Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp giúp trẻ 5 – 6 tuổi học tốt môn khám phá khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.91 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU.................................................................................3
I. Đặt vấn đề :.....................................................................................................3
II. Mục đích nghiên cứu:...................................................................................4
Phần thứ hai : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...........................................................4
I. Cơ sở lý luận của vấn đề................................................................................4
II. Thực trạng vấn đề........................................................................................6
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:....................................8
IV. Tính mới của giải pháp:..............................................................................17
V. Hiệu quả SKKN:...........................................................................................18
Phần thứ ba : KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ........................................................19
I. Kết luận:.........................................................................................................19
II. Kiến nghị:......................................................................................................20

1


Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU
I.Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài
- Lý do lý luận:
Tâm hồn trẻ thơ từ xưa đã được ví như trang giấy trắng. Thời điểm này tất
cả mọi việc đều bắt đầu: Bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn, tìm hiểu
khám phá mọi sự vật xung quanh và vận động bằng đôi chân, đôi tay của
mình.... tất cả những cử chỉ đó đều hình thành nên thói quen, kể cả thói xấu.
Chúng ta đang sống trong thế kỷ của nền văn minh trí tuệ, của khoa học hiện
đại. Do vậy tự xã hội sinh ra nhu cầu cần những con người năng động sáng tạo,
có trí tuệ cao để phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Muốn như vậy ngay từ tuổi ấu thơ, trẻ mầm non đặc biệt là trẻ 5- 6 tuổi
lứa tuổi đang có những bước phát triển mạnh về nhận thức, tư duy, ngôn ngữ,
tình cảm .....cần có sự hướng dẫn nhận thức theo trình tự, theo chương trình


được nghiên cứu phù hợp với lứa tuổi. Trong hệ thống các hoạt động trẻ được
làm quen ở trường mầm non thì hoạt động khám phá khoa học tạo cho trẻ hệ
thống kiến thức bao quát nhất. Thông qua các tiết học trẻ lần lượt được hình
thành kiến thức từ dễ tới khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể tới trừu tượng.
Trách nhiệm nặng nề và cao cả ấy tất cả thuộc về cô giáo mầm non. Tuy nhiên,
trong thực tế hiện nay, một số giáo viên chưa thực sự coi trọng vấn đề này.
- Lý do thực tiễn:
Bên cạnh những thuận lợi và những kết quả đạt được thì trong công tác
giảng dạy giáo viên trường chúng tôi vẫn còn một số hạn chế sau: Trong hoạt
động khám phá khoa học các đồng chí đang quá lạm dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy, chủ yếu là thiết kế giáo án Powpoi sau đó chỉ việc cho trẻ tìm
hiểu các sự vật hiện tượng trên máy tính. Tôi không phủ nhận sự cần thiết của
việc cho trẻ tiếp xúc với công nghệ thông tin, không phủ nhận rằng công nghệ
thông tin rất có ích giúp giáo viên chủ động trong hoạt động, nhưng vô tình
2


chúng ta đang để trẻ thụ động, quen với việc chỉ được tiếp xúc qua màn hình
máy tính. Điều đó đang hạn chế sự phát triển, sáng tạo của trẻ. Trẻ cần được
hoạt động thực tế, được tự tay sờ, nắn, ngửi, được tự mình khám phá thông qua
hoạt động nhóm, tự thảo luận…và cô giáo phải có những biện pháp tạo hứng thú
cho trẻ tham gia tích cực, có như vậy hoạt động mới đạt hiệu quả cao, việc học
mới thực sự “ Lấy trẻ làm trung tâm”. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Một số
biện pháp giúp trẻ 5 – 6 tuổi học tốt môn khám phá khoa học” nhằm góp phần
xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt động khám phá khoa học càng hứng thú, hiệu
quả hơn với trẻ.
II. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm tìm ra một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học để
trẻ đạt kết quả cao. Thỏa mãn nhu cầu ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi,
sáng tạo của trẻ. Sẽ giúp trẻ có cơ hội được phát triển toàn diện về mọi mặt.

Trẻ có một số hiểu biết ban đầu về con người, sự vật, hiện tượng, và thế
giới xung quanh.
Có một số kĩ năng sống như tôn trọng, hợp tác, thân thiện, biết quan tâm
và chia sẻ.
Phát triển một số phẩm chất cá nhân như mạnh dạng, tự tin, tự lực. Từ đó
giúp trẻ phát hiện và giải quyết các vấn đề đơn giản theo những chiều hướng
khác nhau.
Trẻ có kỹ năng ứng sử, sử lí các tình huống trong xã hội bằng những hành
vi đẹp khi giao tiếp trong sinh hoạt gia đình ,trường lớp mầm non và công đồng
gần giũ.
Nhằm giúp giáo viên chủ động linh hoạt hơn trong việc tổ chức các tiết
dạy trên lớp. Từ đó trẻ sẽ hứng thú khi tham gia các hoạt động khám phá khoa
học dẫn đến việc tiếp thu bài được hiệu quả hơn.
Phần thứ hai : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
Nghiên cứu của các nhà tâm lý học và giáo dục học đã chỉ ra rằng trong
những năm đầu đời là giai đoạn phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng nhất. Đó là
3


giai đoạn tăng trưởng và hoàn thiện về trọng lượng của não và các dây thần
kinh; là sự phát triển và hoàn thiện không ngừng khả năng vận động, tâm lý và
nhân cách. Cũng trong những năm đầu tiên của cuộc sống, trẻ em đã lĩnh hội các
vận động cơ bản của cơ thể. Các quá trình cảm nhận được hình thành và hoàn
thiện dần trên cơ sở phát triển của các giác quan và sự phối hợp vận động giữa
các bộ phận trên cơ thể. Ngôn ngữ và trí tuệ của trẻ trải qua các giai đoạn phát
triển chính từ trực quan hành động đến tư duy lôgíc. Kinh nghiệm sống của trẻ
được tích luỹ nhanh chóng, phạm vi các biểu tượng được mở rộng, xúc cảm của
trẻ trở nên dễ điều khiển. Xuất hiện sự tự nhận thức, trẻ hiểu được vị trí của
mình trong môi trường giao tiếp với người lạ và người quen. Trẻ bắt đầu có ý

