội;


10
Cán bộ Dân số- Gia đình và trẻ em;
Thủ quỹ- Văn thư -Lưu trữ;
Cán bộ phụ trách đài truyền thanh;
Cán bộ quản lý nhà văn hoá;
Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc;
Phó các đoàn thể cấp xã;
Phó Bí thư Đoàn Thanh niên công sản Hồ Chí Minh;
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ;
Phó Chủ tịch Hội Nông dân;

Phó Hội Cựu chiến binh;
Chủ tịch Hội người cao tuổi;
Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam;
Ngoài những chức danh nêu trên còn có những cán bộ không chuyên
trách ở thôn và tổ dân phố như: Bí thư Chi bộ thôn (ấp), Trưởng thôn, công an
viên ở thôn, Bí thư Chi bộ, tổ trưởng tổ dân phố ở phường, thị trấn. Đối với
đội ngũ cán bộ này là nguồn bổ sung đắc lực cho đội ngũ CBCC ở cấp xã; tuy
nhiên trong phạm vị đề tài này tác giả chỉ nghiên cứu đội ngũ CBCC chuyên
trách và không chuyên trách cấp xã. Trong đó vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ CBCC cấp xã đang là đòi hỏi bức thiết trong việc xây dựng CBCC cấp xã
ở nước ta và ở xã Đông Phong nói riêng.
Như vậy CBCC cấp xã bao gồm các đối tượng được quy định theo
Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003 là: Những người do
bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy. người đứng đầu tổ chức
chính trị- xã hội xã, phường, thi trấn, những người tuyển dụng giao giữ một chức
danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã được gọi là CBCC
trong biên chế Nhà nước được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Do vậy, CBCC chủ chốt trong hệ thống chính trị ở cơ sở đã được công
chức hoá là CBCC xã thuộc hệ thống CBCC do Pháp lệnh cán bộ, công chức
điều chỉnh về cơ bản CBCC…
Cán bộ công chức cấp xã có các quyền và nghĩa vụ như CBCC cấp
huyện trở lên. Hệ thống CBCC 4 cấp sẽ làm phong phú thêm nguồn đào tạo
sắp xếp, luân chuyển, bổ sung CBCC…
- Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã.
Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và đào tạo, bồi dưỡng
CBCC xã nói riêng là nhiệm vụ trước mắt đồng thời là nhiệm vụ thường


11

xuyên và lâu dài của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, có thể coi chủ thể đào tạo,
bồi dưỡng CBCC là các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã
hội. Đảng và Nhà nước ta thành lập các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng các bộ, xây
dựng đội ngũ giảng viên và giao công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cho các
cơ sở đào tạo này, các cơ sở đào tạo có các tên gọi khác nhau hình thành một
hệ thống đào tạo, bồi dưỡng CBCC cụ thể:
Một là, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Đảng: ở Trung ương Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hà Nội, Học viện Báo chí tuyên truyền, ở địa
phương, trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện.
Hai là, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Nhà nước: ở Trung ương Học viện
Hành chính ở địa phương, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng CBCC thuộc Sở nội
vụ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ngoài ra còn có các cơ sở đào tạo
nguồn CBCC là hệ thống giáo dục phổ thông, các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp.
Ba là, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của các đoàn thể ở Trung ương Học
viện Thanh thiếu niên, Học viện cán bộ phụ nữ trung ương, trường nông dân,
trường công đoàn, ngoài ra còn các phân hiệu, phân viện thanh thiếu niên,
phân hiệu trường cán bộ phụ nữ...
Bên cạnh đó còn có đội ngũ giảng viên chuyên trách và kiêm chức ở
các trường và học viện ở trung ương và địa phương cũng là chủ thể đào tạo,
bồi dưỡng CBCC xã, đây là chủ thể trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã.
1.2.2. Vai trò của cán bộ, công chức xã Đông Phong
Thứ nhất, Đội ngũ CBCC xã là nòng cốt trong xây dựng hệ thống
chính cơ sở.
Đội ngũ CBCC xã là người đi đầu trong các phong trào cách mạng, là
tấm gương sáng lôi cuốn nhân dân, cổ vũ động viên nhân dân tham gia phong
trào cách mạng. Đội ngũ CBCC xã là nơi tin cậy, chổ vựa vững chắc để nhân
dân an tâm tăng gia sản xuất, vì vậy họ là những người nòng cốt gương mẫu
trong việc xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở;

Thứ hai, Đội ngũ CBCC xã là những người trực tiếp thực hiện và vận
hành cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ ở cơ sở.
Đội ngũ CBCC xã là những người trực tiếp thực hiện và vận hành cơ
chế Đảng lãnh đạo, Đảng phải thống thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo một cách
toàn diện và những người trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, Nghị quyết của
Đảng vào cuộc sống của nhân dân là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, là
người phản ánh tâm tư, nguyện vọng giữa nhân dân với Đảng, các đường lối,
chủ trương, Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống của nhân dân hay không là
do rất lớn và quyết định nhờ vào đội ngũ CBCC xã.


