Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CÂU HỎI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CÓ ĐÁP ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.94 KB, 14 trang )

CÂU 1: Trình bày các công cụ thực thi chính sách tiền tệ quốc gia ? Trả lời :
Gồm có 6 công cụ sau:
Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân
hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã
tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông
khả năng thanh toán của họ.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số
tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương
mại.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối
lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của
các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ
bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông,
mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi
suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung
ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân
hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức
tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải
chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó
vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối
đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến
tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán
quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của
chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều
nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng
cho chính sách tiền tệ.


CÂU 2: Trình bày các khoản thu Ngân sách Nhà nước ?
Trả lời:
Theo Luật NSNN hiện hành, nội dung các khoản thu NSNN bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
- Các khoản viện trợ;
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
1.Thuế.
Đây là hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước đến nay để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước. Tỉ lệ đóng góp của thuế vào ngân sách nhà nước luôn ở mức cao.
2. Phí và lệ phí
Phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, nhưng mang tính đối giá, nghĩa là phí và lệ phí
thực chất là khoản tiền mà mọi công dân trả cho nhà nước khi họ hưởng thụ các dịch vụ do nhà
nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý của phí và lệ phí thấp hơn nhiều. Phí gắn liền với với vấn
đề thu hồi một phần hay toàn bộ chi phí đầu tư đối với hàng hóa dịch vụ công cộng hữu hình. Lệ
phí gắn liền với việc thụ hưởng những lợi ích do việc cung cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý
cho các thể nhân và pháp nhân.
3. Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước
Các khoản thu này bao gồm:
Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế có vốn góp thuộc sở hữu nhà nước;
Tiền thu hồi vốn tại các cơ sở của nhà nước;
Thu hồi tiền cho vay của nhà nước.
4. Thu từ hoạt động sự nghiệp
Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các hoạt động của các cơ sở sự nghiệp có thu của nhà
nước.


5. Thu từ bán hoặc cho thêu tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước
Khoản thu này mang tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính chất phân phối lại, vừa có

tính chất phân phối lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản quốc gia vừa tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các nguồn thu từ bán hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên,
thiên nhiên; thu về bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
6. Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản
Các khoản thu này cũng là một phần thu quan trọng của thu ngân sách nhà nước và được pháp
luật quy định.
CÂU 3: Thế nào là chế độ “song bản vị”?Tại sao chế độ “song bản vị” lại nhường chỗ
cho chế độ ” đơn bản vị?
Hoặc
CÂU 4: Trình bày khái niệm đặc điểm chế độ song bản vị. Từ đó nêu rõ ưu thế, nhược
điểm của chế độ này. Nguyên nhân sụp đổ lưỡng kim bản vị.
1. Khái niệm
Là chế độ tiền tệ mà trong đó hai thứ kim loại quý được dùng làm bản vị và làm cơ sở cho toàn bộ
chế độ lưu thông tiền tệ quốc gia đó.
2. Đặc điểm
- Vàng và bạc là hai thứ kim loại được dùng làm tiền tệ
- Mọi người được tự do đúc tiền bằng vàng bạc
- Vàng bạc có khuynh hướng thanh toán vô hạn định
3. Hình thức
- Chế độ bản vị song song: mang đầy đủ 3 đặc điểm trên, tỷ giá trao đổi giữa tiền vàng và tiền
bạc được hình thành tự phát trên thị trường
- Chế độ bản vị kép: tỷ giá giữa vàng và bạc do nhà nước quy định
4. Hạn chế
- Việc sử dụng cùng một lúc hai thứ kim loại làm thước đo giá trị mâu thuẫn với chính bản chất
của chức năng thước đo giá trị. Do đó, gây trở ngại cho việc tính giá cả và lưu thông hàng hoá
- Sự quy định của luật phát về tương quan giữa giá trị của vàng và bạc (trong chế độ kép) mâu
thuẫn với quy luật giá trị. Do đó, nếu tương quan giữa giá trị vàng và bạc hình thành trên thị
trường chênh lệch so với tương quan giữa chúng do pháp luật quy định thì quy luật Gresham phát
huy tác dụng.
5. Ưu điểm