thức định hướng trong thế giới đồ vật và tự nhiên, phân biệt được giá trị của
những đồ vật đó.
Chính sự phát triển về mặt thể chất và trí tuệ trong những năm đầu tiên của
cuộc sống đã cho phép trẻ tiếp thu, lĩnh hội không chỉ các biểu tượng cụ thể mà
cả những biểu tượng khái quát, các mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau của các
sự vật, hiện tượng xung quanh.
Đây cũng là "thời kỳ nhạy cảm" để cho trẻ tiếp xúc, khám phá thiên nhiên
và cuộc sống xã hội. Sự phát triển của trẻ chỉ có thể diễn ra liên tục và hiệu quả
trong sự tương tác giữa trẻ với môi trường xung quanh dưới sự hướng dẫn của
người lớn.
Thông qua khám phá khoa học trẻ không chỉ tích luỹ được hệ thống kiến
thức chính xác về thế giới khách quan mà còn phát triển các quá trình tâm lý
nhận thức, các phẩm chất trí tuệ và ngôn ngữ, làm cơ sở cho việc tiếp thu các
khái niệm khoa học ở các bậc học lớn hơn sau này.
Việc cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, cuộc sống… giúp trẻ phát triển
những xúc cảm, tình cảm, thẩm mỹ, đạo đức tích cực, thái độ ứng xử đúng đắn
với thiên nhiên, xã hội.
Khám phá khoa học giúp trẻ phát triển về thể chất và các kỹ năng lao
động.
Có thể nói cho trẻ khám phá khoa học là một trong những phương pháp
4


quan trọng, phương pháp chủ yếu giúp trẻ phát triển toàn diện. Để chuẩn bị nền
tảng và tâm thế cho trẻ vào học ở trường tiểu học thì việc tổ chức cho trẻ khám
phá khoa học chỉ có thể đạt hiệu quả khi người tổ chức hoạt động xác định rõ
mục đích, thiết kế tiết dạy dựa trên đặc điểm học của trẻ mầm non. Trẻ mầm non
học qua bắt chước, qua trải nghiệm, thí nghiệm; qua sự tương tác, chia sẻ kinh
nghiệm, qua tư duy suy luận và vui chơi. Tạo dựng môi trường chăm sóc, giáo
dục trẻ phù hợp, kích thích trẻ hoạt động tích cực trong khám phá khoa học sẽ

thúc đẩy sự phát triển của trẻ.
Khám phá khoa học là con đường tiếp xúc độc đáo của trẻ mẫu giáo với
cuộc sống xung quanh, nhờ hoạt động này trẻ bước vào giai đoạn đầu tiên của
quá trình hình thành nhân cách. Việc khám phá, tìm tòi sẽ giúp trẻ phát triển đầy
đủ, toàn diện về nhận thức, tình cảm, ý chí, cũng như các nét tính cách và năng
lực xã hội.
Khám phá khoa học cũng góp một phần quan trọng đối với cuộc sống của
trẻ, giúp trẻ hòa nhập với thế giới xung quanh, đồng thời giúp trẻ hình thành và
phát triển các quá trình tâm lý và tính mục đích, tính kỷ luật, tính đồng đội. Đó
chính là giai đoạn đầu tiên của sự hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
Khám phá thế giới xung quanh là một trong những hoạt động hàng ngày
của trẻ ở trường mầm non, có nhiều ưu thế để phát triển mọi mặt cho trẻ mà ít
thời điểm sinh hoạt nào trong ngày có thể so sánh được. Trẻ có hiểu biết tốt hơn
khi tham gia vào các hoạt động quan sát, khám phá, tiếp xúc trực tiếp với các sự
vật hiện tượng xung quanh. Trẻ biết thêm nhiều kiến thức mới khi được thỏa
mãn nhu cầu vui chơi, tìm tòi và sáng tạo trong môi trường thuận lợi, giúp trẻ
mạnh dạn, tự tin hơn, dễ dàng thích nghi, hòa nhập trong môi trường xã hội hiện
đại.
II. Thực trạng vấn đề:
Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu trường mầm non Hoa Cúc
về chuyên môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động
giáo dục mầm non. Nhà trường đã đầu tư trang bị học tập và đồ dùng, đồ chơi
đầy đủ để phục vụ cho công tác dạy và học có chất lượng, đảm bảo an toàn cho
5


trẻ.
Ngôi trường nơi tôi đang công tác là trường được công nhận chuẩn quốc
gia mức độ 1, nhiều năm liền đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc, đội ngũ
quản lý giỏi với tập thể giáo viên giàu lòng nhiệt huyết và yêu nghề mến trẻ. Các

