Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Luận văn thạc sĩ quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.31 KB, 109 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam, trải qua 25 năm phát triển (1991 – 2016), đến nay, cả nước đã có 295
khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) được thành lập, thu hút được hơn 5.100
dự án có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư đã đăng ký hơn 75,3 tỷ
USD, và 6.210 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 24,995 tỷ USD, (Theo
Website KCN Việt Nam). Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, có 07 KCN tập trung được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó có 05 KCN đi vào hoạt động với tổng số vốn đầu
tư đã đăng ký khoảng 2,5 tỷ USD. Các KCN đã đạt được những thành tựu quan trọng:
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng
góp ngân sách nhà nước tăng không ngừng, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao
động...
Những kết quả đã đạt được một phần là do công tác quản lý nhà nước đối với các
KCN đã được đổi mới theo hướng năng động phù hợp với luật pháp và môi trường đầu
tư trong nước và quốc tế, phù hợp với với đặc điểm phát triển của KCN trên địa bàn
tỉnh. Tuy nhiên quản lý nhà nước đối với các KCN hiện hành của Việt Nam nói chung
và tỉnh Ninh Bình nói riêng vẫn còn khá nhiều bất cập hạn chế. Chất lượng công tác
quy hoạch KCN và triển khai thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt chưa đáp ứng
kịp yêu cầu phát triển; Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng (GPMB), xây dựng kết
cấu hạ tầng còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc; Hàm lượng công nghệ, tính phù hợp
về ngành nghề trong cơ cấu đầu tư chưa cao; Công tác bảo vệ môi trường Khu công
nghiệp vẫn còn bất cập; Đời sống công nhân trong Khu công nghiệp còn nhiều khó
khăn ... Do đó cần thiết có nghiên cứu đánh giá thực trạng quản lý nhà nước trong thực
tiễn phát triển KCN của tỉnh cùng với nguyên nhân của những thành công và hạn chế
là cơ sở khoa học đưa ra những giải pháp quản lý nhà nước (QLNN) nhằm phát triển
các KCN địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề
tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” cho Luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:

1




Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất một số giải pháp có tính khả thi và phù hợp
nhằm hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản lý của các cấp chính quyền tỉnh Ninh Bình
(UBND tỉnh và các Sở, ban ngành có liên quan) đối với các KCN trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình.
b. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi về nội dung và không gian:
Đề tài nghiên cứu QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Luận văn
nghiên cứu công tác quản lý của chính quyền cấp tỉnh nhưng đặt trong khuôn khổ các
chính sách, chế độ quản lý các KCN của Nhà nước ta.
- Phạm vi thời gian:
Luận văn phân tích thực trạng xây dựng và phát triển các KCN và vấn đề quản lý nhà
nước đối với các KCN ở Ninh Bình trong giai đoạn 2011 – 2016 và đề xuất giải pháp
cho giai đoạn 2017-2022.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài áp dụng phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp hệ thống các văn bản pháp
quy và cơ sở lý thuyết; Phương pháp điều tra, thu thập số liệu; Phương pháp thống kê;
Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh; Phương pháp tham vấn ý kiến chuyên gia và
một số phương pháp nghiên cứu kinh tế khác để giải quyết các vấn đề liên quan đến
công tác quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học:

2



Luận văn nghiên cứu và hệ thống hóa các cơ sở lý luận cơ bản về khu công nghiệp, vai
trò của các khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội; cơ sở lý luận về quản lý
nhà nước đối với các khu công nghiệp.
b. Ý nghĩa thực tiễn:
Những giải pháp được đề xuất của đề tài là những gợi ý cho những nghiên cứu đề xuất
nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình (cơ quan đầu mối thực hiện là Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh
Ninh Bình). Đồng thời những giải pháp này cũng là những gợi ý có thể áp dụng cho
các địa phương trên cả nước.
6. Kết quả dự kiến đạt được:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sẽ phải nghiên cứu, giải quyết được những
vấn đề sau:
a. Nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về khu công nghiệp, vai
trò của các khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội; cơ sở lý luận về quản lý
nhà nước đối với các khu công nghiệp.
b. Phân tích và đánh giá thực trạng công tác QLNN trong phát triển KCN ở Ninh Bình
thời gian qua qua đó đánh giá những kết quả đạt được cần phát huy và những mặt còn
tồn tại, hạn chế cần có giải pháp hoàn thiện.
c. Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN ở các KCN
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
7. Nội dung của luận văn:
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và kiến nghị, luận văn được kết cấu với 3 chương nội
dung chính:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà
nước đối với các khu công nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình.
- Chương 3: Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.


3


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của các khu công nghiệp
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến khu công nghiệp
Để có cái nhìn khái quát, chính xác về khu công nghiệp, tác giả đề cập đến khái niệm
khu công nghiệp và các khái niệm liên quan, dễ nhầm lẫn với khu công nghiệp như
khu kinh tế, cụm công nghiệp, khu chế xuất.
1.1.1.1. Khái niệm khu kinh tế, cụm công nghiệp.
- Khu kinh tế: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày
14/3/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế
(sau đây gọi là Nghị định số 29/2008/NĐ-CP) thì Khu kinh tế được hiểu như sau:
"3. Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và
kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Khu kinh tế được tổ chức thành các khu chức năng gồm: khu phi thuế quan, khu bảo
thuế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư,
khu hành chính và các khu chức năng khác phù hợp với đặc điểm của từng khu kinh
tế."
Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính
phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế bổ sung một số nội
dung về khu kinh tế như sau:
" Khu kinh tế ven biển là khu kinh tế hình thành ở khu vực ven biển và địa bàn lân cận
khu vực ven biển, được thành lập theo các điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP.
Khu kinh tế cửa khẩu là khu kinh tế hình thành ở khu vực biên giới đất liền và địa bàn

lân cận khu vực biên giới đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và được