12
Đội ngũ CBCC xã là những người trực tiếp tổ chức thực hiện quản lý
Nhà nước ở các lĩnh vực đời sống xã hội ở cơ sở về an ninh, quốc phòng, kinh
tế - văn hóa xã hội, y tế, giáo dục... là người trực tiếp chăm lo đời sống nhân.
Đội ngũ CBCC xã là những người trực tiếp thực hiện dân chủ ở cơ sở,
phát huy dân chủ trực tiếp với nhân dân là những người sống gần gũi với nhân
dân nên rất am hiểu đời sống, sinh hoạt của nhân dân và ngược lại nhân dân
cũng hiểu biết từng công việc của từng CBCC cho nên trong quá trình triển
khai thực hiện rất thuận lợi;
Thứ ba, Đội ngũ CBCC xã là cầu nối giữa nhân dân với nhà nước,
thông qua đội ngũ cán bộ không chuyên trách để nắm được tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân vận động nhân dân thực hiện chính sách xã hội và tự quản
ở địa phương:
Trực tiếp chăm lo cho đời sống nhân dân trong việc xóa đói giảm nghèo.
Trực tiếp chăm lo đời sống xã hội cho nhân dân trong việc giáo dục- y
tế, văn hoá.
Trực tiếp chăm lo đời sống nhân dân về các đối tượng chính xã hội và
an ninh trật tự.
Trực tiếp chỉ đạo và vạch ra phương hướng phát triển kinh tế xã hội ở

địa phương;
Thứ tư, đội ngũ CBCC cấp xã nói chung và CBCC xã Đông Phong nói
riêng có vai trò lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của địa
phương.
1.3. Mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo cán bộ, công chức xã
Đông Phong
- Mục tiêu đào tạo
Mục tiêu nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện
nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề
nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ Cán bộ công chức chuyên
nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng
yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.
- Đối tượng đào tạo.
+ Đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học gồm các đối tượng: Cán
bộ, công chức xã là người dân tộc thiểu số, vì Đông Phong là xã miền núi nên
các cán bộ công chức được cử đi học phải có cam kết thực hiện nhiệm vụ,
công vụ tại cơ quan, đơn vị sau khi hoàn thành chương trình đào tạo trong
thời gian ít nhất gấp 2 lần thời gian đào tạo.


13
+ Đào tạo sau đại học, cán bộ, công chức phải đáp ứng điều kiện: Có
thời gian công tác từ đủ 3 năm trở lên (không kể thời gian tập sự) và 2 năm
liên tục liền kề trước thời điểm được cử đi đào tạo hoàn thành tốt nhiệm vụ;
không quá 40 tuổi tính từ thời điểm được cử đi đào tạo sau đại học lần đầu; có
cam kết thực hiện nhiệm vụ, công vụ tại cơ quan, đơn vị sau khi hoàn thành
chương trình đào tạo trong thời gian ít nhất gấp 2 lần thời gian đào tạo;
chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí việc làm.
+ Cán bộ, công chức được cử đi học theo các chương trình hợp tác với
nước ngoài được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước, Chính phủ nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngoài các quy định nêu trên còn phải
đáp ứng yêu cầu khác của chương trình hợp tác.
+ Trường hợp cán bộ, công chức, được cử đi đào tạo từ trình độ trung
cấp trở lên bằng nguồn ngân sách nhà nước hoặc kinh phí của cơ quan quản
lý, sử dụng cán bộ, công chức, nếu tự ý bỏ học, bỏ việc hoặc đơn phương
chấm dứt hợp đồng làm việc trong thời gian đào tạo; không được cơ sở đào
tạo cấp văn bằng tốt nghiệp; đã hoàn thành và được cấp văn bằng tốt nghiệp
khóa học nhưng bỏ việc hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc khi
chưa phục vụ đủ thời gian cam kết thì phải đền bù chi phí đào tạo.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng và hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức xã
+ Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã:
Trước yêu cầu lãnh đạo quản lý nhà nước về các lĩnh vực của đời sống
xã hội, vấn đề nâng cao năng lực (khả năng) của CBCC là vấn đề rất quan
trọng. Người CBCC từ trong nhân dân, được nhân dân bầu ra, không phải họ
đã có sẵn và đủ trình độ làm việc. Tuy nhiên do bẩm sinh, do tự rèn luyện, tự
học hỏi không ít người đã có được những trình độ khả năng công tác nhất
định. Căn cứ vào loại lao động trí óc đặc biệt của CBCC các cấp có thể xác
định nội dung đào tạo, bồi dưỡng ở bốn lĩnh vực sau đây:
Một là, trình độ chính trị nhận thức về đường lối, chủ trương, quan
điểm của Đảng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, trình độ về kinh tế và quản lý về kinh tế.
Ba là, năng lực kỹ năng lãnh đạo, quản lý nhà nước và nghiệp vụ công
tác Đảng, đoàn thể.
Bốn là, nâng cao sự hiểu biết thêm về ngoại ngữ và tin học.
Ngoài ra, vấn đề học tập và rèn luyện theo những tiêu chuẩn đạo đức
của người cán bộ cách mạng.
1.4. Tiêu chí đánh giá đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã
Đông Phong.