giáo viên tích cực, sáng tạo trong việc làm đồ dùng đồ chơi tạo môi trường thuận
lợi để trẻ thỏa sức chơi những trò chơi mới lạ, hấp dẫn giúp trẻ tích cực, sáng tạo
chủ động hơn khi tham gia các hoạt động khám phá.
Bản thân tôi là giáo viên được phân công chủ nhiệm lớp 5 tuổi, được sự
tín nhiệm và tin cậy của phụ huynh, có trình độ đạt chuẩn về chuyên môn, nhiệt
tình trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ, yêu nghề mến trẻ. Hơn nữa tôi luôn
luôn tìm tòi tham khảo tài liệu, không ngừng học hỏi, dự giờ dạy mẫu để rút
kinh nghiệm cho mình.
Lãnh đạo địa phương và các đoàn thể quan tâm tạo điều kiện cho việc
chăn sóc và giáo dục trẻ.
Các bậc phụ huynh rất quan tâm đến con em mình, nhiệt tình phối hợp
cùng tôi trong việc chăm sóc và giáo dục các cháu, thường xuyên đóng góp ý
kiến và trao đổi thông tin về trẻ với giáo viên chủ nhiệm.
Trẻ ngày càng có kỹ năng quan sát tốt, biết suy đoán, phán đoán, chủ
động, tích cực tham gia vào các hoạt động khám phá hơn.
Bên cạnh những thuận lợi thì còn có một số tồn tại sau đây:
Trường tôi là ngôi trường được xây mới chưa lâu, cây xanh còn nhỏ, hệ
thống mái che chưa có nên sân trường còn nắng do đó còn gặp nhiều khó khăn
cho cô và trẻ khi tham gia khám phá thiên nhiên.
Bản thân tôi khi thực hiện việc giảng dạy còn chưa có sự linh hoạt, còn
áp dụng phương pháp dạy học củ nên chưa kích thích được sự tư duy, sáng tạo
của trẻ.
Một số học sinh còn nhút nhát chưa mạnh dạn phát biểu trong giờ học.
Một số phụ huynh là người đồng bào dân tộc tiểu số vì công việc đồng án
nên chưa thực sự quan tâm đến con em của mình nhiều.
Việc tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động khám phá chưa có sự đầu tư
6


về việc cho trẻ trải nghiệm, khám phá sự vật hiện tượng xung quanh.

Tôi đã chủ động kiểm tra, khảo sát, thống kê về hoạt động khám phá khoa
học để nắm bắt khả năng nhận thức của từng cá nhân trẻ. Dưới đây là kết quả
nhận thức của trẻ lớp lá 1 năm học 2017-2018 như sau:
Số
Nội dung

lượng

Kết quả
Tốt Tỷ lệ

Khá

Tỷ lệ

TB

Tỷ lệ

Yếu Tỷ lệ

trẻ
Sự tự tin, tích cực
chủ động
Trẻ hứng
tham

gia

39


14

36,1%

13

33,3% 12 30,6%

0

39

14

36,1%

12

30,6% 13 33,3%

0

39

13

33,3%

14


36,1% 12 30,6%

0

39

14

36,1%

14

36,1% 11 27,8%

0

thú
hoạt

động khám phá
khoa học.
Tò mò ham hiểu
biết
Thể hiện về một
số hiểu biết về thế
giới xung quanh

III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Qua một thời gian tìm tòi, nghiên cứu và khảo sát thực tế tôi suy nghĩ, tìm

ra những biện pháp triển khai để trẻ được hoạt động cá nhân một cách tích cực,
kiến thức của trẻ được bổ sung và củng cố phong phú, giúp trẻ phát hiện ra
nhiều điều mới lạ hơn nên tôi đã mạnh dạng đưa ra những biện pháp sau:
Biện pháp 1: Chuẩn bị môi trường, đồ dùng, phương tiện để trẻ khám
phá.
Tạo môi trường hấp dẫn, phong phú, có ảnh hưởng trực tiếp đến tính tò
mò, ham hiểu biết của trẻ để trẻ tự do trải nghiệm và tìm hiểu. Tôi đã sử dụng
vật sống, vật thật cho trẻ dễ tìm hiểu như một số loại rau củ quả, những hạt
giống dễ nảy mầm, dễ lên, cây, các hạt giống và chậu gieo hạt cho trẻ khám phá
quá trình phát triển của cây .... đối với chủ đề thế giới thực vật.
7


Khi cho trẻ khám phá về các loại quả, để gây được sự hứng thú cho trẻ
hơn, tôi đã chuẩn bị một số loại quả thật cho trẻ khám phá. Môi trường hoạt
động đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp trẻ khám phá một cách hiệu
quả.
Để tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên được khám phá môi trường xung
quanh thông qua hoạt động thực tiễn thì điều kiện khuôn viên trong trường và
ngoài trường cần đảm bảo có đủ các yếu tố cho trẻ trải nghiệm, khám phá thực
tế theo yêu cầu.
Ví dụ: Cho trẻ khám phá vườn rau sạch, khi bắt đầu lên kế khoạch khám
phá, tôi đã trực tiếp làm đất, gieo hạt để kịp thời gian tổ chức cho trẻ đi tham
quan, quan sát và tìm hiểu về ( đặc điểm, công dụng, môi trường sống….) của
các loại rau đó. Tại đây, các bé đã được cô giới thiệu về các loại rau lá xanh
cũng như quá trình gieo hạt, chăm sóc các loại rau tươi sạch như thế nào. Sau
đó trẻ cùng thực hành nhổ cỏ, bắt sâu, tưới nước….cho rau, trẻ sẽ rất hứng thú
qua hoạt độngcho trẻ khám phá thế giới xung quanh bằng vật thật, từ đó trẻ sẽ
được trực tiếp trải nghiệm, góp phần phát huy nhận thực của trẻ.
Đối với chủ đề thế giới động vật tôi chuẩn bị một số con vật cho trẻ

khám phá như bể cá, gà, vịt … tùy vào từng chủ đề nhánh đưa ra.
Hoặc muốn cho trẻ cùng cô thực hành các thí nghiệm tôi đã chuẩn bị rất
nhiều đồ dùng dụng cụ như dụng cụ chứa nước, các vật chìm và nổi, đường,
muối, màu nước…..
Trẻ nhỏ học chủ yếu qua chơi, qua sự thăm dò, khám phá. Vì vậy tôi đã
bố trí, bày biện phòng nhóm sao cho kích thích trẻ hoạt động và dành phần lớn
thời gian cho trẻ tự khám phá qua hoạt động chơi.
Ví dụ : Cô để chậu gieo hạt ở góc thiên nhiên để cho trẻ theo dõi sự nảy
mầm và lớn lên của cây. Tìm hiểu về một số con vật sống dưới nước tôi treo một
số tranh ảnh về các con vật sống dưới nước hoặc làm bể cá nhỏ để trẻ nhận dạng
các con vật. Môi trường hoạt động không nhất thiết phải là môi trường ở một nơi
nào đó nhất định mà có thể là môi trường hoạt động mọi lúc, mọi nơi, cho trẻ
8