4


thành lập theo các điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐCP.
Khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu được gọi chung là khu kinh tế, trừ trường
hợp quy định cụ thể.”
- Cụm công nghiệp (CCN): Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 68/2017/NĐ-CP
ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triền cụm công nghiệp thì khái niệm
cụm công nghiệp được hiểu như sau:
"1. Cụm công nghiệp là nơi sản xuất, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được
đầu tư xây dựng nhằm thu hút, di dời các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp
tác vào đầu tư sản xuất kinh doanh.
Cụm công nghiệp có quy mô diện tích không vượt quá 75 ha và không dưới 10 ha.
Riêng đối với cụm công nghiệp ở các huyện miền núi và cụm công nghiệp làng nghề
có quy mô diện tích không vượt quá 75 ha và không dưới 5 ha.
2. Cụm công nghiệp làng nghề là cụm công nghiệp phục vụ di dời, mở rộng sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, cơ sở sản xuất hộ
gia đình, cá nhân trong làng nghề nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, phát
triển nghề, làng nghề ở địa phương.
3. Chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp là doanh nghiệp, hợp tác xã,
đơn vị được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam thực hiện
đầu tư xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật cụm công
nghiệp."
1.1.1.2. Khái niệm khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trên thế giới loại hình khu công nghiệp đã có một quá trình lịch sử phát triển hơn 100
năm nay bắt đầu từ những nước công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ cho đến những
nước có nền kinh tế công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,…và hiện

nay vẫn đang được các quốc gia học tập và kế thừa kinh nghiệm để tiến hành công
nghiệp hóa. Tùy điều kiện từng nước mà KCN có những nội dung hoạt động kinh tế
5


khác nhau và có những tên gọi khác nhau nhưng chúng đều mang tính chất và đặc
trưng của KCN. Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phát triển KCN, cũng từ đó hình
thành hai định nghĩa khác nhau về KCN.
Định nghĩa 1: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng lớn, có ranh giới địa lý xác
định, trong đó chủ yếu là phát triển các hoạt động sản xuất công nghiệp và có đan xen
với nhiều hoạt động dịch vụ đa dạng; có dân cư sinh sống trong khu. Ngoài chức năng
quản lý kinh tế, bộ máy quản lý các khu này còn có chức năng quản lý hành chính,
quản lý lãnh thổ. KCN theo quan điểm này về thực chất là khu hành chính – kinh tế
đặc biệt như các công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
Định nghĩa 2: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư
sinh sống và được tổ chức hoạt động theo cơ chế ưu đãi cao hơn so với các khu vực
lãnh thổ khác. Theo quan điểm này, ở một số nước và vùng lãnh thổ như Malaysia,
Indonesia, …đã hình thành nhiều KCN với quy mô khác nhau và đây cũng là loại hình
KCN nước ta đang áp dụng hiện nay.
Tại Việt Nam, KCN được đề cập đến từ khi miền Bắc xây dựng khu Gang thép Thái
Nguyên (1959); miền Nam xây dựng KCN Biên Hòa (1963); nhưng chỉ đến khi có
Quy chế Khu công nghiệp ban hành kèm theo Nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994,
khái niệm KCN mới chính thức được nêu ra như sau: "Khu công nghiệp quy định
trong Quy chế này là Khu công nghiệp tập trung do Chính phủ quyết định thành lập,
có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ
trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống.". Trong Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1996, khái niệm KCN, KCX được nêu tại Khoản 14 và 16 Điều 2 như sau: "Khu
chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, do

Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập; Khu công nghiệp là khu chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, do Chính
phủ thành lập hoặc cho phép thành lập.". Trong Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ
cao (KCNC) ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ, khái
niệm KCN được nêu tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 như sau: "Khu công nghiệp" là khu

6


tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong khu công
nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất; "Khu chế xuất" là khu công nghiệp tập trung
các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không
có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Theo Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 thì KCN là khu chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa
lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Hiện nay, khái niệm KCN và KCX được quy định tại các văn bản pháp luật đang có
hiệu lực thi hành là Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 (Luật Đầu tư số
67) và Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ như sau:
Khoản 10, Khoản 11 Điều 3 Luật Đầu tư số 67 quy định: " Khu chế xuất là khu công
nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu
và hoạt động xuất khẩu"; " Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định,
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp".
Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính
phủ quy định: "Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập
theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này"; "Khu chế xuất là khu

công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều
kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp quy định tại Nghị định này.
Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp
quy định cụ thể.".
1.1.2. Các đặc điểm của khu công nghiệp
1.1.2.1. Đặc điểm tự nhiên của khu công nghiệp

7


Đối với mỗi KCN tại các vùng lãnh thổ khác nhau sẽ có đặc điểm tự nhiên đặc trưng
của vùng lãnh thổ đó; tuy nhiên, nhìn chung KCN ở nước ta có những đặc điểm tự
nhiên đặc thù như sau:
KCN thường được xây dựng ở những nơi có vị trí địa lý thuận lợi như gần các đường
giao thông, thuận tiện trong giao lưu với các trung tâm kinh tế lớn, gần cảng, biển, sân
bay…
KCN đòi hỏi phải có diện tích đất khá lớn, tập trung tại một địa điểm, địa hình tương
đối bằng phẳng, thích hợp cho xây dựng các công trình công nghiệp, gần nguồn nước,
có cơ sở hạ tầng thích hợp.
1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của các khu công nghiệp
KCN thường tập trung nhiều nhà máy, doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế
tạo khác nhau, đồng thời cũng sử dụng lượng lớn nguyên, nhiên vật liệu, năng lượng
và thải ra lượng chất thải khổng lồ. Do tính tập trung sản xuất công nghiệp ở mật độ
cao như vậy nên các KCN thường gây ra các tác động môi trường tiêu cực như tiếng
ồn, ô nhiễm nguồn nước, không khí.
Các KCN thường được xác định ranh giới cụ thể bằng hệ thống hàng rào KCN. Cơ sở
hạ tầng kỹ thuật trong KCN được chủ trương xây dựng đồng bộ nhằm hướng đến lợi
ích chung, phục vụ tối ưu cho hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ
phục vụ mục đích công nghiệp, không phục vụ mục đích sống dân cư, kể cả người Việt

Nam, người nước nước ngoài làm việc tại KCN.
1.1.2.3. Đặc điểm xã hội và hành chính của các khu công nghiệp
KCN sử dụng lượng lao động lớn nên kéo theo nhiều hậu quả xã hội. Dễ thấy nhất là
vấn đề người lao động ngụ cư. Những người này vừa không có nhà ở, không có sự hỗ
trợ của gia đình, không ổn định nên rất khó quản lý. Hơn nữa, sự biến động đột biến
của lượng lao động ngụ cư có thể gây sức ép lên hệ thống giáo dục, y tế và nhà ở của
địa phương.
Hơn nữa, trong quá trình vận hành các KCN thường xuất hiện các xung đột giữa người
sử dụng lao động và người lao động, dễ dẫn đến các cuộc đình công, bãi công lớn do