- Do tiền đúc bằng vàng và bạc có khả năng thanh toán vô hạn định và tự do lưu thông giữa các
nước nên nó có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
+ Thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
+ Góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa
+ Tạo điều kiện phát triển ngoại thương
6. Nguyên nhận sụp đổ
Chế độ song bản vị đã từng là nguyên nhân gây xáo trộn trong đời sống kinh tế và lưu thông tiền
tệ do nạn đầu cơ vàng hay bạc tùy theo sự thăng trầm của giá vàng hay bạc trên thị trường. Ví
như gia’ vàng trên thị trường cao hơn giá qui định. Ngay lập tức, vàng sẽ được cất trữ và biến mất
khỏi lưu thông. Và Gresham đã rút ra thành định luật Gresam “tiền xấu trục xuất tiền tốt ra khỏi
lưu thông”. Thật vậy, đồng tiền vàng ngày càng có giá do các đặc tính tự nhiên đã biến mất khỏi
thị trường Châu Âu. Tất cả những ai muốn thanh toán với quốc tế hoặc cất trữ họ đều ưa chuộng
đồng tiền vàng vì đảm bảo sẽ bán được một khối kim loại có lời.
- Bạc mất dần giá so với vàng. Các nước Châu Âu như Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ … bỏ bạc giữ vàng làm
tiền tệ duy nhất và các nước Châu Á phụ thuộc việc nhập khẩu kỹ nghệ cũng bị thiệt thòi -> bỏ
bạc giữ vàng.
- Sự sụp đổ chế độ lượng kim bản vị với sự tổng thắng của “bản vị vàng”
CÂU 5: Các chức năng của ngân hàng trung ương?
Trả lời:
Ngân hàng trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, ngân hàng
của các tổ chức tín dụng, và ngân hàng của chính phủ. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung


ương nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này.
Phát hành tiền tệ
Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở
một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim
loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Cục Dự trữ Liên bang- ngân hàng trung
ương của Mỹ- không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức
năng này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là

do Cục Dự Trữ Liên Bang./
Ngân hàng của các tổ chức tín dụng
Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín
dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất).
Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị
trường.
Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại chỗ mình và
các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định. Thông thường lượng tiền
này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ
lệ dự trữ bắt buộc.
Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính
của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế,
ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng (hay người cho vay cứu cánh).
Ngân hàng của Chính phủ
Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính phủ. Chính phủ sẽ mở
tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn
như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.
Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chinh phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối
---------- Post added at 10:36 PM ---------- Previous post was at 10:35 PM ----------

Câu 6: Trình bày nguồn vốn trong doanh nghiệp? Trả lời:
Các nguồn vốn của một doanh nghiệp:
Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp: đây là khoản đầu tư ban đầu khi thành lập doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn tự có là vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước. Đối với
công ty cổ phần hoặc công ty tnhh, nguồn vốn ban đầu do các cổ đông hoặc thành viên đóng góp
để hình thành công ty. Đối với các Công ty cổ phần,vốn kinh doanh có thể huy động thêm từ việc
phát hành cổ phiếu. Công ty TNHH không thể phát hành cổ phiếu mà chỉ có thể phát hành trái
phiếu.
Vốn vay: Ngoài phần vốn tự có của doanh nghiệp (vốn góp) thì nguồn vốn vay có vị trí đặc biệt
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể đáp ứng các nhu

cầu về vốn trong ngắn hạn hoặc dài hạn, có thể huy động được số vốn lớn, tức thời. Tuy nhiên, sử
dụng vốn vay phải hết sức chú ý đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, kế hoạch sử dụng vốn phải
đảm bảo hợp lý, đúng mục đích; quản lý tốt quỹ tiền mặt, kỳ trả nợ và kỳ thu tiền, kế hoạch sản
xuất kinh doanh phải được lập bám sát thực tế… nếu không vốn vay sẽ trở thành một gánh nặng
đối với doanh nghiệp.
Vốn chiếm dụng của nhà cung cấp (Tín dụng thương mại): Đây cũng là một nguồn vốn tương đối
quan trọng trong doanh nghiệp. Nguồn vốn này xuất phát từ việc doanh nghiệp chiếm dụng tiền
hàng của nhà cung cấp (trả chậm), việc chiếm dụng này có thể phải trả phí (lãi) hoặc không phải
trả phí nhưng lại đáp ứng được việc doanh nghiệp có nguyên vật liệu, điện, nước,… để sản xuất
kinh doanh mà chỉ phải bỏ ra ngay lập tức một số tiền ít hơn số tiền đáng lẽ phải bỏ ra ngay lập
tức để có được số nguyên vật liệu, điên, máy móc,… để tiến hành sản xuất. Như vậy, doanh
nghiệp có thể sử dụng quỹ tiền mặt của mình cho mục đích khác. Tuy nhiên, sử dụng nguồn vốn
này cần lưu ý: không nên chiếm dụng quá nhiều hoặc quá lâu một khoản nợ nào đó vì nó sẽ ảnh
hưởng đến uy tín của doanh nghiệp với đối tác, với thị trường hoặc kiện tụng pháp luật, tốt nhất
nên có sự thoả thuận về việc chiếm dụng vốn.
Nguồn vốn khác: ví dụ lợi nhuận để lại, lương cán bộ công nhân viên chậm thanh toán, ….
Câu 7: Phân biệt sự khác nhau giữa NHTM và NHTW (KN và C.Năng)
Trả lời:
Khái niệm và chức năng của NHTW:
a) Kn:


Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ) là cơ
quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách
nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá
trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ
vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ độc
lập nhất định đối với Chính phủ.
b) Chức năng của ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, ngân hàng

của các tổ chức tín dụng, và ngân hàng của chính phủ. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung
ương nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này.
1.Phát hành tiền tệ
Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở
một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim
loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Cục Dự trữ Liên bang- ngân hàng trung
ương của Mỹ- không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức
năng này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là
do Cục Dự Trữ Liên Bang./
2. Ngân hàng của các tổ chức tín dụng
Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín
dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất).
(Xem thêm Chính sách lãi suất ngân hàng)
Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị
trường. (Xem thêm Nghiệp vụ thị trường mở)
Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại chỗ mình và
các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định. Thông thường lượng tiền
này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ
lệ dự trữ bắt buộc.
Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính
của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế,
ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng (hay người cho vay cứu cánh).
3.Ngân hàng của Chính phủ
Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính phủ. Chính phủ sẽ mở
tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn
như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.
Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chinh phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối
Câu 8:trình bày khái niệm, nguyên nhân lạm phát ?
Trả lời:
1. Lạm phát là gì?

Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi
so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các
loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền
tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm
phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành
phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát
là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn
định giá cả.
2. Lạm phát có bao nhiêu loại?
2.1 Thiểu phát
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế
vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là
thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở
xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng
trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một
năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt


Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế
học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
2.2 Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 13 phần trăm một năm.
2.3 Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai chữ số một năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm
phát.
2.4 Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát “mất kiểm soát”, một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ
mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định

nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại
tăng gấp đôi). Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó
là:
(1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền;
(2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định;
(3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn;
(4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm
lên tới 100 phần trăm.
3. Những nguyên nhân gây ra lạm phát?
3.1 Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ
sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi
đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về
tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
3.2 Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng
lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ
có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi
đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm
phát.
3.3 Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì
muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể
nền kinh tế cũng tăng.
3.4 Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh
không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình.
Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm.
Lạm phát nảy sinh vì điều đó.

3.5 Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất
khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng
cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
3.6 Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do
nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng
tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành
khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
3.7 Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền
ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái
theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra
lạm phát.
3.8 Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn
tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.


CÂU 9: Trình bày khái niệm thị trường chứng khoán ?Kể tên những sản phẩm chứng
khoán đang lưu hành trên thị trường chứng khoán hiện nay ?
Trả lời:
a. Khái niệm
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt động của nó nhằm
huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay
cho các dự án đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán.
Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. do vậy thị trường chứng khoán là
nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi.

b.Phân loại:
Thị trường sơ cấp: người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành;
Thị trường thứ cấp: nơi diễn ra sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở Thị trường
sơ cấp.
c. S.phẩm:
Các cổ phiếu, trái phiếu và một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm .
d. Chức năng
Thị trường chứng khoán thực hiện các chức năng chủ yếu sau:







Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế;
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng;
Cung cấp khả năng thanh toán cho các chứng khoán;
Đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế;
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.

---------- Post added at 10:36 PM ---------- Previous post was at 10:36 PM ----------

Câu 10: Các loại lãi suất ngân hàng ? Trả lời:
1. Lãi suất cơ bản (call interest) là lãi suất cơ bản ngân hàng nhà nước đưa ra để các ngân hàng
thương mại dựa vào đó quyết định lãi suất cho vay của mình.
2. Lãi suất cho vay là lãi suất ngân hàng áp dụng khi cho khách hàng vay tiền.
3. Lãi suất huy động là lãi suất ngân hàng áp dụng khi cần huy động lượng tiền bằng nội tệ, ngoại
tệ hoặc huy động tiền cho dự án.
Có thể thấy lúc nào lãi suất huy động cũng cao hơn lãi suất cho vay vì ngân hàng đang cần tiền,