khám phá và nhận ra những nét đặc trưng của vật sống, đồ vật và những hiện
tượng quan sát bằng cách sử dụng tất cả các giác quan một cách thích hợp. Để
chuẩn bị tốt cho bài dạy của mình, tôi đã làm tốt công tác chuẩn bị đồ dùng, đồ
chơi đa dạng, phong phú, an toàn, phù hợp, bố trí thời gian chơi và không gian
chơi hợp lý.
Tôi còn tổ chức cho trẻ được tham quan chăm sóc vườn hoa của trường.
Từ rất sớm các bé đã rất háo hức và sẵn sàng để được tham gia trải nghiệm thực
tế cùng cô. Tại đây, các bé đã được cô giới thiệu về các loại hoa, được chiêm
ngưỡng hương thơm của các loài hoa. Cũng trong những buổi thực thăm quan
này tôi đã cho trẻ tự tay thực hành cách gieo hạt để trồng hoa, chăm sóc các loại
hoa như thế nào. Các cháu được trực tiếp tưới nước, nhổ cỏ cho vườn hoa tươi
tốt hơn.
Sau khi tham quan vườn hoa, các đã bé biết gọi tên, đặc điểm, lợi ích
một số loại hoa. Qua đó tôi kết hợp giáo dục các cháu chăm sóc và bảo vệ các
lời hoa

Biện pháp 2: Tổ chức cho trẻ khám phá trong giờ học.
Trong các giờ học trên lớp, để giúp trẻ tư duy về các sự vật hiện tượng
tốt hơn, tôi đã sử dụng vật thật để phục vụ cho công tác giảng dạy. Việc truyền
thụ kiến thức cho trẻ thông qua vật thật sẽ giúp trẻ tư duy tốt hơn, trẻ được sử
dụng tất cả các giác quan để nhận biết, khám phá và tiếp thu lĩnh hội kiến thức
một cách có hiệu quả nhất.
Ví dụ 1:
Chủ đề: Thế giới thực vật
Chủ đề nhánh: một số loại quả
Đề tài: khám phá về một số loại quả.
Với đề tài này, tôi cho trẻ khám phá về các loại quả thật như: quả cam,
quả xoài, và quả chuối.
Khi cho trẻ khám phá về các loại quả, để gây được sự hứng thú cho trẻ
hơn, tôi đã tổ chức cho trẻ tham gia vào cuộc thi “ Lễ hội trái cây”, tạo sự thi
9


đua giữa các đội với nhau từ đó kích thích trẻ hứng thú hơn trong giờ khám phá.
Sau đó tôi cho trẻ chọn quả về nhóm để thảo luận.

Trước:Dạy bằng tranh ảnh

Sau:Trẻ được trực tiếp sờ, ném vị quả thật.

Trẻ thảo luận về đặc điểm các loại quả, trẻ sờ, nếm, Rèn kỹ năng quan sát,
phân tích, tổng hợp và làm việc theo nhóm, tiếp theo cho đại diện từng nhóm lên
trình bày.
Khi trẻ trình bày về quả cam , tôi luôn đặt ra những câu hỏi gợi mở, nhằm
giúp trẻ tư duy để phát triển ngô ngữ mạch lạc :
- Quả cam có hình dạng gì ?

- Khi sờ vào vỏ cam như thế nào?
- Vỏ cam có màu gì ?
- Khi bóc vỏ phía trong có gì ?
- Cam nhiều hạt hay ít hạt ?
- Khi nếm cam có vị gì ?
- Cam cung cấp dinh dưỡng gì cho cơ thể ?
- Tại sao chúng ta cần ăn nhiều cam ?

10


Trong quá trình học, để tránh tình trạng trẻ bị nhàm chán, ngồi nhiều mệt
mỏi, tôi đã tổ chức cho trẻ tham gia vào các trò chơi ngắn như trò chơi gieo hạt.
Bên cạnh đó tôi còn lồng ghép giáo dục cho trẻ ăn nhiều trái cây để tốt cho cơ
thể khỏe mạnh, trước khi ăn thì phải biết rữa tay sạch sẽ, và mời mọi người
trước khi ăn, khi ăn xong phải bỏ rác vào nơi quy định.
Bên cạnh đó tôi còn cho trẻ quan sát thêm một số loại quả khác để trẻ biết
được sự đa dạng và phong phú của các loại quả. Nhằm củng cố lại kiến thức củ
cho trẻ, tôi đã tổ chức trò chơi đi qua đường dích dắt không chạm vào chướng
ngại vật để lấy loại quả theo yêu cầu. Giúp trẻ tham gia vào trò chơi được sôi
động hơn tôi đã mở nhạc tạo hứng thú cho trẻ khi chơi.
Với mỗi bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ làm quen, tôi tìm những cách
mở đầu hoạt động khác nhau để gây sự chú ý, tò mò của trẻ. Có thể dùng câu đố,
bài hát, trò chơi… Để trẻ nhận biết đối tượng bằng tranh ảnh và đồ vật, vật thật
và mô hình.
Với mỗi đối tượng cho trẻ làm quen, trẻ cần được quan sát kỹ, trẻ biết đưa
ra ý kiến nhận xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần
làm quen như vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những
hiểu về vật đó mà còn có cách ứng xử, hành động sao cho phù hợp với chúng .
Ngoài ra để cho trẻ có thể khám phá một số hiện tượng thiên nhiên xung