8


tính chất lây truyền và do các doanh nghiệp ở gần nhau. Nếu các tổ chức chính trị, xã
hội không khéo léo giải quyết các xung đột này có thể gấy bất ổn cho cả vùng.
Ngoài ra, các KCN cũng đòi hỏi có cơ quan quản lý và điều hành chung các vấn đề
trong khu. Nếu cơ quan này không được thiết kế và vận hành tốt thì hiệu quả hoạt
động của KCN sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
1.1.3. Vai trò kinh tế - xã hội của các khu công nghiệp
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các KCN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân, nhất là các nước đang phát triển thì việc hình thành các
KCN đã tạo ra được cơ hội phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa rút
ngắn bởi có thể kết hợp và học tập được những thành tựu mới nhất về khoa học công
nghệ, về tổ chức và quản lý doanh nghiệp, đồng thời tranh thủ được nguồn vốn đầu tư
từ nước ngoài để phát triển, cụ thể:
1.1.3.1. Thu hút vốn đầu tư trong vào ngoài nước để phát triển nền kinh tế:
- KCN với đặc điểm là nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện đại và
thu hút các nhà đầu tư cùng đầu tư trên một vùng không gian lãnh thổ, do vậy đó là nơi
tập trung và kết hợp sức mạnh nguồn vốn trong và ngoài nước. Với quy chế quản lý
thống nhất và các chính sách ưu đãi, các KCN đã tạo ra một môi trường đầu tư kinh

doanh thuận lợi, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài; hơn nữa việc phát
triển các KCN cũng phù hợp với chiến lược kinh doanh của các tập đoàn, công ty đa
quốc gia trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tranh thủ ưu đãi thuế quan
từ phía nước chủ nhà, tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận và khai thác thị trường mới ở
các nước đang phát triển. Do vậy, KCN giúp cho việc tăng cường huy động vốn và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho phát triển kinh tế xã hội và là đầu mối quan trọng
trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và là giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là một trong
những nhân tố quan trọng giúp quốc gia thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác sự hoạt động của đồng vốn có nguồn
gốc từ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã tác động tích cực thúc đẩy sự lưu thông và
hoạt động của đồng vốn trong nước.

9


- Việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước đầu tư vào KCN bằng nhiều
hình thức, đa dạng sẽ thu hút được một nguồn vốn lớn trong nước tham gia đầu tư vào
các KCN. Đây là nguồn vốn tiềm tàng rất lớn trong xã hội chưa được khai thác và sử
dụng hữu ích. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước tham gia xây dựng
hạ tầng KCN và đầu tư sản xuất trong KCN sẽ tạo sự tin tưởng và là động lực thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào KCN. Thực tế trong thời gian vừa qua, các KCN
đã thu hút được khá nhiều các nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế xã hội
của quốc gia nói chung và từng địa phương nói riêng.
1.1.3.2. Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ và góp phần tăng nguồn
thu ngân sách
Sự phát triển các KCN có tác động rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Hàng hóa sản xuất ra từ các KCN
chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số lượng hàng hóa xuất khẩu của địa phương và của
cả nước. Khi các KCN mới bắt đầu đi vào hoạt động, lúc này nguồn thu ngoại tệ của

các KCN chưa đảm bảo vì các doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu được để nhập
khẩu công nghệ, dây chuyền, máy móc thiết bị … nhưng cái lợi thu được là nhập khẩu
nhưng không mất ngoại tệ. Khi các doanh nghiệp đi vào sản xuất ổn định, có hiệu quả
thì lúc đó nguồn thu ngoại tệ bắt đầu tăng lên nhờ hoạt động xuất khẩu của các doanh
nghiệp KCN. Ngoài ra, hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua việc cung ứng nguyên
vật liệu của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp chế xuất hoạt động
trong KCN và việc một số doanh nghiệp chế xuất tổ chức gia công một số chi tiết, phụ
tùng, một số công đoạn tại các doanh nghiệp trong nước góp phần vào quá trình nội
địa hóa trong cơ cấu giá trị sản phẩm của các doanh nghiệp. Ngoài ra, các KCN cũng
đóng góp đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương và đóng góp
chung cho nguồn thu của quốc gia.
1.1.3.3. Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại và kích
thích sự phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp trong nước
Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước trên thế giới cho thấy việc áp dụng tiến bộ
khoa học công nghệ tiên tiến của các nước đi trước là một trong những bí quyết để
phát triển và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa (CNH). Việc tiếp cận và vận dụng
linh hoạt kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia là một

10


trong những giải pháp mà các nước đang phát triển áp dụng nhằm rút ngắn thời gian
của quá trình công nghiệp hóa. Cùng với sự hoạt động của các KCN một lượng không
nhỏ các kỹ thuật công nghệ tiên tiến, dây chuyền sản xuất đồng bộ, kỹ năng quản lý
hiện đại…đã được chuyển giao và áp dụng thành công trong các ngành công nghiệp;
Việc chuyển giao công nghệ của khu vực FDI tới các doanh nghiệp trong nước đã góp
phần thúc đẩy vào việc tăng năng suất, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong các ngành
công nghiệp. KCN thúc đẩy sự phát triển năng lực khoa học công nghệ góp phần tạo ra
những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, công nghệ mới, sản phẩm mới, phương
thức sản xuất, kinh doanh mới… giúp cho nền kinh tế từng bước chuyển dịch theo

hướng kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế và phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) của quốc gia.
KCN là nơi tập trung hóa sản xuất cao và từ việc được tổ chức sản xuất khoa học,
trang bị công nghệ kỹ thuật tiên tiến của các doanh nghiệp FDI, các cán bộ quản lý,
công nhân kỹ thuật làm việc tại các KCN sẽ được đào tạo và đào tạo lại về kinh
nghiệm quản lý, phưong pháp làm việc với công nghệ hiện đại, tác phong công nghiệp
…. Những kết quả này có ảnh hưởng gián tiếp và tác động mạnh đến các doanh nghiệp
trong nước trong việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản
phẩm, thay đổi phương pháp quản lý … để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đạt
hiệu quả kinh tế cao. Sự có mặt của các tập đoàn công nghiệp, các tập đoàn đa quốc
gia, các công ty có uy tín trên thế giới trong các KCN cũng là một tác nhân thúc đẩy
phát triển công nghiệp phụ trợ theo hướng liên doanh, liên kết. Thông qua đó cho phép
các công ty trong nước có thể vươn lên trở thành các nhà cung cấp đạt tiêu chuẩn quốc
tế và trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, các công ty đa quốc gia.
1.1.3.4. Tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực
Xây dựng và phát triển KCN đã thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc tại các
KCN và đã có tác động tích cực tới việc xóa đói giảm nghèo và giảm tỷ lệ thất nghiệp
trong cộng đồng dân cư đồng thời góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp
gây nên. Phát triển KCN góp phần quan trọng trong việc phân công lại lực lượng lao
động trong xã hội, đồng thời thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường lao động
có trình độ và hàm lượng chất xám cao. Quan hệ cung cầu lao động diễn ra ở thị