14
Thứ nhất, đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên
mạnh, đủ về số lượng và chất lượng, có bản lĩnh chính trị, tư tưởng, lập
trường vững vàng đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới. Đào tạo, bồi dưỡng
cho đội ngũ cán bộ Đảng viên có một phẩm chất, đạo đức, lối sống trong
sáng, thật sự là người có uy tín, gương mẫu lãnh đạo mọi tầng lớp nhân dân,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ CBCC để đáp ứng
yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC có một
trình độ, năng lực, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Nắm rõ và hiểu biết về chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, thể hiện rõ
là người công bộc, trong sáng, người "đầy tớ" của nhân dân, tận tuỵ phục vụ
nhân dân. Người CBCC phải biết và tạo điều kiện vận động nhân dân sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu để xây dựng cả đội ngũ
cán bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh và đồng bộ, cho đội ngũ
cán bộ ở tổ chức này có một tư duy nhạy bén, có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ giỏi, có đủ năng lực vận động và tập hợp lôi cuốn quần chúng nhân dân
tham gia các phong trào do Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể đề ra.
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản
lý để đáp ứng yêu cầu của quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước, đòi hỏi phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản lý
giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có kiến thức về khoa học, kỹ thuật, nắm bắt và
áp dụng kịp thời khoa học kỹ thuật vào quá trình quản lý, chỉ đạo để đáp ứng
yêu cầu quá trình phát triển của đất nước.
Thứ năm, đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ, quản lý nhà
nước, đáp ứng yêu cầu nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quán lý nhà nước có một tư duy nhạy bén, nắm
bắt thị trường kinh tế trong nước và quốc tế kịp thời để đề ra các giải pháp

quản lý có hiệu quả cao.
Thứ sáu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu phát
huy dân chủ của nhân dân. Đội ngũ CBCC phải nắm và hiểu biết quyền làm
chủ của nhân dân. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC biết cách tổ chức và
thực hiện để nhân dân thực hiện hết quyền dân chủ của mình để tham gia
quản lý nhà nước là để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra


15
1.5. Quy trình đào tạo, bồi dưỡng cấn bộ, công chức xã Đông
Phong.
Đào tạo, bồi dưỡng xét theo ý nghĩa của một hoạt động trong tổ chức,
là quá trình làm thay đổi hành vi người học một cách có kế hoạch, có hệ
thống thông qua các sự kiện, chương trình và hướng dẫn học tập, cho phép cá
nhân đạt được các trình độ kiến thức, kỹ năng và năng lực để thực hiện công
việc của họ có hiệu quả.

1.6. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức xã Đông Phong.
- Chính sách đào tạo và bồi dưỡng
Đây là yếu tố quan trọng, tạo nền móng và định hướng cho công tác
xây dựng kế hoạch, triển khai đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức.
Thứ nhất, chính sách là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức.
Thứ hai, dựa vào văn bản quy phạm pháp luật quy định chính sách đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của từng ngành, từng cấp, từng cơ quan về đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức.
Thứ ba, dựa vào các văn bản quy định chính sách để xây dựng chiến

lược, kê' hoạch đào tạo và bồi dưỡng phù hợp với đặc thù của ngành, địa
phương, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của ngành đủ về số
lượng, nâng cao chất lượng và hợp lý về cơ cấu.


16
Thứ tư, dựa vào văn bản quy định để kiểm tra, kiểm soát công tác đào
tạo và bồi dưỡng, chất lượng và nội dung chương trình cũng như kết quả đạt
được của công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức.
- Nguồn và chất lượng đẩu vào của đội ngũ công chức
Nguồn tuyển dụng đầu vào là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng của đội ngũ công chức. Tuyển dụng được người học đúng ngành,
chuyên ngành sẽ làm cho việc bô' trí, sử dụng công chức sẽ dễ dàng và hiệu
quả hơn; việc đánh giá năng lực của công chức cũng sát với thực tê' hơn. Nếu
đội ngũ công chức được tuyển dụng hoặc được luân chuyển không sát với yêu
cầu công việc sẽ là một bất lợi cho tổ chức vì phải tiến hành đào tạo, đào tạo
lại mới có thể sử dụng được.
Nguồn và chất lượng đầu vào của đội ngũ công chức sẽ ảnh hưởng đến
chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ công chức. Nó
ảnh hưởng lớn đến nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng; thời gian đào
tạo, bồi dưỡng; số lượng cần phải đào tạo, bồi dưỡng và kinh phí cho đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ công chức.
- Khung năng lực của vị trí việc làm
Khung năng lực là một công cụ mô tả trong đó xác định các yêu cầu về
kiến thức, kỹ năng, khả năng, thái độ, hành vi và các đặc điểm cá nhân khác
để thực hiện các nhiệm vụ trong một vị trí, một công việc hay một ngành
nghề. Điều 7 của Thông tư số 05/2013/TT-BNV ngày 25/6/2013 của Bộ Nội
vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22/4/2013 của
Chính phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức ghi rõ: "Khung năng
lực của từng vị trí việc làm được xây dựng gồm các năng lực và kỹ năng phải