quanh trẻ tôi đã sử dụng công nghệ thông tin để ghi lại sự vật, sự việc diễn ra
xung quanh cuộc sống hàng ngày của trẻ bằng những hình ảnh sống động, phong
phú một cách chi tiết, phù hợp với tâm sinh lý trẻ nhỏ. Tôi dùng những hình ảnh
đẹp về các hiện tượng tự nhiên, về các sự vật xung quanh để trẻ quan sát, suy
nghĩ và phỏng đoán.
Ví dụ : Với chủ đề hiện tượng tự nhiên, tổ chức cho trẻ tìm hiểu về trời
mưa, tôi cho trẻ xem hình ảnh trước khi trời đổ cơn mưa bầu trời xám xịt, mây
đen ùn ùn kéo đến, sấm chớp trên bầu trời, tiếp theo là hình ảnh của những cơn
mưa. Sau cơn mưa ông mặt trời lại chiếu sáng, cây cối đơm hoa, nảy lộc, tươi tốt
hơn.... Mỗi nội dung bài học được xây dựng xuyên suốt, gần gũi với trẻ nên trẻ
tỏ ra vô cùng thích thú.
11


Biện pháp 3 : Tổ chức cho trẻ quan sát trải nghiệm
Trẻ có thể tìm hiểu khoa học tốt nhất khi có cơ hội khám phá và trải
nghiệm. Trẻ được khuyến khích quan sát sự vật, được hỏi, được nêu ý kiến của
mình về những gì trẻ thấy trong môi trường sống. Từ đó trẻ ghi nhớ lâu hơn
những gì trẻ học được khi trẻ tự khám phá và trải nghiệm. Đồng thời rèn cho trẻ
các kỹ năng khám phá khoa học như: Kỹ năng quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp…
Đối với trẻ những hoạt động trải nghiệm thú vị, bổ ích giúp trẻ hình thành
và phát triển các giá trị và kỹ năng sống. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo như
một trò chơi khám phá thế giới bất tận, càng đào sâu càng say mê hơn. Vì thế,
trong quá trình giáo dục trẻ, tôi phối hợp với nhà trường thiết kế cho trẻ các
hoạt động trải nghiệm vừa sáng tạo vừa hiệu quả.
Ví dụ : Cô và trẻ quan sát cây hoa hồng, tôi hướng trẻ nhận biết màu sắc
cánh hoa. Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn, các mép của lá có răng cưa,
ngửi có mùi thơm.
Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối tượng nên trẻ

so sánh rất tốt và phân loại rất nhanh.
Dạo chơi thăm quan khám phá thiên nhiên, cho trẻ trực tiếp trải nghiệm
không những để trẻ hiểu hơn thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình
yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường.Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội
với trẻ về công việc của mỗi người, về mối quan hệ giữa con người với nhau,
đặc biệt là giáo dục an toàn giao thông với trẻ tạo cho trẻ thói quen và ý thức khi
tham gia giao thông. Với trẻ mặc dù kiến thức rất đơn giản như : khi tham giao
thông trên đường bằng xe mô tô thì phải đội mũ bảo hiểm, đi trên đường không
chạy, không nô đùa, đi bên tay phải , hoặc là nhìn những tín hiệu giao thông …
nhưng đã có sức ảnh hưởng rất to lớn.
Ngoài ra tôi còn tận dụng các vật liệu từ thiên nhiên có sẵn trong sân
trường để phát huy tính sáng tạo của trẻ vì đối với trẻ em, thiên nhiên là một
trong những đối tượng và là phương tiện quan trọng để phát triển toàn bộ nhân
12


cách đứa trẻ. Thiên nhiên làm cho đứa trẻ thích thú, chú ý, quan tâm đến xung
quanh hơn, nó làm phát triển năng lực quan sát, trí thông minh và vốn sống thực
tiễn của trẻ. Để trẻ có sự ham thích khám phá thiên nhiên, chúng ta cần cho trẻ
quan sát các sự vật, hiện tượng xung quanh.
Ví dụ: Khi cho trẻ ra sân thấy nhiều lá vàng, cô cho trẻ nhặt lá và cùng
nhau trò chuyện về lá vàng
+ Đố các con đây là lá của cây gì ?
+ Người ta trồng cây để làm gì ?
+ Cây cần gì để sống ?
+ Các con đã làm gì để bảo vệ cây ?
Tôi cũng đã gợi ý cho trẻ chơi, sáng tạo trong sản phẩm của mình từ
những chiếc lá. Trẻ có thể làm ra những bức tranh bằng lá cây. Ngoài ra tôi còn
cho trẻ nhặt nhiều loại lá khác nhau yêu cầu trẻ phân loại lá theo đặc điểm ( lá
tròn, lá dài, lá to, lá nhỏ...) hay là xếp hình các con vật ngộ nghĩnh bằng lá cây...

Trong các tiết học khác tôi cũng lồng ghép kiến thức môi trường xung
quanh để củng cố vốn hiểu biết về biểu tượng đã có của trẻ.
Ví dụ : Trong hoạt động khám phá về động vật sống trong gia đình. Cô
cho trẻ quan sát con vịt thật, cho trẻ được trực tiếp sờ vào lông của con vịt, được
nghe tiếng kêu, xem nó đi như thế nào, thức ăn của vịt ra sao. Cô và trẻ cùng
đàm thoại về con vịt, đặt ra câu hỏi để trẻ tự tìm hiểu và trả lời, từ đó biết được
hình dạng, môi trường sống, thức ăn và cách vận động của nó. Trẻ được thỏa
mãn nhu cầu tò mò tìm hiểu, khám phá những gì trẻ đã biết, tạo cơ hội cho trẻ có
thêm nhiều kiến thức mới để phục vụ cho các môn học khác. Qua giờ học khám
phá này tôi có thể ghép cho trẻ học môn làm quen với chữ cái i, t, c thông qua
cụm từ “ con vịt”
Trẻ tự mày mò khám phá những gì trẻ thích, trẻ hứng thú, trẻ nêu ý kiến
của mình về những gì trẻ khám phá.
Biện pháp 4: Lấy trẻ làm trung tâm.
Việc tổ chức các hoạt động giáo dục theo quan điểm “lấy trẻ làm trung
tâm” là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục mầm
13