nên các ngân hàng cũng cố gắng để thu hẹp khoảng cách giữa hai loại lãi suất này
4. Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất mà ngân hàng nhà nước áp dụng khi cấp vốn cho các ngân hàng
thương mại.
5. Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng trung ương (ngân hàng Nhà nước) đánh vào các
khoản tiền cho các ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất
thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất chiết khấu là một trong những công cụ của
chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền. Lãi suất chiết khấu khác lãi suất tái chiết khấu
6. Lãi suất danh nghĩa:là thuật ngữ tài chính và kinh tế học để chỉ tỷ lệ lãi trên giá trị danh nghĩa
của một khoản tiền vay hoặc đầu tư… với hàm ý nó là tỷ lệ lãi chưa được điều chỉnh ảnh hưởng
của lạm phát hoặc ảnh hưởng của việc tính lãi kép.
Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế
Lãi suất danh nghĩa (với hàm ý chưa điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát) là lãi suất đã bao gồm
cả những tổn thất do lạm phát gây ra do sự gia tăng của mức giá chung. Quan hệ giữa lãi suất
danh nghĩa và lãi suất thực tế được biểu thị bằng các công thức sau:
(1 + r)(1 + i) = (1 + R) trong đó: r là lãi suất thực tế, i là tỷ lệ lạm phát và R là lãi suất danh
nghĩa.Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát dự kiến
Trên thực tế, tỷ lệ lạm phát sau đó có thể khác với tỷ lệ lạm phát dự kiến nên không thể biết trước
một cách chắc chắn được lãi suất thực tế còn lãi suất danh nghĩa thì có thể biết trước được một
cách chắc chắn khi công bố.
Lãi suất danh nghĩa và lãi suất hiệu quả
Lãi suất danh nghĩa (với hàm ý chưa điều chỉnh ảnh hưởng của việc tính lãi gộp là lãi suất được


công bố cho một kỳ nào đó của đơn vị thời gian cơ sở (đơn vị thời gian cơ sở thường là năm). Lãi
suất được công bố sẽ không có ý nghĩa đầy đủ nếu không đi kèm với số kỳ được tính gộp lãi. Hai
mức lãi suất danh nghĩa được công bố với kỳ hạn khác nhau sẽ không thể so sánh được với nhau
nếu không quy về cùng một kỳ được tính gộp lãi. Lãi suất hiệu quả cho phép làm điều đó bằng
cách quy đổi lãi suất danh nghĩa về lãi suất kép của một năm theo công thức sau:
Trong đó: r là lãi suất hiệu quả, i là lãi suất danh nghĩa và n là số kỳ được tính gộp lãi trong năm.
Cách tính toán này khác về căn bản với cách tính lãi suất đơn giản hay thường được gọi là lãi suất

đơn ở chỗ nó tính gộp cả lãi suất tính trên phần lãi được hưởng (lãi mẹ đẻ lãi con). Công thức trên
cũng cho thấy khi số kỳ được tính gộp lãi lớn thì sự khác biệt giữa lãi suất hiệu quả và lãi suất
danh nghĩa sẽ rất lớn. Về bản chất, lãi suất hiệu quả cho biết tỷ lệ lãi thực tế trên một khoản cho
vay hoặc đầu tư mà người cho vay hoặc nhà đầu tư thu được trên giá trị của khoản vay hoặc đầu
tư đó. Trong thực tế, các ngân hàng đều công bố lãi suất danh nghĩa và tính toán lãi suất hiệu quả
dựa trên số kỳ tính gộp lãi
Câu 11:trình bày các khoảng chi ngân sách nhà nước chủ yếu? Biện pháp khắc phục bội
chi ?
Trả lời:
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước cho việc thực
hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là việc cung cấp các phương tiện tài chính
cho các nhiệm vụ của chính phủ. Theo chức năng nhiệm vụ, chi ngân sách nhà nước gồm:
Chi đầu tư phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng, trong đó phần lớn là xây dựng cơ bản, khấu hao
tài sản xã hội
Chi bảo đảm xã hội, bao gồm:

















giáo dục
y tế
công tác dân số
khoa học và công nghệ
văn hóa
thông tin đại chúng
thể thao
lương hưu và trợ cấp xã hội
các khoản liên quan đến can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế
quản lý hành chính
an ninh, quốc phòng
các khoản chi khác
dự trữ tài chính
trả nợ vay nước ngoài, lãi vay nước ngoài

Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia ra:
Tiêu dùng cuối cùng (của Nhà nước): các khoản chi thường xuyên cho mua sắm của các cơ quan
Nhà nước.
Đầu tư kết cấu hạ tầng: xây dựng cơ bản và khấu hao tài sản
Phân phối và tái phân phối xã hội: lương công nhân viên chức và các khoản trợ cấp xã hội, hưu trí
- Biện pháp khắc phục bội chi :
+ Tăng thu giảm chi:là biện pháp cơ bản nhất mà chính phủ áp đụng để giảm bội chi ngân
sách.Bằng quyền lực và nghĩa vụ của mình ,CP tính toán để tăng các khoản thu và cắt giảm các
khoản chi.
+ Biện pháp vay nợ :
1/Vay nợ trong nước: Tập trung các khoản vay do trung ương đảm nhận các nhu cầu đầu tư của
địa phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên thực hiện như vậy,
tránh được tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn và cần quản lí
chặt chẽ số bội chi ngân sách nhà nước.khi các địa phương vay vốn để đầu tư, nhà nước cần kiên

quyết ko bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi
vào hoạt động cũng như chi phí tu sửa,bổ dưỡng các công trình làm giảm hiệu quả đầu tư.có như
thế ,địa phương mới tự cân đối nguồn kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân


sách nhà nước.Vay trong nước được chính phủ thực hiện dưới các hình thức phát hành trái
phiếu ,công phiếu.
2/Vay nợ nước ngoài: CP có thể giảm bội chi thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay
nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài ,các định chế tài chính thế giới như NHTG(WB),quỹ
tiền tệ QT(IMF), các tổ chức liên chính phủ , …Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình
thức Phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài ,vay bằng hình thức tín dụng
+Vay ngân hàng (in tiền ):CP khi bị thâm hụt ngân hàng sẽ đi vay tiền NHTW để bù đắp.Đáp ứng
lại nhu cầu này ,tất nhiên NHTW sẽ tăng việc in tiền .Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ.–
>được gọi là tiền tệ hóa thâm hụt.
+Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước nhằm bình ổn giá cả ,ổn định chính sách kinh tế vĩ
mô ,và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của kinh tế.
Câu 12: Phân loại lạm phát theo cường độ lạm phát ?
Trả lời:
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Nếu phân
loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế thường phân biệt 4 loại lạm phát:
thiểu phát, lạm phát thấp, lạm phát cao (lạm phát phi mã) và siêu lạm phát.
1. Khái niệm lạm phát:
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi
so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các
loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền
tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm
phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
2. Các loại lạm phát:
Phân theo mức độ lạm phát ta có mấy loại lạm phát sau:

(1) Thiểu phát: lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Hiện không có tiêu chí chính xác cho tỷ lệ này. Rất dễ
nhầm lẫn với giảm phát – tình trạng ngược lại của lạm phát.
(2) Lạm phát thấp: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 7.0 phần trăm một
năm.
(3) Lạm phát cao (Lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai chữ số một
năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.
(4) Siêu lạm phát: là lạm phát “mất kiểm soát”, một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền
tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một
định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 51 ngày thì giá cả
lại tăng gấp đôi).
Như vậy có thể nói Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng lạm phát thấp.
Phân loại lạm phát theo các nguyên nhân dẫn đến lạm phát thì ta có các loại lạm phát sau:
(1) Lạm phát do cầu kéo
(2) Lạm phát do cầu thay đổi
(3) Lạm phát do chi phí đẩy
(4) Lạm phát do cơ cấu
(5) Lạm phát do xuất khẩu
(6) Lạm phát do nhập khẩu
(7) Lạm phát tiền tệ
(8) Lạm phát sinh ra lạm phát
Tác động của lạm phát:
Các hiệu ứng tiêu cực:
Đối với lạm phát dự kiến được :
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh tế có
thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
• Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa
bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay
làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà
kinh tế đã dùng thuật ngữ “chi phí mòn giày” để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng
như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.

• Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm
chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
• Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh


nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không
tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ
trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực
dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
• Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm
luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu
nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá
nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực
tế.
• Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính toán
các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn
trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không dự kiến được :
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một
cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm
phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát
thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự
kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của lạm phát,
thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này
được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác
động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ
ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
CÂU 14: Trình bày khái quát nghiệp vụ tài sản nợ và tài sản có của NHTM.
Trả lời:

Trong ngân hàng thương mại, tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản “nợ”, tiền cho công
ty và các cá nhân vay cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu
gọi là tài sản “có” của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động được và số tiền đem
cho vay, gủi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có. Phần tài sản có tính thanh khoản cao
được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút đột ngột gọi là tỉ lệ dự trữ của
ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp
1 còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận không chia và các quỹ dự trữ
lập trên cơ sở trích từ lợi nhuận của tổ chức như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài
chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 bao gồm: phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản
của tổ chức, nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (như trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu
ưu đãi và một số công cụ nợ khác).
1.2. CÁC NGHIỆP VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
12.1. Nghiệp vụ nguồn vốn (Tài sản Nợ) của Ngân hàng thương mại
Nghiệp vụ huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng
như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại được phép sử dụng những công
cụ và biện pháp cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã
hội làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế.
Thành phần nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm:
– Vốn điều lệ (Statutory Capital)
– Các quỹ dự trữ (Reserve funds)
– Vốn huy động (Mobilized Capital)
– Vốn đi vay (Bonowed Capital)
– Vốn tiếp nhận (Trust capital)
– Vốn khác (Other Capital)
a– Vốn điều lệ và các quỹ:
Vốn điều lệ, các quỹ của ngân hàng được gọi là vốn tự có của ngân hàng (Bank’s Capital) là
nguồn vốn khởi đầu và được bổ sung trong quá trình hoạt động
+ Vốn điều lệ của ngân hàng trước hết được dùng để:
Xây dựng nhà cửa, văn phòng làm việc, mua sắm tài sản, trang thiết bị nhằm tạo cơ sở vật chất
đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng, số còn lại để đầu tư, liên doanh, cho vay ttrung và dài

hạn
+ Các quỹ dự trữ của ngân hàng: đây là các quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và
hoạt động của ngân hàng, các quỹ này được trích lập theo tỷ lệ qui định trên số lợi nhận ròng của


ngân hàng, bao gồm:







Quỹ dự trữ : được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm để bổ sung vốn điều lệ
Quỹ dự phòng tài chính: Quỹ này để dự phòng bù đắp rủi ro, thu lỗ trong hoạt động
của ngân hàng
Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ
Quỹ khen thưởng phúc lợi.
Lợi nhuận để lại để phân bổ cho các quỹ. Chênh lệch tỷ giá, đánh giá lại tài sản,
nguồn vốn đầu tư XDCB.

Vốn tự có của ngân hàng là yếu tố tài chính quan trọng bậc nhất, nó vừa cho thấy qui mô của
ngân hàng vừa phản ánh khả năng đảm bảo các khoản nợ của ngân hàng đốivới khách hàng
b– Vốn huy động:
Ðây là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng thương mại, thực chất là tài sản bằng tiền của các
sở hữu chủ mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng nhưng phải có nghĩa vụ hoàn trả kịp thời,
đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. Nguồn vốn huy động là nguồn tài nguyên to lớn nhất, bao gồm:
– Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân
– Tiền gửi tiết kiệm không kỳhạn
– Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn

– Tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
– Các khoản tiền gửi khác
Ðối với tiền gửi của cá nhân và đơn vị, ngoài lãi suất, thì nhu cầu giao dịch với những tiện lợi
nhanh chóng và an toàn là yếu tố cơ bản để thu hút nguồn tiền này.
Ðối với tiền gửi tiết kiệm, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu thì lãi suất là yếu tố quyết định và
người gửi tiết kiệm hay mua kỳ phiếu đều nhằm mục đích kiếm lời
c– Vốn đi vay:
Nguồn vốn đi vay có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Thuộc
loại này bao gồm:
+ Vốn vay trong nước:
.Vay ngân hàng trung ương: NHTW sẽ tiếp vốn cho ngân hàng thương mại thông qua biện pháp
chiết khấu, tái chiết khấu nếu các hồ sơ tín dụng cùng các chứng từ xin tái chiết khấu có chất
lượng. Làm như vậy, NHTW sẽ trở thành chỗ dựa và là người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng
thương mại
. Vay các ngân hàng thương mại khác thông qua thị trường liên ngân hàng (Interbank Market)
+ Vốn vay ngân hàng nước ngoài
d– Vốn tiếp nhận:
Ðây là nguồn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính ngân hàng, từ ngân sách nhà nước… để tài trợ
theo các chương trình, dự án về phát triển kinh tế xã hội, cải tạo môi sinh… nguồn vốn này chỉ
được sử dụng theo đúng đối tượng và mục tiêu đã được xác định
e– Vốn khác:
Ðó là các nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng (đại lý, chuyển tiền, các
dịch vụ ngân hàng…)
1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn – tài sản Có (cấp tín dụng và đầu tư):
Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả năng
tồn tại và hoạt động của ngân hàng thương mại. Ðây là các nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu
và quan trọng của tài sản Có của ngân hàng. Thành phần TS Có của ngân hàng bao gồm:
– Dự trữ (Reserves)
– Cho vay(loans)
– Ðầu tư (Investment)