có để hoàn thành các công việc, các hoạt động nêu tại Bản mô tả công việc
ứng với từng vị trí việc làm".
Theo Pastor và Bresard, “khung năng lực phản ánh toàn bộ năng lực
mà một cá nhân cần có để đảm nhiệm một vị trí việc làm hay một công cụ nào
đó”. Như vậy, khung năng lực là công cụ hiệu quả trong quản lý và phát triển
nguồn nhân lực. Đặc biệt, nó được sử dụng nhiều trong việc tuyển dụng, bố
trí, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực để cố định hướng đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ công chức cho phù hợp với vị trí việc làm trong cơ quan và
xác định nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức chính xác, đảm bảo
đào tạo, bồi dưỡng đúng đối tượng, đúng nội dung chương trình, đáp ứng yêu
cầu công việc, yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính và cải cách công
vụ.
- Hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức là nơi tổ chức thực hiện các
khóa đào tạo, bổi dưỡng trang bị, cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng hoạt


17
động công vụ cho công chức. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần bảo đảm các
tiêu chuẩn tối thiểu của một trường/viện/ trung tâm đào tạo công chức hiện
đại, như: khuôn viên rộng rãi, có hội trường, các phòng học, ký túc xá, khu
vui chơi giải trí thể thao; trang thiết bị giảng dạy hiện đại; cơ sở hạ tầng công
nghệ thông tin, phần mềm quản lý, phần mềm đào tạo hiện đại và chất lượng;
đội ngũ giảng viên đảm bảo về số lượng và đủ năng lực giảng dạy; đội ngũ
quản lý đào tạo chuyên nghiệp.
- Ngân sách đào tạo và bồi dưỡng
Sô liệu thực tế về trình độ, năng lực của đội ngũ công chức cho thấy:
“Theo đánh giá chung, đội ngũ này còn không ít hạn chế so với đòi hỏi của
thời kỳ mới: chỉ khoảng 30% trong số họ đáp ứng được yêu cầu, khoảng 40%
"tàm tạm" và khoảng 30% còn lại là chưa đáp ứng được yêu cầu”(6).

Sử dụng và quản lý ngân sách dành cho đào tạo, bồi dưỡng tốt sẽ có tác
dụng thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưõng. Nguồn kinh phí được sử
dụng đúng mục đích, đúng đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng sẽ đem lại kết
quả cho tổ chức cũng như cá nhân cống chức. Ngược lại, nếu nguồn ngân
sách được sử dụng sai mục đích, lãng phí không những vi phạm quy định của
Nhà nước về quản lý đào tạo, bồi dưỡng công chức mà còn ảnh hưởng tới
quyền lợi chính đáng của công chức về nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng.
- Hội nhập và toàn cầu hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu, rộng và kinh tế - xã
hội không ngừng phát triển, vấn đề dự báo nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với toàn xã hội nói chung và đối
với khu vực hành chính công nói riêng. Vì vậy, yêu cầu đội ngũ cán bộ, công
chức phải có kiến thức về hội nhập quốc tế, trang bị đầy đủ kiến thức tin học,
ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của xã và yêu cầu của từng vị trí việc làm công
chức đảm nhận, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hành chính công là rất
cần thiết. Qua đó đội ngũ cán bộ, công chức trưởng thành, nhanh chóng hội
nhập với khu vực và thế giới, nâng cao chất lượng công tác hoạch định, xây
dựng chính sách phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước và
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


18
CHƯƠNG II
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TẠI XÃ ĐÔNG PHONG

2.1. Thực trang đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại xã Đông
Phong.
2.1.1. Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng.
Trong điều kiện hiện nay, hoạt động đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công

chức đóng vai trò quan trọng để nâng cao năng lực thực thi công vụ và nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức.
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả thực thi công vụ. Trong quá trình làm
việc, cùng với sự thay đổi ngày càng mạnh mẽ về yêu cầu chất lượng công
việc; sự phát triển của khoa học, công nghệ,... đòi hỏi mỗi công chức phải
hoàn thiện bản thân, nâng cao lý luận chính trị, cập nhật tri thức mới và kỹ
năng để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. “Mục đích của đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực là nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có và
nâng cao tính hiệu quả của tổ chức thông qua việc giúp người lao động hiểu
rõ, nắm vững hơn về công việc, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một
cách tự giác với thái độ tốt hơn”(4). Trong nền hành chính công vụ, nguồn
nhân lực chính là công cụ để thực hiện các mục tiêu chức năng hành chính, do
vậy năng lực, chất lượng của đội ngũ công chức là một trong những điều kiện
quan trọng, cần thiết để xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và phục
vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
Thứ ba, quy hoạch, phát triển đội ngũ công chức, nhằm đáp ứng những
thay đổi bên ngoài nền công vụ và sự đòi hỏi phát triển của tổ chức và cá
nhân công chức bên trong nền công vụ. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng giúp
cho tổ chức quy hoạch được nguồn cán bộ quản lý, đảm bảo nguồn nhân lực
có số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý.
Thứ tư, đánh giá nhân lực. Công chức được đào tạo, bồi dưỡng biết
tiếp thu và vận dụng những kiến thức, kỹ năng được học vào công việc, làm
cho chất lượng công việc được nâng lên, mang lại hiệu quả chung cho tổ chức
và cá nhân. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, người lãnh đạo
và cơ quan chủ quản có thể đánh giá được sự tiến bộ, thái độ và hành vi của
công chức.
2.1.2. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng.



