Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất với vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.88 KB, 22 trang )

A. Phần Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài:
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam
khởi xớng và lãnh đạo, đất nớc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội và đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc, kinh tế đã có những bớc phát triển ổn định, vững
chắc, tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất, kỷ thuật không ngừng
đợc nâng cao, đời sống nhân dân tiếp tục đợc cải thiện, vị
thế của nớc ta trên trờng quốc tế đợc nâng cao. Từ thực tiễn
đổi mới phong phú và sinh động, tại Đại hội IX, Đảng ta đã có bớc đột phá lý luận sáng tạo, chính thức đa ra mô hình hoàn
toàn mới cha có tiền lệ trong lịch sử và nó cũng cha đợc kiểm
nghiệm trong thực tiễn: phát triển kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa. Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong những năm qua, nhiều vấn đề xung quanh mô
hình kinh tế tổng quát do Đại hội IX đề ra nh: Kinh tế thị trờng và chủ nghĩa xã hội có kết hợp đợc với nhau không? Cơ chế
vận hành kinh tế trong mô hình này sẽ nh thế nào? Kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa có gì tơng đồng, có gì
khác kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thông thờng? Để đảm bảo phát triển bền vững và giữ vững định hớng
xã hội chủ nghĩa Đảng và Nhà nớc ta phải đổi mới t duy, đề ra
các đờng lối, chủ trơng, cơ chế, chính sách nh thế nào? Do
nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề xây dựng nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa nên tôi đã chọn đề
tài: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của
lực lợng sản xuất với vấn đề xây dựng nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa là vấn đề giành đợc nhiều sự quan tâm của các
1



nhà nghiên cứu và đông đảo ngời Việt Nam yêu nớc quan tâm
đến sự phát triển của đất nớc bàn luận và trao đổi. Bàn về
vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa đã đợc đề cập trong nhiều cuộc hội thảo, đăng tải trên
một số sách, báo và tạp chí trong thời gian qua.

III. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu:
Bài tiểu luận này sẽ dựa trên các tài liệu đã có và chọn lọc
đối chiếu và tổng hợp lại để đa ra cái nhìn tổng quát về
quan điểm của triết học Mác- Lênin về tính thống nhất giữa
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lợng sản
xuất và vận dụng nó vào quá trình phát triển nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bên cạnh đó đề
tài cũng chỉ ra vai trò của nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
IV. ý nghĩa của đề tài:
Đề tài nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ giữa quy luật sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lợng sản xuất từ đó vận dụng
quy luật này để xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa một cách khoa học và thiết thực hơn.
V. Cấu trúc đề tài:
Đề tài gồm 4 phần:
A. Phần mở đầu; B. Phần nội dung; C. Phần kết luận; D.
Tài liệu tham khảo.
A. Phần mở bao gồm:
Lý do chọn đề tài, tình hình nghiên cứu đề tài, cơ sở lý
luận và phơng pháp nghiên cứu, ý nghĩa đề tài và cấu trúc
đề tài.
B. Phần nội dung gồm 2 chơng:


2


Chơng I: Lý luận chung của triết học Mác - Lênin về quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Chơng II: Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lợng sản xuất vào việc xây dựng nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
C. Phần kết luận.
D. Tài liệu tham khảo.

3


B. Phần nội dung
Chơng I: Lý luận chung của triết học Mác - Lênin về
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất.
1. Các khái niệm cơ bản về phơng thức sản xuất, lực
lợng sản xuất và quan hệ sản xuất:
1.1. Phơng thức sản xuất:
Sản xuất vật chất đợc tiến hành bằng phơng thức sản
xuất nhất định. Phơng thức sản xuất là cách thức con ngời
thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch
sử nhất định của xã hội loài ngời.
Mỗi xã hội đợc đặc trng bằng một phơng thức sản xuất
nhất định. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phơng thức sản
xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài ngời
từ thấp đến cao.

Trong sản xuất, con ngời có Quan hệ song trùng: Một
mặt là quan hệ giữa ngời với tự nhiên, biểu hiện ở lực lợng sản
xuất, mặt khác là quan hệ giữa ngời với ngời, tức là quan hệ
sản xuất. Phơng thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực
lợng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tơng ứng.
1.2. Lực lợng sản xuất.
Lực lợng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con ngời với
tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất,
con ngời kết hợp sức lao động của mình với t liệu sản xuất trớc
hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự
nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.
Vì vậy, lực lợng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới
tự nhiên của con ngời nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của
mình. Lực lợng sản xuất là sự kết hợp ngời lao động và t liệu
sản xuất, nh Lênin đã nói: Lực lợng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân, là ngời lao động(1). Chính
4