11


trường này diễn ra gay gắt chính là động lực thúc đẩy người sử dụng lao động, người
lao động phải rèn luyện và không ngừng học tập, nâng cao trình độ tay nghề. Như vậy,
KCN đóng góp rất lớn vào việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ
thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế
và hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại thông qua việc xây dựng

các cơ sở đào tạo nghề, liên kết gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm giữa các
doanh nghiệp KCN với nhà trường.
1.1.3.5. Thúc đẩy việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng và là hạt nhân hình thành
đô thị mới
Xây dựng và phát triển các KCN trong phạm vi từng tỉnh, thành phố, vùng kinh tế và
quốc gia là hạt nhân thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng
trong và ngoài KCN tại các địa phương, cụ thể:
Cùng với quá trình hình thành và phát triển KCN, kết cấu hạ tầng của các KCN được
hoàn thiện; kích thích phát triển kinh tế địa phương thông qua việc cải thiện các điều
kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực, gia tăng nhu cầu về các dịch vụ phụ trợ, góp
phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở kinh doanh, dịch vụ trong khu vực;
góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút các dự án đầu
tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng năng lực
sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cư, tạo điều kiện để
các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị, tái tạo và
hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng trong khu vực;
Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm bảo sự liên
thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển các khu dân cư mới, các
khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch vụ… các công trình
hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong khu vực như: nhà ở,
trường học, bệnh viện, khu giải trí…;

12


Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư vào các ngành như điện,
giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động dịch vụ tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, phát triển thị trường địa ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt động

và phát triển của các KCN;
Phát triển KCN là hạt nhân hình thành đô thị mới, mang lại văn minh đô thị góp phần
cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho khu vực rộng lớn được đô thị hóa.
1.1.3.6. Phát triển KCN gắn với bảo vệ môi trường sinh thái
Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải khai thác và sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Do vậy để một doanh nghiệp đơn
lẻ xây dựng các công trình xử lý chất thải rất tốn kém, khó có thể đảm bảo được chất
lượng nhất là trong điều kiện hiện nay ở nước ta phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
KCN là nơi tập trung số lượng lớn nhà máy công nghiệp, do vậy có điều kiện đầu tư
tập trung trong việc quản lý, kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. Chính vì
vậy việc xây dựng các KCN là tạo thuận lợi để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm
từ nội thành, khu dân cư đông đúc, hạn chế một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, cải
thiện môi trường theo hướng thân thiện với môi trường phục vụ mục tiêu phát triển
bền vững.
Ngoài ra, KCN còn là động lực thúc đẩy việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế, hệ
thống pháp luật, thủ tục hành chính, góp phần cơ cấu lại lĩnh vực phân phối, lưu thông
và dịch vụ xã hội; tạo điều kiện cho các địa phương phát huy thế mạnh đặc thù của
mình, đồng thời hình thành mối liên kết, hỗ trợ phát triển sản xuất trong từng vùng,
miền và cả nước; từ đó tạo ra những năng lực sản xuất, ngành nghề và công nghệ mới,
làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu vực toàn tuyến hành lang kinh
tế nói chung từng bước chuyển biến theo hướng một nền kinh tế CNH, thị trường, hiện
đại.
1.2. Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại địa phương
1.2.1 Khái niệm
Quản lý nhà nước đối với các KCN có thể được hiểu theo các cách như sau:

13


Quản lý nhà nước đối với các KCN là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của

Nhà nước lên các KCN nhằm đảm bảo cho các KCN được phát triển theo quy định,
chủ động phối hợp mục đích riêng của từng doanh nghiệp nhằm đạt tới mục đích
chung của nền kinh tế.
Quản lý nhà nước đối với KCN là quá trình nhà nước sử dụng quyền lực tác động vào
sự hình thành các KCN, hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp và điều chỉnh các
hoạt động tại các KCN diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.2 Nội dung quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp
Nội dung quản lý nhà nước đối với KCN được quy định tại Điều 22 Nghị định số
29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ như sau:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch và chính sách về phát triển khu
công nghiệp, khu kinh tế.
- Ban hành, hướng dẫn, phổ biến và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật và tiêu
chuẩn quy phạm kỹ thuật có liên quan đến việc thành lập, đầu tư, xây dựng, phát triển
và quản lý hoạt động của khu công nghiệp, khu kinh tế; xây dựng và quản lý hệ thống
thông tin về khu công nghiệp, khu kinh tế; tổ chức thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư
vào khu công nghiệp, khu kinh tế.
- Cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, các loại giấy phép, chứng chỉ, chứng nhận, tổ chức thực hiện các thủ tục hành
chính nhà nước và dịch và hỗ trợ có liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh
doanh của các tổ chức, cá nhân trong khu công nghiệp, khu kinh tế.
- Tổ chức bộ máy, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cơ quan quản lý nhà nước về
khu công nghiệp, khu kinh tế.
- Hướng dẫn, hỗ trợ, đánh giá hiệu quả đầu tư, kiểm tra, giám sát, thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm và giải quyết các vấn đề phát sinh trong
quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế.
1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp

14



1.2.3.1. Tư duy, nhận thức của người lãnh đạo và cán bộ quản lý
- Người lãnh đạo là nhân tố tích cực nhất, chủ động nhất trong quá trình quyết sách, là
người có quyền lớn nhất trong việc điều khiển quá trình xây dựng và thi hành chính
sách. Sự thành bại của chính sách phụ thuộc nhiều vào người lãnh đạo.
- Đội ngũ cán bộ trong các cơ quan quản lý Nhà nước về KCN đóng vai trò quan trọng
trong triển khai hoạch định chính sách KCN. Năng lực được thể hiện trong các mặt
như phân tích và dự báo phát triển kinh tế - xã hội; năng lực lựa chọn vấn đề phải giải
quyết; năng lực đề xuất mục tiêu và biện pháp giải quyết vấn đề.
- Đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách KCN có trình độ, năng lực tốt sẽ có khả năng
hoàn thành các đề án chính sách KCN với khối lượng công việc phân tích lớn, đạt độ
chính xác cao trong một thời gian ngắn. Do vậy người tham gia hoạch định cần phải có
khả năng ứng dụng và làm chủ những công nghệ hiện đại, có khả năng tiếp cận thực tế
để có được thông tin xác thực cho quá trình phân tích và hoạch định chính sách KCN.
Đồng thời họ còn có khả năng nhận thức chính trị tốt.
1.2.3.2. Bối cảnh kinh tế - xã hội trong và ngoài nước.
Các chính sách KCN ở nước ta hiện nay được hoạch định và thực thi trong bối cảnh
nền kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động phức tạp. Xu hướng toàn cầu hóa
về nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là từ
khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO. Tiến trình này đặt các KCN nước ta trước những
thời cơ và thách thức mới, đó là cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu công
nghệ tiên tiến của thế giới nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH – HĐH) và thách thức trước áp lực cạnh tranh
hết sức gay gắt do thị trường được mở cửa, hàng rào bảo hộ doanh nghiệp trong nước
ngày càng giảm bớt.
1.2.3.3. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là ứng dụng công
nghệ thông tin.
- Thời đại toàn cầu hóa hiện nay là thời đại mà thông tin, tri thức của thế giới được
triển khai với tốc độ không gì so sánh được, nhu cầu xã hội ngày càng đa dạng, chu kỳ
thay đổi ngày càng ngắn. Điều đó đòi hỏi các quyết sách của Chính phủ phải nhạy bén,