– Tài sản Có khác (Other Assets)
a– Dự trữ:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần phải bảo đảm an toàn để
giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốm có được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết
phải bảo đảm khả năng thanh toán: đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy
các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn không sử dụng nó để sẵng sàng đáp ứng nhu
cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ. Ngân hàng TƯ được phép ấn định một tỷ lệ
dự trữ bắt buộc theo từng thời kỳ nhất định, việc trả lãi cho tiền gởi dự trữ bắt buộc do chính phủ


qui định. Dự trữ bao gồm:
+ Dự trữ sơ cấp (Primary Reserves): bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng TƯ, tại các ngân
hàng khác
+ Dự trữ thứ cấp (Secondary Reserves): (cấp hai) là dự trữ không tồn tại bằng tiền mà bằng
chứng khoán, nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền một cách
thuận lợi. Thuộc loại này gồm:
. Tín phiếu kho bạc
. Hối phiếu đã chấp nhận
. Các giấy nợ ngắn hạn khác
gọi là dự trữ thứ cấp bởi nó chỉ được sử dụng khi các khoản mục dự trữ sơ cấp bị cạn kiệt. Khi
quản lý dự trữ bắt buộc, ngân hàng TW có thể áp dụng 1 trong 3 phương pháp.
• Phương pháp phong toả: Theo đó toàn bộ mức dự trữ bắt buộc phải gửi vào một tài khoản tại
ngân hàng TW và sẽ bị phong toả để đảm bảo thực hiện đúng nmức dự trữ.
• Phương pháp bán phong toả: Theo đó một phần của mức dự trữ bắt buộc sẽ được quản lý và
phong toả tại một tài khoản riêng ở NHTW.
• Phương pháp không phong toả: theo phương pháp này tiền dự trữ được tính và thực hiện hàng
ngày trên cơ sở số dư thực tế về tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Toàn bộ mức dự trữ
sẽ không bị phong toả, nó có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt hay tiền gửi ngân hàng TW hay
dưới dạng chứng khoán ngắn hạn là tuỳ NH thương mại, tuy nhiên đến cuối mỗi tháng, NHTW sẽ
kiểm tra việc thực hiện dự trữ bắt buộc, nếu các NHTM không thực hiện đúng dẽ bị phạt (cảnh

cáo, phạt tiền nếu tái phạm)
b– Cấp tín dụng: (Credits):
Số nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các ngân hàng thương mại có thể dùng để
cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân bao gồm:
– Cho vay (Loans):
Là tín dụng nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Trong đó ngân hàng thương mại sẽ cho người
đi vay vay một số vốn để sản xuất kinh doanh, đầu tư hoặc tiêu dùng. Khi đến hạn người đi vay
phải hoàn trả vốn và tiền lãi. Ngân hàng kiểm soát được người đi vay, kiểm soát được quá trình sử
dụng vốn. Người đi vay có ý thức trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến việc sử dụng làm
sao có hiệu quả để hoàn trả nợ vay. Trong cho vay thì mức độ rủi ro rất lớn, không thu hồi được
vốn vay hoặc trả không hết hoặc không đúng hạn…do chủ quan hoặc khách quan. Do đó khi cho
vay các ngân hàng cần sử dụng các biện pháp bảo đảm vốn vay: thế chấp, cầm cố …
– Chiết khấu (Discount)
Ðây là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp) mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và
một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng. Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm
hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có giá khác.
– Cho thuê tài chính (Financial leasing):
Là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó các công ty cho thuê tài chính dùng vốn của mình
hay vốn do phát hành trái phiếu để mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và tiến
hành cho thuê trong một thời gian nhất định. Người đi thuê phải trả tiền thuê cho công ty cho
thuê tài chính theo định kỳ. Khi kết thúc hợp đồng thuê người đi thuê được quyền mua hoặc kéo
dài thêm thời hạn thuê hoặc trả lại thiết bị tho bên cho thuê
– Bảo lãnh ngân hàng: (Bank Guarantee)
Trong loại hình nghiệp vụ này khách hàng được ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng nhờ đó
khách hàng sẽ được vay vốn ở ngân hàng khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết
– Các hình thức khác (Other)
c– Ðầu tư ( Investment)
Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó mang lại khoản thu
nhập lớn và đáng kể của ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn
vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như:

– Hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các Công ty; hùn vốn mua cổ phần chỉ được phép thực hiện
bằng vốn của ngân hàng
– Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty…
Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập, mặt khác nhờ hoạt
động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, mặt khác đầu tư vào trái
phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp
d– Tài sản Có khác:
Những khoản mục còn lại của tài sản Có trong đó chủ yếu là tài sản lưu động nhằm: Xây dựng


hoặc mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng, trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận
chuyển, xây dựng hệ thống kho quỹ…ngoài ra còn các khỏan phải thu, các khoản khác
---------- Post added at 10:37 PM ---------- Previous post was at 10:36 PM ----------

Câu 15: Doanh nghiệp nước ta hiện nay có mấy loại ? Trả lời:
Doanh nghiệp Tư nhân





Một chủ đầu tư, thuận lợi trong việc quyết định các vấn đề của Doanh nghiệp
Không có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản của Chủ Doanh nghiệp

Công ty TNHH







Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản theo tỉ lệ vốn góp
Khả năng huy động vốn từ công chúng bằng hhnh thức đầu tư trực tiếp không có

Công ty Cổ phần







Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Có tư cách pháp nhân
Chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản theo tỉ lệ vốn góp
Các cổ đông sáng lập có thể mất quyền kiểm soát Công ty
Khả năng huy động vốn từ công chúng bằng hhnh thức đầu tư trực tiếp thuận lợi,
công chúng có thể dễ dàng tham gia vào công ty bằng hhnh thức mua cổ phiếu của
Công ty (tính chất mở của Công ty)

Công ty Hợp danh








Nhiều thành viên cùng tham gia góp vốn, cùng kinh doanh
Các thành viên hợp danh có thể hoạt động nhân danh công ty
Công ty hoạt động dựa trên uy tín của các thành viên
Các thành viên cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản liên quan đến các
hoạt động của Công ty.
Không có tư cách pháp nhân

Hợp tác xă





Có tư cách pháp nhân
Xă viên cùng góp vốn, cùng tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh
và được nhận lợi nhuận trên cơ
Sở hữu manh mún của các xă viên đối tài sản của ḿnh làm hạn chế các quyết định
của Hợp tác xă, tính chất làm ăn nhỏ lẻ, canh tác tồn tại.

Công ty Liên doanh



Do các bên nước ngoài hoặc Việt Nam liên kết thành lập







Công ty 100% vốn nước ngoài
Do các bên nước ngoài hoặc bên nước ngoài thành lập.
cách đây 1 năm

Câu 16: Tìm hiểu về thị trường thứ cấp và sơ cấp ?
Trả lời
Cơ cấu Thị trường Chứng khoán:
Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại:
1. Thị trường sơ cấp:
Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ
được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát
hành.
2. Thị trường thứ cấp:
Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.Thị trường thứ cấp
đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
Các nguyên tắc hoạt động của TTCK:
1. Nguyên tắc cạnh tranh:
Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện
tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với
nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các
chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh
tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương
thức đấu giá.
2. Nguyên tắc công bằng:
Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung,
được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi
phạm vào những qui định đó.
3. Nguyên tắc công khai:
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công

bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy
đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao
dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan.
4. Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung
gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của
nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các
nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách
hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng
khoán trên tài khoản của mình.
5. Nguyên tắc tập trung:
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra
giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
+Thị trường thứ cấp có chức năng đặc biệt quan trọng như sau:
1. Tạo ra tính thanh khoản cho loại hàng hóa đặc biệt là tài sản tài chính.
2. Tạo ra các phương thức giao dịch trơn tru dẫn tới chi phí giao dịch ngày càng thấp.
Thông thường, thị trường chứng khoán (TTCK) quen thuộc trong quan niệm hàng ngày của chúng
ta chính là thị trường thứ cấp, vì chúng ta ít khi quan tâm tới thị trường sơ cấp. Ở thị trường sơ
cấp là các trung gian và cơ quan chuyên môn tài chính dàn xếp việc phát hành và mua-bán lần
đầu các tài sản tài chính mới.
Hai chức năng quan trọng nói trên thường xuyên bị nhầm lẫn với quan niệm cho rằng TTCK là nơi


thu hút vốn đầu tư, vốn là chức năng của thị trường sơ cấp
+Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là huy
động vốn cho đầu tư.
Thị trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư,
vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài; các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các
doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền
kinh tế, mà các phương thức khác không thể làm được.

Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh, giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thông qua việc phát hành trái
phiếu, có thêm vốn để xây dung cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người
tiêu ding bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của mình tốt hơn.
Câu 17: Trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất ?



×