19
Công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã thời gian qua các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng trong và ngoài tỉnh vẫn thực hiện chương trình chung thống nhất
trong toàn quốc. UBND xã căn cứ vào các yếu tố sau để xây dưng kế hoạch
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Đây là các yếu tố quan trọng
Thứ nhất, chính sách là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức.
Thứ hai, dựa vào văn bản quy phạm pháp luật quy định chính sách đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của từng ngành, từng cấp, từng cơ quan về đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức.
Thứ ba, dựa vào các văn bản quy định chính sách để xây dựng chiến
lược, kê' hoạch đào tạo và bồi dưỡng phù hợp với đặc thù của ngành, địa
phương, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của ngành đủ về số
lượng, nâng cao chất lượng và hợp lý về cơ cấu.
Thứ tư, dựa vào văn bản quy định để kiểm tra, kiểm soát công tác đào
tạo và bồi dưỡng, chất lượng và nội dung chương trình cũng như kết quả đạt
được của công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức.
2.1.3. Tổ chức triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng.
Cho đến nay, UBND xã Đông Phong thực hiện hai hình thức đào
tạo, bồi dưỡng cho CBCC xã hình thức tập trung và tại chức (vừa học vừa làm).
- Hình thức tập trung chỉ áp dụng đối với các lớp trung cấp lý luận
chính trị, đối tượng CBCC trẻ 35 tuổi trở xuống trong diện quy hoạch, hình
thức này học viên có thời gian học tập và nghiên cứu không bị chi phối bởi cơ
quan và gia đình chuyên tâm vào học tập
- Hình thức tại chức (vừa học vừa làm).
Có hai hình thức:
+ Hình thức thứ nhất: Áp dụng đối với các lớp hiệp quản liên kết với
cơ sở đào tạo trong và ngoài tỉnh mở những lớp đào tạo về đại học và trung

học cho chuyên môn và nghiệp vụ, đối tượng này là CBCC xã.
+ Hình thức thứ hai: Các lớp trung cấp lý luận chính trị kết hợp với
Thường trực Huyện, Thị ủy và Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện, thị mở
cho đối tượng CBCC phòng, ban huyện, thị, CBCC xã, (tuổi đời trên 35 tuổi)


20
có trình độ học vấn hết THCS không đủ tiêu chuẩn học tập trung tại Trường
Chính trị.
2.2. Đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp cơ
sở tại xã Đông Phong.
2.2.1. Những thành tựu đạt được.
Tỉnh ủy và các cấp ủy Đảng luôn quan tâm xây dựng đội ngũ CBCC,
hàng năm đều đưa vào Nghị quyết và xem công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC
là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên để tập trung chỉ đạo, đồng thời quan tâm
công tác bố trí, đề bạt, bổ nhiệm. Từ đó CBCC xã có nâng lên từng bước về
trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý đáp ứng một phần yêu cầu mới hiện nay.
Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm xây dựng các
đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, từng nhiệm kỳ và từng năm, từng bước đa
dạng hoá các loại hình đào tạo, có chú trọng đào tạo, bồi dưỡng các lĩnh vực,
các ngành theo yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội ở xã. Đặc biệt về đào tạo lý
luận chính trị đã đủ số lượng và chất lượng, tăng cường mở các lớp trung cấp
lý luận chính trị tại chức cho CBCC ở vùng sâu, vùng xa.
Vận dụng được ngân sách địa phương hỗ trợ hàng tháng cho người đi
học, tổ chức nghiên cứu thực tế ở các khu di tích lịch sử cách mạng và các cơ
sở kinh tế cho mỗi khoá học.
2.2.2 Những tồn tại hạn chế
Tuy nhiên nhìn một cách toàn diện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng vẫn còn nổi bật một số hạn chế sau:
Một là, một bộ phận không nhỏ các cấp lãnh đạo ở xã chưa thấy hết vị

trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
CBCC, nên quan tâm chưa đúng mức, trong quy hoạch còn cứng nhắc
phương pháp đôi lúc còn thiếu linh hoạt so với yêu cầu tình hình thực tế.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC tuy có bước phát triển nhưng nhìn
chung chưa đồng bộ, chưa gắn chặt với quy hoạch, hiệu quả đào tạo, bồi
dưỡng phục vụ cho quy hoạch chưa cao, đào tạo, bồi dưỡng chưa theo kịp quy
hoạch, quy hoạch chưa đảm bảo tiêu chuẩn mà lại chậm được khắc phục.
Hai là, công tác quy hoạch cán bộ chưa đồng bộ, thiếu tính khoa học,
chưa có cơ sở hợp lý giữa CBCC người Kinh với CBCC người dân tộc thiểu
số. Chưa cân đối mở lớp giữa đào tạo chương trình hành chính Nhà nước với
lý luận chính trị, do đó đào tạo về Hành chính nhà nước rất hạn chế;
Ba là, thiếu nguồn đào tạo: Do trình độ học vấn thấp không đạt chuẩn,
do nguồn đầu vào bất cập. Còn chủ quan trong việc lập kế hoạch chiêu sinh.
Vì vậy công tác quy hoạch tạo nguồn và đào tạo nguồn cán bộ dự kiến ngay
từ rất sớm thì mới có nguồn CBCC đủ tiêu chuẩn bổ sung kịp thời sau này.