15


kịp thời. Các thông tin, tin tức được truyền đi nhanh chóng, khoảng cách không gian
giữa các cá nhân, giữa các tổ chức được thu hẹp. Quyền được thông tin, quyền được
tham gia của người dân vào các quyết định chính sách của Chính phủ không ngừng
phát triển.
- Sự ra đời của internet và việc tự động hóa công việc đang dần thay đổi tập quán quản
lý và điều hành theo cách truyền thống, công tác quản lý của Chính phủ ngày càng cần
sử dụng nhiều công nghệ thông tin, thực hiện số hóa “chính phủ trên mạng”, “chính
phủ điện tử” đang xuất hiện.
1.2.3.4. Kinh phí cần thiết
Các hoạt động quản lý nhà nước nào cũng đòi hỏi phải có một nguồn kinh phí nhất
định. Nguồn kinh phí để chi phí cho các hoạt động này thường được lấy từ ngân sách
Nhà nước, do các tổ chức Nhà nước và tư nhân đóng góp, hoặc do nước ngoài tài trợ.
Do vậy nguồn kinh phí phải đủ để duy trì hoạt động.
1.2.4. Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp
1.2.4.1. Tính phù hợp của chiến lược, quy hoạch và các chính sách quản lý nhà nước
đối với các khu công nghiệp
Việc đánh giá tổng hợp tính phù hợp quản lý nhà nước đối với các KCN phải trên cơ
sở tổng hợp nội dung của chính sách gắn với từng chuỗi kết quả của quá trình thực thi,
điều này phải dựa vào khâu hoạch định chính sách và trong hoàn cảnh cụ thể thực thi
chính sách quản lý nhà nước các KCN.
Vị trí KCN là thước đo quan trọng đánh giá tính phù hợp của quản lý nhà nước các
KCN từ giai đoạn xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và vận hành chúng, nó
cho thấy tính hợp lý, đồng bộ, khoa học và hiệu quả của KCN. Các tiêu chí cụ thể bao
gồm: (i) Sự bố trí khoa học các KCN trong phạm vi không gian vùng (đây là điều kiện
thúc đẩy tăng cường sự liên kết giữa các KCN); (ii) Bố trí vị trí KCN trong không gian
địa phương: vị trí so với khu dân cư; so với vị trí đường giao thông; và (iii) Nguồn gốc
đất đai cho phát triển KCN nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, bảo vệ và cải thiện

môi trường và thu hút lao động.

16


Mặt khác, đây là dấu hiệu dẫn đến sự thành công của quản lý nhà nước các KCN. Các
tiêu chí cụ thể là: KCN đặt ở vị trí thuận lợi hay khó khăn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật
như đường sá, bến cảng, nhà ga, sân bay, hệ thống viễn thông; chất lượng các dịch vụ
xã hội của địa phương... Ngoài ra, khi xét đến vị trí của KCN cũng cần xem xét đến
yếu tố tác động kinh tế - xã hội và môi trường mà KCN có thể mang lại. Tất cả những
dấu hiệu này phải cần được xem xét cả ở hiện tại và khả năng duy trì nó trong tương
lai lâu dài của KCN.
1.2.4.2. Tính khả thi chính sách và biện pháp quản lý nhà nước đối với các KCN
Đánh giá quản lý nhà nước đối với các KCN dựa vào tiêu chí đảm bảo các yếu tố công
bằng khác sự phát triển của các KCN.
Đánh giá quản lý nhà nước đối với các KCN cũng tính tới mối quan hệ tương quan
giữa mục tiêu chính trị, kinh tế và xã hội cụ thể trong giai đoạn đổi mới ở từng nước,
phù hợp với quá trình hội nhập mà những áp lực mà từng nước cam kết trong lộ trình
hội nhập, sự ra đời các chính sách quản lý nhà nước đối với các KCN phải đảm bảo
hợp với quy luật của sự phát triển, phải dựa vào tiến trình chuyển giao, áp dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật của đất nước, phải hướng tới các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế để tạo ra cơ sở vật chất, phúc lợi xã hội, tiếp tục thực thi bền vững các chính
sách khác.
Để kết quả thu được như mong muốn khi đánh giá quản lý nhà nước đối với các KCN,
nhất là tính bền vững, thích đáng thì khi xây dựng chính sách trong mỗi giai đoạn phát
triển phải xác định đầy đủ mức độ hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và
tiến bộ xã hội, sự phù hợp, hỗ trợ cho nhau càng cao thì hiệu quả để đạt được các mục
tiêu càng lớn, bản thân mỗi một chính sách cũng hàm chứa đầy đủ các nội dung và ý
nghĩa của chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
1.2.4.3. Tính hiệu lực của các chính sách và biện pháp quản lý nhà nước đối với các

KCN
Hiệu lực của quản lý nhà nước đối với các KCN phản ánh tác động ảnh hưởng của
chính sách quản lý trong quá trình thực thi, khả năng duy trì hay biến đổi trên thực tế
so với mong muốn của nhà nước.

17


Đánh giá hiệu lực của quản lý nhà nước đối với các KCN nhằm đưa ra kết luận về các
kết quả của từng nội dung của chính sách có giá trị hay không? Cụ thể:
- Quy mô diện tích KCN: Quy mô diện tích tự nhiên KCN phù hợp được đánh giá dựa
trên tính hợp lý của quy mô so với mục đích và tính chất hoạt động của KCN.
- Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê trong diện tích đất tự nhiên KCN.
Tiêu chí này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất trong
KCN; nó thể hiện mật độ của các doanh nghiệp sản xuất trong KCN. Nếu tỷ lệ này quá
thấp sẽ gây lãng phí về mặt bằng, việc khai thác kém hiệu quả; còn nếu tỷ lệ này quá
cao thì phần diện tích dành cho giao thông, sân chơi, cây xanh và môi trường… sẽ
thấp gây ảnh hưởng đến khả năng hoạt động cũng như môi trường thông thoáng trong
KCN.
- Tỷ lệ lấp đầy KCN: Chỉ số này được đo bằng tỷ lệ giữa diện tích đất KCN đã cho các
doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ thuê và tổng diện tích đất có khả năng cho thuê của
KCN. Chỉ số này cho phép đánh giá mức độ thành công về thu hút đầu tư của KCN và
so sánh giữa KCN với các KCN khác trong việc khai thác, sử dụng đất đai. Một KCN
có tỷ lệ diện tích được lấp đầy là 100% là KCN đã khai thác triệt để phần diện tích đất
công nghiệp có thể cho thuê, không còn phần diện tích đất trống. Tất nhiên tỷ lệ lấp
đầy không thể đạt cao ngay từ đầu mà nó phải được đánh giá theo từng giai đoạn.
- Sự gia tăng ổn định về mặt sản lượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong KCN: Đây là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá tính ổn định lâu dài
về kinh tế đảm bảo hoạt động sản xuất của KCN. Đo lường tiêu chí này có thể dựa trên
các chỉ số cụ thể về quy mô và tốc độ tăng trưởng các chỉ số đầu ra: (i) Quy mô, tốc độ