ngời lao động là chủ thể của quá trình lao động, sản xuất với
sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng t liệu lao
động, trớc hết là công cụ lao động, tác động vào đối tợng lao
động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với ngời lao động,
công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lợng sản
xuất, đóng vai trò quyết định trong t liệu sản xuất. Công cụ
lao động do con ngời sáng tạo ra là: Sức mạnh của tri thức đã
đợc vật thể hoá nó nhân sức mạnh của con ngời trong quá
trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố đồng
nhất của lực lợng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh

nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao
động không ngừng đợc cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải
tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến
đổi toàn bộ t liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên
nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển
công cụ lao động là thớc đo trình độ chinh phục tự nhiên của
con ngời, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong
lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lợng sản xuất, khoa học đóng
vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với
sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ngày nay khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong
đời sống và trở thành Lực lợng sản xuất trực tiếp. Sức lao
động đặc trng cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh
nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói
: Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trng cho lực lợng sản
xuất.
1.2. Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa ngời với ngời trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội): quan hệ sản
xuất gồm 3 mặt: quan hệ sở hữu đối với t liệu sản xuất, quan
hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân
phối sản phẩm sản xuất ra.

5


Quan hệ sản xuất do con ngời tạo ra, nhng nó hình thành
một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ

thuộc vào ý muốn chủ quan của con ngời. C.Mác viết : Trong
sản xuất, ngời ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên ngời ta
không thể sản xuất đợc nếu không kết hợp với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động
với nhau. Muốn sản xuất đợc ngời ta phải có những mối liên hệ
và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự
nhiên tức là việc sản xuất (2). Quan hệ sản xuất là hình thức xã
hội của sản xuất, giữa 3 mặt của quan hệ sản xuất thống nhất
với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tơng
đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lợng sản
xuất.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất, quạn hệ sở hữu về t
liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản đặc trng
cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về t
liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản
xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng nh các quan hệ xã hội
khác.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động
đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá
trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình
sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở
hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy
nhiên có trờng hợp quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng
với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do
quan hệ sở về t liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản
xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con
ngời, nên nó tác động đến thái độ của con ngời trong lao
động sản xuất và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản
xuất phát triển.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất
với trình độ của lực lợng sản xuất.

6


Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phơng thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động
qua lại một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển của xã
hội.
Khuynh hớng chung của sản xuất vật chất là không ngừng
phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự
biến đổi và phát triển của lực lợng sản xuất, trớc hết là công cụ
lao động. Trình độ lực lợng sản xuất trong từng giai đoạn lịch
sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời trong
giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lợng sản xuất biểu hiện ở
trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ
năng lao động của con ngời, trình độ tổ chức và phân công
lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lợng sản xuất là tính chất
của lực lợng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lợng sản xuất đã
phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá.
Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động
kém phát triển thì lực lợng sản xuất chủ yếu có tính cá nhân.
Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao
động xã hội phát triển thì lực lợng sản xuất có tính xã hội hoá.
Vì vậy: sự vận động, phát triển của lực lợng sản xuất quyết
định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi
một phơng thức sản xuất ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù

hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất
là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là Hình thức
phát triển của lực lợng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các
mặt của quan hệ sản xuất đều Tạo địa bàn đầy đủ cho
lực lợng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều
kiện sử dụng và kết hợp một cách tối u giữa ngời lao động với t
liệu sản xuất và do đó lực lợng sản xuất có cơ sở để phát triển
hết khả năng của nó.

7


Sự phát triển của lực lợng sản xuất đến một trình độ
nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành
không phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản xuất. Khi đó,
quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lợng sản xuất,
kìm hãm lực lợng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của
sự phát triển lực lợng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan
hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển mới của lực lợng sản xuất để thúc đẩy lực lợng sản
xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng
sản xuất mới cũng có nghĩa là phơng thức sản xuất cũ mất đi,
phơng thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: Tới
một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lợng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản
xuất hiện có.trong đó từ trớc đến này các lực lợng sản xuất
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lợng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích
của lực lợng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng xã hội(1).

Nhng rồi quan hệ sản xuất mới này sẽ lại trở nên không còn
phù hợp với lực lợng sản xuất đã phát triển hơn nữa, sự thay thế
phơng thức mới lại diễn ra.
Lực lợng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhng
quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tơng đối và tác động
trở lại sự phát triển của lực lợng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy
định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
ngời trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao
động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ.v.vvà do đó tác động đến sự phát triển của lực lợng
sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lợng sản xuất phát
triển. Ngợc lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên
tiến hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất,
thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ đợc thay thế
8


bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất để thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lợng sản
xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó thông qua
nhận thức và hoạt động, cải tạo xã hội con ngời. Trong xã hội có
giai cấp phải thông qua đấu tranh, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của
lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ t bản chủ nghĩa

và đến xã hội cộng sản tơng lai là do sự tác động của hệ
thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất là quy luật
cơ bản nhất.