non. Để thực hiện đạt chất lượng, hiệu quả nội dung này, tôi cần phải căn cứ vào
điều kiện thực tế ở lớp và khả năng của trẻ của lớp mình, chú trọng giáo dục đạo
đức, hình thành và phát triển kỹ năng sống, hiểu biết xã hội phù hợp với độ tuổi
của trẻ.
Tạo nhiều cơ hội, môi trường thuận lợi cho trẻ. Môi trường ở đây không
chỉ dừng lại ở trong lớp học mà tận dụng tất cả không gian trong và ngoài lớp
nhằm tạo điều kiện cho trẻ được học, chủ động tham gia các hoạt động vui chơi,
khám phá mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt, trẻ được trải nghiệm theo phương châm
“Học bằng chơi, chơi mà học” phù hợp từng độ tuổi khác nhau. Qua đó, trẻ hình
thành nhân cách và phát triển toàn diện”.
Trong quá trình quan sát trải nghiệm cô luôn lấy trẻ làm trung tâm cho trẻ

được tự nhận xét đánh giá về những sự vật, hiện tượng mà trẻ tham gia khám
phá. Trẻ phải tự nói lên ý kiến của mình. Chính vì thế cô cần có kiến thức sâu
rộng về các sự vật hiện tượng, thế giới xung quanh để cung cấp cho trẻ.
Cô luôn quan tâm, phát huy tính tích cực của trẻ trong khi chơi bằng cách
khai thác kinh nghiệm thực tế của trẻ, tận dụng môi trường sẵn có và cho trẻ
được thực hành nhiều nhất. Tạo được nhiều các tình huống cho trẻ phải suy nghĩ
giải quyết tình huống đó và sáng tạo nhiều nội dung chơi, chủ đề chơi phong
phú hơn. Giáo viên luôn hướng trẻ chơi theo một chủ đề thích hợp, mở rộng kỹ
năng chơi và giao tiếp. Trẻ được hoạt động một cách tích cực nhất, từ đó gây
nhiều hứng thú cho trẻ khi chơi.
Cô luôn chú ý tạo cho trẻ cảm giác thoải mái khi quan sát và bầu không
khí vui tươi giữa cô và trẻ để buổi chơi thu được kết quả thành công nhất. Đây là
phương pháp đòi hỏi cô phải chú ý đến sự hứng thú, nhu cầu, khả năng, thế
mạnh của mỗi trẻ để hiểu và đánh giá đúng.
Biện pháp 5: Cho trẻ khám phá mọi lúc mọi nơi.
- Cho trẻ khám phá mọi lúc mọi nơi như giờ chơi, giờ học, giờ ăn, trước
lúc trẻ đi ngủ… giúp trẻ củng cố lại những kiến thức mà trẻ đã học.
Ví dụ: Khi cho trẻ ăn chúng ta có thể cho trẻ khám phá cái tô, cái thìa.
- Đặc điểm của cái tô, cái thìa như thế nào?
14


- Cấu tạo như thế nào, chất liệu gì?
- Tô, thìa dùng để làm gì?
Khi cho trẻ ngủ cho trẻ tìm hiểu về chiếc giường, cái gối? Cho trẻ khám
về đặc điểm, công dụng của chúng…
Trong giờ chơi tôi tổ chức cho trẻ tham gia chơi tự do để trẻ khám khá và
tìm hiểu sự vật, hiện tượng xung quanh. Như chơi với cát, sỏi,... khi cho trẻ chơi
với cát, sỏi, và nước luôn mong muốn mang đến cơ hội cho trẻ sử dụng các giác
quan để khám phá thế giới tự nhiên. Trẻ có thể chơi say sưa hàng giờ khám phá

và sáng tạo cùng với cát, sỏi và nước. Chơi với cát, sỏi và nước là hoạt động
chơi được trong khoản thời gian lâu, đồng thời mang lại nhiều lợi ích cho trẻ.
Chơi với cát, sỏi, và nước giúp bé thông minh, vận động nhanh nhẹn.
Chơi với cát, sỏi và nước kích thích sự phát triển của đôi bàn tay dẫn đến
phát triển cân bằng của não và tăng khả năng tư duy logic sáng tạo cho trẻ. Trẻ
có thể viết chữ cái, chữ số trên cát, làm bánh, xây lâu đài...Chơi với nước trẻ biết
cách pha màu, lọc nước, đong nước, vật chìm, vật nổi trong nước...
Khi trẻ được tham gia chơi với cát, sỏi và nước cùng bạn bè chính là lúc
trẻ học cách chia sẽ, hợp tác cùng nhau. Qúa trình chơi giúp trẻ học cách phát
triển cảm xúc của mình như tự tin khi thành công, biết chấp nhận thất bại của
bản thân.
Cho trẻ chơi tự do giúp cho trẻ thõa mãn nhu cầu tìm tòi, khám phá thiên
nhiên, phát triển khả năng sáng tạo nghiên cứu tìm ra cái mới tích lũy các kiến
thức, rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp và đánh giá các sự vật, hiên tượng
xung quanh.
Biện pháp 6: Kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh
Bên cạnh đó sự quan tâm con cái của phụ huynh đóng vai trò hết sức
quan trọng và chủ đạo bên cạnh cô giáo. Sự phối hợp giữa gia đình và nhà
trường luôn là nền móng vững chắc, nhằm chăm sóc và giáo dục trẻ có sự đồng
nhất liên kết hơn. Để làm tốt điều đó tôi lên kế hoạch giảng dạy theo từng chủ đề
rồi treo ở bảng tuyên truyền những thông tin cần thiết để các bậc phụ huynh đọc
hàng ngày hoặc phát bài tuyên truyền cho từng phụ huynh theo từng chủ đề. Qua
15