tăng trưởng về giá trị sản xuất (GTSX), (ii) giá trị gia tăng và (iii) đóng góp với ngân
sách nhà nước của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN.
- Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong KCN: Có nhiều chỉ số để đánh giá tiêu
chí này như: Tổng số lao động thu hút; tổng vốn kinh doanh; tỷ lệ giá trị gia tăng so
với tổng doanh thu... nhưng nổi bật lên trên hết là hai chỉ số có thể thu thập và xác
định khá dễ dàng là: (i) Doanh thu trên một đơn vị lao động (Năng suất lao động) và
(ii) Doanh thu trên một đơn vị diện tích. Việc đánh giá các chỉ số này phải dựa trên

18


mức và tốc độ tăng trưởng của các con số đó. Điều đó cho phép kết luận về khả năng
duy trì tính bền bỉ trong hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp.
- Trình độ công nghệ của doanh nghiệp và các hoạt động triển khai khoa học công
nghệ vào sản xuất kinh doanh. Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong KCN, giữa KCN với các KCN khác trong nước và quốc tế. Tiêu
chí này thể hiện bằng các chỉ số: (i) cơ cấu trình độ công nghệ của máy móc thiết bị sử
dụng trong KCN theo tỷ lệ vốn sản xuất trên 1 lao động và tỷ lệ vốn đầu tư trên một dự
án; Quốc gia đầu tư, tính chất công nghệ; (ii) Tỷ lệ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và
triển khai trong tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp, tỷ lệ doanh thu từ hoạt động
nghiên cứu và triển khai so với tổng quy mô hoạt động của doanh nghiệp và của toàn
KCN.
- Hoạt động liên kết sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN: Đây cũng là tiêu chí
phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của toàn KCN, tính chất tiên tiến trong tổ chức
sản xuất và sự phù hợp với xu thế phát triển của phân công lao động xã hội theo hướng
hiện đại. Tiêu chí này thể hiện trên các khía cạnh: (i) Tính chất chuyên ngành của
KCN hay số ngành kinh tế trong KCN; (ii) Tỷ lệ số doanh nghiệp có liên kết sản xuất
với nhau trong tổng số doanh nghiệp nằm trong KCN; (iii) Tỷ lệ số doanh nghiệp có
liên kết sản xuất với doanh nghiệp trong KCN khác và các doanh nghiệp khác bên
ngoài KCN.

1.2.4.4. Tính hiệu quả của các chính sách và biện pháp nhà nước đối với các KCN
Hiệu quả của quản lý nhà nước đối với các KCN thường được xác định từ hiệu quả
tổng hợp cả về kinh tế và xã hội, để xác định tương quan định lượng giữa chi phí thực
thi chính sách bỏ ra và lợi ích thu lại thì hiệu quả phải tính thêm những tác hại phụ khi
thực thi chính sách, ví dụ như độ thỏa mãn nhu cầu của các nhà đầu tư. Nhóm tiêu chí
này phản ánh sức hấp dẫn của các KCN đối với các nhà đầu tư cả trong giai đoạn thu
hút đầu tư và quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong KCN. Nó bao gồm một
nhóm các yếu tố phản ánh mức độ tiện lợi của hệ thống dịch vụ trong KCN tạo điều
kiện thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư. Cụ thể là: (i) Mức độ
bảo đảm của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của KCN: Hệ thống cung ứng điện, nước,
hệ thống hạ tầng trong, ngoài KCN: đường xá, kho bãi… (ii) Năng lực các ngành công

19


nghiệp hỗ trợ, chất lượng hoạt động các ngành logistics phục vụ hoạt động cho các
doanh nghiệp trong KCN như: bưu chính, thông tin, tài chính, ngân hàng,... (iii) Các
chỉ số về nguồn nhân lực với tư cách là nguồn lực đầu vào cho hoạt động của KCN,
bao gồm khả năng tuyển dụng lao động hay tính sẵn có về số và chất lượng lao động
địa phương khi doanh nghiệp cần tuyển dụng và giá nhân công của địa phương này so
với các địa phương khác trong cả nước và nước ngoài.
Trong quá trình thực thi quản lý nhà nước đối với các KCN, do có nhiều nội dung của
nhiều chỉ tiêu không thể lượng hóa được vì các nội dung này mang tính xã hội cao bên
cạnh nền kinh tế thị trường, do vậy hiệu quả vừa được xác định theo định tính (hiệu
quả xã hội) vừa được xác định theo định lượng (hiệu quả kinh tế). Hiệu quả theo định
lượng được đánh giá cao khi nó phù hợp với hiệu quả của các chính sách khác, thậm
chí nó bổ sung cho nhau để tăng thêm lợi ích chung cho xã hội.
1.3. Cơ sở pháp lý quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp
* Hệ thống luật:
- Luật chung như: Luật Đầu tư; Luật Doanh nghiệp; Luật Xây dựng; Luật Bảo vệ Môi

trường; Luật Đất đai; Luật Lao động; Luật Thương mại, các Luật chuyên ngành khác
và các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật trên.
- Quy định pháp lý riêng cho KCN: Tuỳ mỗi nước, các quy định này có thể được ban
hành thành luật hoặc văn bản pháp lý dưới luật. Ở nước ta, KCN được chế định bằng
Nghị định 36/CP ngày 23/4/1997 về ban hành quy chế KCN, KCX, KCNC; Nghị định
29/2008/NĐ-CP, ngày 14 tháng 3 năm 2008 Quy định về khu công nghiệp, khu chế
xuất và khu kinh tế; Các nghị định bổ sung điều chỉnh: Nghị định số 164/2013/NĐ-CP
ngày 12 tháng 11 năm 2013, Nghị định số 114/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm
2015; Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Các Nghị định này
chứa đựng nội dung, phương thức quản lý, trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước đối
với KCN.
* Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước liên quan đến KCN