21
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế
Một số văn bản của trung ương hướng dẫn chưa đồng bộ, giao chỉ tiêu
biên chế cho từng địa phương hàng năm còn hạn chế, nên còn gặp không ít
khó khăn trong việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Do cấp ủy Đảng, chính quyền chỉ đạo còn chung chung chưa có
chương trình, kế hoạch dài hạn và từng thời kỳ về đào tạo, bồi dưỡng CBCC
chưa tiến hành đồng bộ mang tính hình thức, quy hoạch không gắn với đào
tạo, bồi dưỡng từ đó dẫn đến cán bộ hụt hẫng về trình độ lý luận và chuyên
môn nghiệp vụ.
Chế độ chính sách cho CBCC đi học còn nhiều ách tắt, không thống
nhất giữa các đơn vị trong huyện và chậm thích ứng với mặt bằng chung của
thị trường từ đó không kích thích CBCC tham gia học tập để nâng cao trình

độ.
Do điều kiện về kinh tế của người dân còn khó khăn, một số CBCC chỉ
tập trung lo kinh tế gia đình nên ảnh hưởng đến chất lượng công tác. Một số
CBCC còn ngại đi đào tạo, bồi dưỡng bổ sung kiến thức để nâng cao trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ nhất là các lớp tổ chức xa nhà và dài hạn, thậm chí
một số CBCC tự ý bỏ học khi được cơ quan đơn vị cử đi học.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ ĐÔNG PHONG
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp cơ sở tại địa phương.
Đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã trên cơ sở cụ thể hóa những quan
điểm, chủ trương, đường lối Nghị quyết của Đảng ta từ trước đến nay xem
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là một nhiệm vụ quan trọng trong
công tác xây dựng cán bộ của Đảng và là một nhiệm vụ xuyên suốt trong quá
trình lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam. Bồi dưỡng để nâng cao một bước trình
độ và năng lực CBCC đầy đủ và vững mạnh.
Việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã không chỉ là nhiệm vụ trước mắt
mà là chiến lược lâu dài nằm trong kế hoạch chung của Đảng và Nhà nước
ta về đào tạo, bồi dưỡng CBCC và là nằm trong đề án đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã giai đoạn hiện nay của Thủ tướng Chính phủ.
Đảng, Nhà nước và Chính phủ, muốn xây dựng củng cố và đào tạo, bồi
dưỡng CBCC đương chức và dự nguồn, nhất là đội ngũ CBCC cấp xã có đủ
số lượng và có năng lực trình độ phầm chất đạo đức mới đáp ứng được xu
thế phát triển của đất nước trong thời gian tới.


22
Công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã Đông Phong phải phát huy cao
độ và vận động sử dụng hết nội lực, tích cực chủ động linh hoạt nhạy bén

không trông chờ, kết hợp với các cơ quan chức năng trong việc xây dựng nội
dung, chương trình, cách thức tổ chức riêng phù hợp với khả năng điều kiện
trình độ của. Củng cố đội ngũ giảng viên thật mạnh có trình độ, năng lực,
phương pháp sư phạm giỏi, có tâm lý. Bên cạnh đó, tận dụng và tạo mọi điều
kiện cơ sở vật chất sẳn có để đào tạo, bồi dưỡng. Song, phải thống nhất ý chí
và kết hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa Huyện ủy và các cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương trong tỉnh trong việc đào tạo, bồi dưỡng cho được đội đội
ngũ CBCC xã.
3.2. Một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp cơ sở tại xã Đông Phong
- Nâng cao nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức xã.
Nâng cao nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC là việc làm
thường xuyên lâu dài.
Muốn nâng cao nhận thức trong cán bộ từ cấp ủy, chính quyền, đảng
viên đến quần chúng nhân dân thấy được tầm quan trọng của công tác cán bộ
và công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC.
Để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác cán bộ và công
tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã, phải có kế hoạch cụ thể đào tạo, bồi dưỡng
từng năm và lâu dài đối với CBCC này đã được định biên. Cấp ủy, UBND xã
phải thực hiện trong quy chế làm việc của mình đối với công tác quy hoạch
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí tuyển dụng, cắt nhắc đề bạt cán bộ, để tổ chức thực
hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả, tránh làm theo lối hô hào khẩu hiệu
quan tâm một cách chung chung.
- Tăng cường chủ động của Ủy ban nhân dân và sự hỗ trợ từ phía
các học viên, các cơ sở đào tạo.
Tăng cường sự lãnh đạo của Ủy ban xã trong việc lãnh đạo các ban,
ngành trong xã thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng CBCC.
Tăng cường sự quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân xã trong công
tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC ở xã. Cụ thể thực hiện tốt

các nội dung các Quyết định của thủ tướng Chính phủ số : 03/ 2004 QĐ -TTg
ngày 07 tháng 01 năm 2004 phê quyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi
dưỡng CBCC xã, phường thị trấn đến năm 2010, thành chương trình kế hoạch
của địa phương về đào tạo, bồi dưỡng CBCC tại cơ sở.
- Đổi mới về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức xã.
* Về nội dung:


23
Thực hiện nội dung đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã một cách toàn
diện, căn bản và chuyên nghiệp: đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, về kiến thức lý luận và thực tiễn; kiến thức cơ bản và
hướng dẫn kỹ năng thực hành; đặt biệt chú trọng đào tạo, bồi dưỡng Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, dường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bản chất giai cấp công nhân,
năng lực trong tư duy lãnh đạo, quản lý; về xây dựng Đảng quản lý Nhà
nước,quản lý kinh tế quản lý xã hội, khoa học công nghệ hiện đại, chuyên
môn nghiệp vụ, phong cách lãnh đạo, phương pháp quản lý, xử lý tình huống,
nâng cao trình độ học vấn ngoại ngữ, tin học….mà cụ thể từng nội dung như
sau:
+ Nội dung về lý luận chính trị:
Biên soạn giáo trình môn Triết học Mác-Lênin, môn Kinh tế Chính trị
Mác -Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học theo hướng đơn giản, dễ hiểu (dùng
cấp học viên).
Nghiên cứu bổ sung thêm các nội dung: Lịch sử Việt Nam từ cận đại
đến nay; Lược sử vùng đất Hòa Bình nhằm khẳng định sự tồn tại một quốc
gia độc lập của các dân tộc.
+ Nội dung Nhà nước pháp luật quản lý hành chính:
Tăng thêm thời lượng cho các bài: các ngành luật tronghệ thống pháp

luật Việt Nam (Chú trọng các luật và bộ luật: Dân sự - Tố tụng Dân sự; Hình
sự, Tố tụng Hình sự, Đất đai, Hôn nhân và gia đình).
Cách tổ chức, thực hiện quy chế dân chủ ở xã. Nội dung, phương pháp
giải quyết khiếu kiện của dân. Nội dung, chương trình chính quyền xã tham
gia quản lý các dự án đầu tư trên địa bàn (nhằm phòng ngừa lợi dụng của các
đối tác) nội dung phương pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong dân cư
quản lý ngân sách xã, xây dựng hương ước xã …
Tăng thời lượng cho phần học nghiệp vụ và kỷ năng hành chính. Thiết
kế nhiều thời gian thực hiện các bài tập trong đó chú trọng bài văn bản quản
lý nhà nước và kỹ thuật soạn thảo văn bản, vấn đề này rất cần thiết cho
CBCC xã.
* Về chương trình:
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế chúng tôi đề xuất giải pháp xây
dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC như sau:
- Xây dựng một chương trình đào tạo, bồi dưỡng riêng cho phù hợp với
đặc điểm phong tục tập quán, khả năng trình độ và điều kiện hiện nay của
người CBCC xã; theo hướng ngắn gọn, cụ thể xát hợp và ít tốn kém thời gian
hơn.


24
- Khôi phục và kết hợp hai chương trình sơ cấp lý luận chính trị, sơ cấp
hành chính Nhà nước chọn lọc, các nội dung thiết thực phù hợp với CBCC xã
Đông Phong.
- Xây dựng chương trình kết hợp: Trung cấp lý luận chính trị -Hành chính
Nhà nước với thời lượng học là 18 tháng dành riêng cho học viên là cán bộ trẻ
tuổi, cán bộ trong nguồn diện quy hoạch. Sự kết hợp này vừa đảm bảo trình độ
khoa học, tính lôgích giữa chính trị và hành chính.
+ Phương thức, hình thức đào tạo, bồi dưỡng
Hình thức đào tạo hoặc bồi dưỡng nên kết hợp cả loại hình đào tạo tập