đây phụ huynh cũng biết được một số nội dung, biện pháp rèn luyện cho trẻ
đồng thời kết hợp chặt chẽ với giáo viên để thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo
dục trẻ. Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tôi
thấy trẻ lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào mọi hoạt động.
Vào giờ đón trả trẻ tôi thường trao đổi tình hình học tập, mọi vấn đề cần

thiết của trẻ trong ngày cho phụ huynh được rõ... Tôi còn trao đổi phương pháp,
cách dạy và bài dạy cho trẻ học thêm ở nhà và còn giao thêm nhiện vụ cho phụ
huynh cùng trẻ làm một số đồ chơi hoặc tìm kiếm, tự làm một số đồ dùng phục
vụ cho hoạt động tới...Sau một thời gian dài phối hợp tôi thấy kiến thức của trẻ
nâng lên rõ rệt, tiến bộ, chủ động hơn. Tôi thông báo trở lại với phụ huynh họ rất
vui vẻ và phối hợp chặt chẽ hơn.
Khám phá khoa học cần rất nhiều đồ dùng đồ chơi, đặc biệt là đồ dùng tự
tạo sẽ góp phần phong phú tiết học. Từ đó vận động các bậc phụ huynh cùng
tham gia đóng góp thêm các loại đồ dùng như có phụ huynh đã sưu tầm các loại
tranh ảnh về các con vật hoa quả, làm một số con vật ngộ nghĩnh bằng len...,
một số phụ huynh còn ủng hộ các cây cảnh, cây hoa và một số loại cây ăn quả
để trồng ở vườn trường và góc thiên nhiên, vì phần lớn là trẻ em nông thôn nên
đặc biệt các sẩn phẩm của nông nghiêp được phụ huynh ủng hộ rất nhiệt tình.
Qua tìm hiểu về nghề nghiệp của bố mẹ trẻ tôi đã nắm được nghề của bố mẹ trẻ
từ đó tôi có kế hoạch gặp gỡ và trao đổi nhờ các bậc phụ huynh sưu tầm những
vật liệu hỏng bỏ đi để gom lại mang về làm đồ chơi. Hàng ngày trước khi dạy
một bài tìm hiểu nào tôi thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh về bài học
ngày hôm nay, về nhà các bậc phụ huynh cùng trò chuyện với trẻ về bài học
hoặc có thể cung cấp cho trẻ một số kiến thức để cho trẻ học tập tốt hơn.
IV. Tính mới của giải pháp
Với phương pháp cũ, phương pháp dạy học không thay đổi, cô giáo áp đặt
các hình thức hoạt động, trẻ chỉ thụ động, nhàm chán, làm cho trẻ càng ngày
càng ít hứng thú, không tích cực tham gia vào hoạt động khám phá trải nghiệm.
Còn với những phương pháp mới, giáo viên tìm hiểu, nắm rõ tâm tư nguyện
vọng của từng trẻ, cho trẻ hoạt động một cách tích cực, chú trọng thay đổi hình
16


thức để tăng tính kích thích, sáng tạo , hứng thú cho trẻ, giáo dục với nhiều hình
thức, thông qua giờ khám phá trên lớp, tham gia vào các trò chơi trải nghiệm,

hoạt động ngoài trời, khám phá xã hội và con người. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn,
hình thành một số kỹ năng nhận biết, thể hiện tình cảm với con người, sự vật,
hiện tượng, và thế giới xung quanh. Cung cấp kiến thức cho trẻ thông qua việc
học mà chơi, chơi mà học. Tạo tình huống cho trẻ được sử lý bằng nhiều cách
khác nhau. Giúp trẻ phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ.
V. Hiệu quả SKKN:
Giúp học sinh nhanh nhẹn, chủ động trong mọi hoạt động. Trẻ nắm được
một số kiến thức khoa học, kiến thức xã hội khi tham gia tích cực vào những
hoạt động khám phá các sự vật hiện tượng, thiên nhiên và con người.
Tìm ra một số biện pháp giúp trẻ 5 – 6 tuổi học tốt môn khám phá khoa
học, nhằm phát huy tính tích cực cho trẻ, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển
năng lực, nâng cao chất lượng, hiệu quả về việc khám phá thế giới xung quanh
trẻ.
Kết quả đạt được như sau:
Số
Nội dung

lượng

Kết quả
Tỷ lệ Khá

Tỷ lệ

TB

39

36


91,7%

3

8,3%

0

0

39

34

86,1%

5

13,9%

0

0

39

37

94,4%


2

5,6%

39

39

100%

trẻ
Sự tự tin, tích cực
chủ động
Khả ăng giao tiếp
của trẻ
Tò mò ham hiểu
biết
Thể hiện về một
số hiểu biết về
thế

giới

xung

Tỷ

Tốt

lệ


Yếu

Tỷ lệ

quanh
- Đối với cô.
17


Bản thân tôi đã đút rút được nhiều kinh nghiệm nhiều trong việc lựa chọn
các trò chơi, các hình thức phong phú và đặc biệt tạo cho trẻ các tình huống hấp,
dẫn lôi cuốn trẻ vào hoạt động tích cực, có hiệu quả mà không thấy nhàm chán
khi tham gia vào các hoạt động.
Giáo viên thực sự yêu nghề mến trẻ, có năng lực sư phạm, nắm chắc
chuyên môn.
Có sự hiểu biết về kỹ năng dạy trẻ môn khám phá khoa học
Có sự sáng tạo trong mỗi tiết dạy, luôn có sự đổi mới trong phương pháp
dạy trẻ.
- Đối với trẻ.
Trẻ chủ động tham gia vào các hoạt động khám phá, điều đáng nói ở đây
trẻ thường xuyên thảo luận cùng nhau, đưa các câu hỏi đố nhau khi bắt gặp một
hiện tượng lạ và một đối tượng nào đó và đặc biệt hỏi cô vì sao lại như vậy hả
cô...
Trẻ hoàn toàn chủ động trong các buổi thực hành và là một thành viên
tuyên truyền đến gia đình trong việc ăn uống hợp vệ sinh và thực hiện tốt luật an
toàn giao thông. Trẻ có thái độ đúng đắn với các sự vật và môi trường sống xung
quanh trẻ.
- Đối với phụ huynh.
Đa số các bậc phụ huynh có sự nhìn nhận đúng đắn, tầm quan trọng của