9


Chơng II: Vận dung quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lợng sản xuất vào việc xây dựng
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc
ta.
1. Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chúng ta biết rằng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ra đời gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng cộng
sản Việt Nam khởi xớng và lãnh đạo. Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới
mẻ và phức tạp, gắn bó giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy
luật khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chủ
thể chính là Đảng cộng sản, Nhà nớc xã hội chủ nghĩa và nhân
dân lao động. Tuy nhiên không phải ngay một sớm, một chiều
Đảng ta đã có đợc nhận thức đầy đủ về vấn đề hệ trọng này.
Sự hình thành t duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình tìm tòi, thể
nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ cha đầy đủ, cha hoàn
thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Nếu nh trong văn kiện Đại hội VI và hội nghị Trung ơng VI
(Khoá VI), Đảng ta mới đa ra quan điểm: Phát triển nền kinh tế
thị trờng có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên xã hội chủ
nghĩa, coi đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc và mang tính

quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội thì Đại hội VII
khẳng định : Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc(1). Rõ ràng, ở đây đã thừa nhận
kinh tế hàng hoá, thừa nhận kinh tế thị trờng, nhng một cách
10


có điều kiện, chỉ nh một cơ chế điều tiết và vận hành kinh
tế, gắn với triển vọng phát triển định hớng xã hội chủ nghĩa
và sự quản lý của Nhà nớc, là điều kiện tất yếu đảm bảo cho
định hớng này.
Nhng phải tới Đại hội Đảng IX, kinh tế thị trờng mới đợc
khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ nh là mô hình kinh
tế tổng quát hay mô hình mới chuyển đổi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam có những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu
sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử cụ
thể của đất nớc. Có những khía cạnh đáng lu ý quy định sự
lựa chọn mô hình kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ nhất: Cho dù tiến hoá nội sinh hay xu hớng tự phủ
định không cỡng lại đợc của chủ nghĩa t bản để đi tới chủ
nghĩa xã hội.
Thứ hai: Trong tình hình hiện nay, rõ ràng việc lựa chọn
kinh tế thị trờng cần phải kết hợp với định hớng theo những t
tởng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan.
Thứ ba: Việt Nam không thể chấp nhận sao chép nguyên
mẫu kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa, cho dù đó là những mô
hình phát triển nhất trong thời đại hiện nay.
Thứ t: Nền kinh tế thị trờng hiện đại ngày càng thể hiện

sự tự phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn
mới cao hơn - hậu công nghiệp và kinh tế tri thức, theo xu hớng
xã hội hoá mang tính xã hội chủ nghĩa. Không phải là không có
cơ sở khi khoa học kinh tế về cái gọi là: Bảng hình thái mới của
kinh tế, chính trị học - định hớng và phát triển nhân văn, lấy
con ngời làm trung tâm thay cho sự nô dịch con ngời vào phơng thức sản xuất vật chất. Hơn nữa trong điều kiện hiện
đại, nh C.Mác đã từng dự báo là một khả năng hiện thực xét cả
về hai phơng diện: Tính tất yếu kinh tế - xã hội cũng nh tính
tất yếu công nghệ - kỹ thuật.

11


Xét trên ý nghĩa này, chúng ta lựa chọn mô hình kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính sáng tạo
và chủ động Đi tắt, đón đầu xu thế phát triển của thời đại.
Thứ năm: Xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá chỉ
là hình thái đặc biệt và nấc thang trung gian cần thiết để
chuyển đổi xã hội từ trình độ 1 (nông nghiệp phi thị trờng)
lên trình độ 3 (hậu công nghiệp, hậu thị trờng). Đây cũng là
con đờng ngắn nhất để đi lên nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa một cách nhanh chóng và thiết thực nhất.
2. Đặc trng của nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Đặc trng về chế độ sở hữu:
Sở hữu trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam kết hợp công hữu và t hữu với nhiều loại
hình cùng tồn tại trong một cơ cấu thống nhất.
Cơ cấu sở hữu với các hình thức đa dạng, đan xen
và hỗn hợp của nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa.

Về cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cho đến nay cũng còn nhiều ý
kiến khác nhau. Phơng pháp tiếp cận của chúng tôi ở đây là:
Cần nhìn thẳng vào thực tiễn vận hành của nền kinh tế để
tìm ra hạt nhân hợp lý của nó. Không thể phủ nhận rằng, quá
trình đổi mới ở Việt Nam gần 2 thập kỷ qua đã có sự biến
đổi căn bản và đi vào chiều sâu, trong đó, đáng lu ý là sự
biến đổi của cơ cấu sở hữu. Từ một nền kinh tế dựa trên nền
tảng đơn nhất và thuần nhất là chế độ công hữu, với hai
hình thức toàn dân và tập thể, đã từng bớc hình thành một
cơ cấu sở hữu nhị nguyên: công, t kết hợp với nhiều hình thức
sở hữu đa dạng, đan xen, hỗn hợp, ngày càng thích ứng với
thực tiễn kinh doanh, cho phép huy động mọi nguồn lực trong
và ngoài nớc vào tăng trởng và phát triển kinh tế theo mục tiêu
Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