trung và tại chức (vừa làm vừa học) loại hình đào tạo tập trung áp dụng cho số
CBCC trẻ, dự nguồn cho đào tạo tuyến trên cao hơn và đây là loại hình đào
tạo cơ bản, phục vụ cho chiến lược lâu dài, loại hình đào tạo tại chức (vừa làm
vừa học) áp dụng cho số cán bộ đương chức, lớn tuổi.
Đối với các lớp đào tạo tập trung dài hạn thực hiện phương thức kết
hợp học văn hoá với các chương trình: Trung cấp lý luận chính trị - Hành
chính Nhà nước và trung cấp chuyên môn nghiệp vụ.
- Giảng dạy đối cán bộ, công chức xã.
Do trình độ đội ngũ cán bộ xã còn hạn chế nên việc tổ chức giảng dạy
cần có những phương pháp đặc thù, không thể áp dụng một phương pháp
chung như các đối tượng khác, căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu từng bài học,
phần học, môn học mà nghiên cứu áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện
đại như: Thuyết trình, làm việc theo nhóm, đóng vai tình huống, phương tiện
và trực quan vào các lớp học cho CBCC xã.
Phương châm “học đi đôi với hành”, lý luận liên hệ với thực tiễn là
một phương châm rất cơ bản trong công tác giáo dục- đào tạo. Nhưng đối với
đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã đặc biệt quan tâm nhiều hơn và với học viên là
người dân tộc thiểu số thì châm ngôn “trăm nghe không bằng một thấy” có
giá trị rất to lớn và mang lại hiệu quả thiết thực trong quá trình đào tạo, vì đối
với CBCC xã miền núi tư duy trừu tượng còn hạn chế, nên càng gắn được giữa lý
luận với thực tiễn càng nhiều bao nhiêu thì càng sâu sắc và đạt kết quả bấy nhiêu.
Vì vậy, đối với những lớp tập trung dài hạn sau mỗi môn học mang tính
tác nghiệp cụ thể cần tổ chức cho học viên đi thâm nhập thực tế tại các xã, để
học viên học tập trong thực tế cách thức tổ chức, làm việc, giải quyết công
việc hàng ngày tại trụ sở nơi làm việc của UBND xã. Từ đó học viên học
được kinh nghiệm về địa phương, đơn vị mình kết hợp giữa học ở nhà trường
và của đơn vị bạn làm việc đạt hiệu quả cao.
- Nguồn đào tạo, bồi dưỡng các biện pháp chuẩn bị của xã để bổ
sung nguồn đào tạo, bồi dưỡng



25
Trước hết, nguồn trong con em gia đình thương binh liệt sĩ và gia đình
có công với nước. Đây là nguyồn có truyền thống cách mạng cần quan tâm
đặc biệt khi tìm nguồn đào tạo, bồi dưỡng. Ở trong đó sẽ có nguồn đào tạo,
bồi dưỡng đây là những hạt giống “đỏ” nguồn này không những hiếm lắm,
nhưng vấn đề thường gặp phải là đời sống của một bộ phận trong số họ còn
khó khăn, sống ở vùng sâu, vùng xa, học chưa đến nơi đến chốn, nhất là con
liệt sĩ, cho nên đối tượng này đi đôi với tìm nguồn đào tạo, bồi dưỡng chúng
ta phải có kế hoạch rất sớm, từ khi còn nhỏ học ở các cấp học phổ thông, tạo
điều kiện giúp đỡ họ đưa đi học ở các trường phổ thông Dân tộc nội trú, còn
trong số học, nếu ai có điều kiện tự học đến nơi đến chốn thì phải ưu tiên quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng để sớm trở thành cán bộ dự bị kế cận làm nguồn
cho cán bộ chủ chốt sau này, việc tìm nguồn để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài
trong đối tượng này là việc làm vừa mang tính trước mắt vừa mang tính lâu
dài, nếu chúng ta kiên quyết làm chặt chẽ và được thành công nó sẽ mang lại
hiệu quả rất bền vững trong chiến lược cán bộ giai đoạn 2010-2020 và những
năm tiếp sau.
Thứ hai, nguồn từ con cháu cán bộ đương chức và cán bộ hưu trí. Đây
là nguồn đào tạo khá dòi dào, họ sống trong môi trường có giáo dục và có
điều kiện học hành đàng hoàng. Nằm trong đối tượng này cũng có con em
thương binh, gia đình liệt sĩ gia đình có công với cách mạng, hoàn cảnh gia
đình phần đông đã khá ổn định. Nếu được sự quan tâm đặc biệt và kịp thời
đưa đi đào tạo tập trung dài hạn, thì trong số họ sẽ là những người có điều
kiện tốt nhất để phát triển đảng viên từ khi còn là sinh viên. Sau khi ra trường
nếu họ trở thành CBCC thì chính họ sẽ là những người phát huy tốt nhất tài
năng của mình, là nguồn quý báu để có thể quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
thành cán bộ kế cận, dự bị, chủ chốt.
Thứ ba, nguồn từ học sinh ở các trường phổ thông dân tộc nội trú,
thanh niên trưởng thành từ phong trào cơ sở, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ

quân sự. Đây là nguồn đào tạo, bồi dưỡng rất đa dạng và phong phú cho
CBCC sau này.
Đối với học sinh các trường phổ thông, đây là nguồn bổ sung nhân lực
cơ bản, lâu dài cho các lĩnh vực, là nguồn bổ sung quan trọng cho đội ngũ
CBCC của chính quyền xã sau này.
Đối với thanh niên trưởng thành từ phong trào cơ sở, đây là đối tượng
nhiệt tình tham gia các phong trào ở cơ sở, nhiệt huyết với cách mạng, người
đi đầu, dẫn đường trong các phong trào, tiên phong, gương mẫu. Nhưng số họ
đại bộ phận chưa qua đào tạo, bồi dưỡng ở trường lớp, vì vậy nếu chúng ta bắt
gặp và phát hiện sớm đưa đi đào tạo, bồi dưỡng đến nơi đến chốn thì sau này
trở thành CBCC có đầy đủ năng lực và họ đem hết tài năng để phục vụ.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×