20


* Các chính sách của Nhà nước: Như chính sách khuyến khích đầu tư, ưu đãi đầu tư,
xúc tiến đầu tư, chính sách lao động việc làm,...
1.4. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp
1.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại tỉnh Bình
Dương
"Bình Dương 20 năm phát triển: Kỳ 3 - Điểm sáng phát triển các khu công
nghiệp"
Trong thời gian qua, các khu công nghiệp (KCN) Bình Dương được xây dựng và phát
triển trong bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen nhau. Song với sự chỉ đạo kịp thời
của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các Bộ, ngành Trung ương, sự quyết tâm cao của các chủ đầu
tư và sự chủ động, linh hoạt của các doanh nghiệp KCN đã giúp cho các KCN tiếp tục
giữ vững ổn định và phát triển, góp phần thực hiện hoàn thành kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Dương, đưa Bình Dương trở

thành điểm sáng của cả nước trong phát triển các KCN.
Đầu tư tốt hạ tầng KCN
Thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 và
tận dụng các cơ chế mới sau khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987,
Bình Dương đã tiến hành thành lập các KCN Bình Đường, Sóng Thần 1 vào năm 1995
để thu hút các dự án đầu tư, đến nay Bình Dương đã có 28 KCN được thành lập với
tổng diện tích quy hoạch gần 10.000 ha.
Về quy mô KCN, bình quân diện tích khoảng 336 ha/khu. KCN lớn nhất là KCN Việt
Nam - Singapore II mở rộng thuộc thị xã Tân Uyên với diện tích 1.008 ha, KCN nhỏ
nhất là KCN Bình Đường với diện tích 16,5 ha. So với cuối năm 2005, quy mô KCN
tăng gấp 1,85 lần (182 ha/khu). Theo quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt,
đến năm 2020, dự kiến toàn tỉnh sẽ có tổng cộng 35 KCN với tổng diện tích gần
14.000 ha.
Việc quy hoạch, hình thành, xây dựng và phát triển các KCN đã tạo điều kiện thuận lợi
trong việc thu hút các thành phần kinh tế vào đầu tư, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
21


đại hoá, nhất là ở các thị xã mới thành lập như Bến Cát, Tân Uyên. Điểm đặc biệt của
Bình Dương là không sử dụng vốn ngân sách để đầu tư phát triển hạ tầng trong các
KCN. Hiện tại, có 19 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây
dựng và kinh doanh hạ tầng KCN.
Đến nay các chủ đầu tư đã đầu tư trên 14.500 tỷ đồng để thực hiện công tác đền bù,
giải phóng mặt bằng đạt tỷ lệ 98% trên diện tích 9.234 ha và đầu tư xây dựng các hạng
mục công trình hạ tầng kỹ thuật đạt 88% tổng vốn đầu tư đã được phê duyệt, để đáp
ứng yêu cầu thu hút đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp tại các KCN.
Theo ông Nguyễn Văn Hùng - Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc
Becamex IDC, yếu tố đem lại sự thành công của các KCN ở Bình Dương là cơ sở hạ
tầng của các KCN được xây dựng hoàn chỉnh đấu nối thông suốt với các hạ tầng ngoài

hàng rào KCN, đáp ứng được các yêu cầu khắt khe nhất của nhà đầu tư. Bên cạnh đó,
hạ tầng xã hội như y tế, giáo dục được đầu tư xây dựng với chất lượng ngày càng cao.
Công tác cải cách thủ tục hành chính luôn được tỉnh quan tâm thực hiện nhằm tạo môi
trường đầu tư thông thoáng cho các doanh nghiệp.
Phát triển KCN gắn với phát triển đô thị, dịch vụ
Quan điểm phát triển KCN gắn với khu dân cư và đô thị lần đầu tiên được Bình
Dương thực hiện từ năm 2002 đối với quy hoạch KCN Mỹ Phước. Chỉ trong hai năm,
KCN Mỹ Phước đã trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và là tiền đề để phát triển
tiếp KCN Mỹ Phước 2, Mỹ Phước 3 theo mô hình quy hoạch trên và phát triển tiếp các
khu đô thị Mỹ Phước 2, Mỹ Phước 3, Bàu Bàng, Việt Nam - Singapore II. Các mô
hình quy hoạch KCN gắn với đô thị như hiện nay đã đánh dấu sự phù hợp của quan
điểm mới và cách nhìn mới về phát triển công nghiệp gắn với phát triển đô thị và dịch
vụ.
Đặc biệt, việc hình thành Khu Liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ với diện tích
khoảng 4.196 ha; trong đó đã quy hoạch 7 KCN và xây dựng Khu đô thị mới với diện
tích 1.000 ha. Đây sẽ là đô thị văn minh, hiện đại và là nền tảng để Bình Dương trở
thành đô thị loại I trước năm 2020. Đến nay, cơ sở hạ tầng kỹ thuật toàn khu đã tương
đối hoàn chỉnh, ngầm hoá hệ thống cáp quang, hoàn thiện một số hạ tầng xã hội như:

22


Trung tâm thể dục thể thao cộng đồng, hình thành và thu hút các cơ sở giáo dục xã hội
hoá chất lượng cao, các khu dân cư chất lượng cao, tuyến xe buýt tiêu chuẩn Nhật Bản
đầu tiên tại Việt Nam, trung tâm thương mại, trung tâm ăn uống, các công trình tôn
giáo, bệnh viện đa khoa mới 1.500 giường đang được xây dựng, các khu nhà ở xã hội,
đặc biệt, Trung tâm Hành chính tỉnh đã được đưa vào hoạt động từ tháng 2/2014.
Bên cạnh phát triển đô thị, phát triển các KCN còn góp phần tạo điều kiện phát triển
dịch vụ chất lượng cao mà khởi điểm là phát triển dịch vụ hậu cần cho phát triển công
nghiệp như: Logistics, vận tải, kho lạnh, ngân hàng, tài chính, nhà hàng, sân golf và

hiện nay, Bình Dương đã có khách sạn 5 sao, các khu resort nghỉ dưỡng, trung tâm
thương mại quy mô rộng 50.000 m2.
Có thể nói, trong 20 năm phát triển, các KCN đã làm thay đổi rất nhiều diện mạo kinh
tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Từ khi tái lập, đến nay, Bình Dương đã phát triển gồm 01
thành phố, 4 thị xã và 4 huyện với cơ sở hạ tầng đồng bộ và hạ tầng xã hội phát triển ở
mức tốt nhất, góp phần đưa Bình Dương trở thành đô thị loại I trước năm 2020.
Bài học kinh nghiệm:
Một là, cùng với những chủ trương chính sách của Nhà nước khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển, hệ thống chính sách của Nhà nước không ngừng được sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện tạo môi trường thuận lợi trong việc thu hút đầu tư; sự ủng hộ của
Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương; có sự thống nhất cao trong Đảng bộ, chính
quyền và các ngành, các cấp trong việc chỉ đạo, điều hành, quản lý KCN; đặc biệt là sự
đồng thuận của phần lớn người dân trong vùng giải tỏa, tạo điều kiện để KCN được
triển khai nhanh chóng, thuận lợi đáp ứng yêu cầu phát triển.
Hai là, quy hoạch hình thành KCN phải dựa trên lợi thế so sánh của vùng, có vị trí địa
lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, gắn với sự phát triển hệ thống giao thông trong và
ngoài hàng rào KCN, đấu nối các hạ tầng kỹ thuật (điện, nước, bưu chính viễn
thông...), đào nguồn lao động cung cấp cho KCN.
Ba là, lựa chọn chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN phải có năng lực tài chính,
kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và kinh nghiệm quản lý, có mối quan hệ