môn học.
Phụ huynh nhiệt tình trong việc cùng cô kiếm vật liệu, làm đồ dùng đồ
chơi...
Đặc biệt phụ huynh biết cách ôn luyện kiến thức, cùng trẻ quan sát các đối
tượng có hiệu quả.
Phần thứ ba : KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận: Việc dạy trẻ môn “Khám phá khoa học” là một trọng tâm
trong những nội dung lớn của chương trình giáo dục cho trẻ mầm non. Nhằm
phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách góp phần toàn diện cho trẻ, đặc biệt trẻ
5 - 6 tuổi chuẩn bị kỹ năng sống cho cho trẻ ở phổ thông.
18


Việc làm này rất có ý nghĩa đối với các trường mầm non mà đồi hỏi các
giáo viên mầm non cần nắm vững những nội dung chương trình và thường
xuyên mở rộng nội dung chương trình.
Ngoài việc cung cấp cho trẻ những kiến thức, kỹ năng mới còn phải thường
xuyên tổ chức cho trẻ luyện tập bằng các biện pháp phù hợp nhằm ôn luyện,
củng cố và nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh.
Chính vì vậy việc nghiên cứu tìm tòi những biện pháp dạy học để có hiệu
quả hỗ trợ phương pháp trong việc giúp giáo viên nâng cao chất lượng môn
“Khám phá khoa học” là cần thiết đối với giáo viên mầm non.
Để gây được hứng thú cho trẻ và nâng cao chất lượng dạy và học của hoạt
động “Khám phá khoa học”, trước hết đòi hỏi người giáo viên phải nắm được
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong độ tuổi này.
Nắm được sự đổi mới của chương trình giảng dạy, bên cạnh đó giáo viên
cần phải học tập qua các lớp bồi dưỡng, lớp tập huấn, nhất là các hội thi … để
đúc rút được nhiều kinh nghiệm và khắc phục những hạn chế về hình thức tổ
chức.
Tích cực sáng tạo nhiều cách dạy mới lạ và làm đồ dùng, đồ chơi sinh động

hấp dẫn từng những nguyên vật liệu phế thải.
Cô giáo cần mẫu mực yêu thương, tôn trọng đối xử công bằng với trẻ, coi
trẻ như con của mình, cô giáo cần phải tạo hứng thú cho trẻ khi tiếp xúc với môn
học này.
Cần phải học tập và cho trẻ tiếp xúc nhiều với công nghệ thông tin nhằm
kích thích tính tò mò ham hiểu biết của trẻ.
Đối với bản thân qua nghiên cứu tài liệu, qua sự học hỏi kinh nghiệm từ
các đồng nghiệp tôi đã có thêm nhiều kinh nghiệm và kiến thức trong việc giảng
dạy.
Là giáo viên tâm huyết với nghề yêu nghề mến trẻ không ngừng tham khảo
đọc tài liệu tìm kiếm thiết kế những bài dạy điện tử, tham khảo những trò chơi,
các hình thức áp dụng cho bài dạy thêm phong phú, nội dung chương trình dạy
trẻ một cách sáng tạo, linh hoạt giúp trẻ phát triển về mọi mặt. Tôi cảm thấy rất
19


vui khi được góp một phần nhỏ bé của mình vào sự đổi mới của giáo dục mầm
non.
II. Kiến nghị:
Trong qúa trình làm đề tài bản thân tôi có một số kiến nghị đề xuất sau:
Để phát huy tính tích cực, chủ động của trẻ thông qua hoạt động khám phá
khoa học, rất mong lãnh đạo cấp trên quan tâm nhiều hơn nữa tạo cho sân
trường có mái che để thuận tiện cho các cháu tham gia hoạt động khám phá
thiên nhiên được thuận tiện và tốt hơn.
Tổ chức tham quan học hỏi các tỉnh khác để được giao lưu học hỏi rút kinh
nghiệm về các hình thức đổi mới trong môn hoạt động ngoài trời để giáo viên
chúng tôi sớm cập nhật thông tin để về thực hiện ở trường được tốt hơn
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự quan tâm giúp
đỡ của các chị em đồng nghiệp và đặc biệt là ban giám hiệu nhà trường. Nhưng
không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của ban

lãnh đạo cấp trên và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng tốt hơn.
Buôn Trấp, ngày 27 tháng 3 năm 2019
Người viết

Phan Thị Lài
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
20


.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
TM/ HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN
HIỆU TRƯỞNG

Nguyễn Thị Thịnh

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT Tên tài liệu


Tác giả

1

GS_TS Nguyễn Quang

Sách Tâm Lý Học Đại Cương

Uẩn do NXB Đại Học Sư
Phạm phát hành
2

Chương trình giáo dục mầm non

3

Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ 5-6 Trần Thị Trọng
tuổi

NXB Giáo dục phát hành

Phạm Thị Sửu

4

Bồi dưỡng thường xuyên

5

Sách Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm TS Đinh Thị Tứ và

Non.

PGS_TS
Ngọ .

Phan
Do NXB

Trọng
Giáo

Dục phát hành.

22



×