23


khách hàng rộng; đặc biệt là đội ngũ cán bộ kinh doanh phải có sự am hiểu về hoạt
động của KCN, để từ đó có khả năng tiếp thị, xúc tiến kêu gọi đầu tư vào KCN.
(Ban quản lý các KCN tỉnh Bình Dương, năm 2016)
1.4.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại tỉnh Đồng
Nai
Ngay từ cuối thập niên 80 thế kỷ XX, cùng với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà

nước tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Đồng Nai
đã thành lập nhóm nghiên cứu xây dựng khu chế xuất (sau này là KCN) tiến hành thu
thập và nghiên cứu tài liệu về khu chế xuất của các quốc gia và vùng lãnh thổ Hàn
Quốc, Đài Loan, ấn Độ, Malayxia, Inđônêxia; tiếp xúc các nhà đầu tư Thái Lan và Đài
Loan để kêu gọi đầu tư, làm nền móng cho sự phát triển các KCN cũng như chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Đồng Nai sau này.
Đồng Nai là một trong những địa phương quy hoạch phát triển các KCN sớm nhất cả
nước. Căn cứ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đồng Nai, ngay từ đầu
những năm 1990, Đồng Nai đã quy hoạch 17 KCN, nhưng qua quy hoạch chi tiết thực
tế đã chuẩn bị cho việc hình thành 23 KCN (do KCN Nhơn Trạch 2.700 ha chia thành
nhiều KCN nhỏ). Trong quá trình phát triển, Đồng Nai đã quy hoạch bổ sung KCN và
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đến năm 2020 phát triển 35 KCN với tổng
diện tích khoảng 12.055 ha.
Tính đến ngày 31/5/2017, tại 32 KCN Đồng Nai đã cho thuê được 4.890,53ha, đạt tỷ
lệ 71,56% diện tích đất công nghiệp dành cho thuê (6.833,77ha).Các KCN đã đầu tư
hệ thống hạ tầng tương đối hoàn chỉnh với giá trị đạt 380 triệu USD và 6.637 tỷ đồng,
đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài và tác động
mạnh đến quá trình đô thị hóa. Hiện có 28 trong tổng số 32 KCN đã hoàn thiện hệ
thống hạ tầng với chất lượng tốt, đảm bảo theo đúng quy hoạch và đáp ứng nhu cầu
của nhà đầu tư, 04 KCN đang trong quá trình hoàn thiện hạ tầng. Các KCN của tỉnh
đều đảm bảo ưu tiên đầu tư hệ thống hạ tầng xử lý môi trường của KCN, hiện nay các
KCN khi đi vào hoạt động đều đã hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tập trung trước
khi tiếp nhận dự án đầu tư. Đặc biệt, Đồng Nai là tỉnh đầu tiên trên cả nước ban hành
bộ tiêu chí đánh giá xếp hạng các KCN theo Quyết định số 2047/QĐ-UBND ngày
24


06/7/2007 của UBND tỉnh Đồng Nai. Đề tài xếp hạng KCN được hội đồng thẩm định
là các chuyên gia kinh tế đánh giá cao, xếp loại xuất sắc vì tính cần thiết và là vấn đề
mới trong quá trình phát triển ngày càng nhiều KCN, nhất là khi yếu tố cạnh tranh

được tính đến như là một lợi thế để thu hút đầu tư.
Việc sử dụng đất vào phát triển KCN Đồng Nai đạt hiệu quả cao, tỷ lệ sử dụng đất tự
nhiên của 32 KCN chiếm 1,67% diện tích đất của tỉnh, đóng góp trên 40% GDP của
tỉnh. Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng đất của KCN cao hơn nhiều so với các ngành
khác. Mặt khác, các KCN trên địa bàn tỉnh chủ yếu được sử dụng từ đất đồi bạc màu;
các khu đất không phải là đất chuyên trồng lúa nước và không phải là khu vực có các
điểm khoáng sản; khu vực có dân cư thưa thớt, tọa lạc trên các khu đất canh tác và
phần lớn là nhà tạm, không có công trình kiên cố… Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công
nghiệp của các KCN hiện nay đạt 67,49%, trong đó có nhiều KCN đạt tỉ lệ lấp đầy cao
như KCN Bàu Xéo, Định Quán, Biên Hòa I, Biên Hòa II, Amata, Loteco, Tam Phước,
Hố Nai, Sông Mây, Nhơn Trạch I, Nhơn Trạch II…
Trong hơn 20 năm qua, nhờ vận dụng linh hoạt những chủ trương, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và điều kiện thực tế của địa phương, các KCN Đồng Nai đạt được
những kết quả quan trọng trong việc tăng nhanh tốc độ thu hút vốn đầu tư vào Đồng
Nai. Những năm gần đây, Đồng Nai đã đạt kết quả cao trong việc thu hút vốn FDI cho
công nghiệp, đặc biệt là trong các KCN. Tại 32 KCN Đồng Nai hiện có 42 quốc gia và
vùng lãnh thổ hoạt động đầu tư với tổng số 1.510 dự án, trong đó có 1.100 dự án có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 21 tỷ USD và 410 dự án trong
nước với tổng vốn đầu tư 48.000 tỷ đồng.
Riêng trong năm 2016, các KCN thu hút được 93 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là
730 triệu USD, điều chỉnh tăng vốn đầu tư 95 lượt dự án FDI với mức vốn tăng là 745
triệu USD, 02 dự án FDI giảm vốn với số vốn 25,5 triệu USD. Tổng vốn FDI thu hút
được trong năm 2016 là 1,45 tỷ USD, đạt 145% so với kế hoạch (01 tỷ USD).
Một số tập đoàn lớn và các công ty có thương hiệu lớn trên thế giới đã chọn Đồng Nai
là điểm đến đầu tư như: Pouchen, CP, Nestle’, Hyosung, Formosa, Fujitsu, Philip,
Ajinomoto, Zamil Steel, Shell, Syngenta… Các dự án đầu tư vào các KCN Đồng Nai

25



×