12


Có thể đánh giá sự biến đổi về cơ cấu sở hữu ở nớc ta thời
gian qua nh sau:
Thứ nhất: Việc bãi bỏ Ngăn sông, cấm chợ và cho phép tự
do hoá kinh doanh đã làm sống lại và phát triển nhanh chóng
khu vực kinh tế dựa trên sở hữu t nhân dới mọi hình thức: cá
thể, tiểu thủ và doanh nghiệp t nhân trong các lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ.
Thứ hai: Mềm hoá sở hữu và tạo ra cơ cấu phân quyền,
phân chia quyền sở hữu Nhà nớc (hay toàn dân), làm cho sở
hữu dần dần thích ứng với điều kiện thị trờng và thúc đẩy
sản xuất tiếp tục phát triển. Có thể coi đây là một trong

những đặc trng và u thế của cải cách tuần tự.
Thứ ba: Quá trình mở rộng kinh tế đối ngoại đã tạo cơ hội
cho sự xác lập và phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Về cơ bản thành phần này hoạt động dựa trên chế
độ sở hữu t nhân và các quy luật thị trờng.
Thứ t: Cuối cùng, quá trình cải tổ chế độ sở hữu toàn
dân mà trong thực tế quản lý và vận hành tài sản kinh doanh
thuộc sở hữu Nhà nớc, cùng với quá trình mở rộng kinh tế đối
ngoại và phát triển kinh tế t nhân trong nớc trên đây, đã hình
thành khu vực kinh tế hỗn hợp t bản Nhà nớc với kết cấu đa
nguyên về sở hữu.
Không thể không thừa nhận rằng những biến đổi sâu
sắc trong cơ cấu sở hữu trên đây là nguyên nhân sâu xa của
những thành tựu kinh tế thời kỳ đổi mới. Hơn nữa, sự tồn tại
của nhiều hình thức sở hữu đa dạng dựa trên sở hữu t nhân
đang phát triển đã chứng minh tính tất yếu của quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển đa dạng và năng
động của lực lợng sản xuất trong nền kinh tế Việt Nam định
hớng thị trờng, mở cửa và hội nhập. Xét tổng thể quá trình
hình thành cơ cấu sở hữu của nền kinh tế thị trờng hớng xã
hội chủ nghĩa ở nớc ta tuân theo những xu hớng chủ yếu sau:

13


Đa dạng hoá các loại hình sở hữu, phân tách quyền sở
hữu với quyền sử dụng (kinh doanh) tài sản, liên kết sở hữu tài
sản dới hình thức chế độ đa nguyên, tài sản của các doanh
nghiệp và tổ chức kinh tế.
Khu vực kinh tế dựa trên sở hữu t nhân có xu hớng phát
triển nhanh chóng, thích ứng cao và tỏ rõ tiềm năng vốn có

trong cơ chế thị trờng. Trái lại, các doanh nghiệp và tổ chức
kinh tế dựa trên các hình thức công hữu có xu hớng thu hẹp tỷ
trọng và tỏ ra khó thích ứng với cơ chế thị trờng mặc dù đã có
sự hỗ trợ rất lớn của Nhà nớc trong quá trình cải tổ. Nhà nớc đã
và đang đa ra nhiều giải pháp nh: Hình thành tập đoàn,
công ty mẹ, con, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
làm cho hoạt động của doanh nghiệp Nhà nớc phù hợp với điều
kiện thị trờng.
Cần khẳng định rằng: Đặc trng về sở hữu của nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chế độ
sở hữu nhị nguyên, nhiều loại hình cùng tồn tại trong một cơ
chế thống nhất.
Để đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất nói chung,
quan hệ sở hữu nói riêng đối với lực lợng sản xuất đa dạng,
nhiều trình độ, và phát triển năng động theo xu hớng thị trờng hoá, xã hội hoá và quốc tế hoá hiện nay thì cơ cấu sở hữu
của nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa cần phải
là việc cùng tồn tại gắn bó hữu cơ giữa sở hữu công cộng và
sở hữu t nhân dới các hình thức đa dạng, trong sự phân công
và phối hợp tự nhiên dựa trên chức năng và khả năng vốn có của
các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp theo yêu cầu xây dựng,
phát triển kinh tế.
Vai trò thống trị trong cơ cấu sở hữu của nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Hình thức sở hữu Nhà nớc xã hội chủ nghĩa và hình thức
sở hữu tập thể của những ngời lao động đều là những hình
thức sở hữu công cộng trong nền kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, ở Việt Nam các hình thức đó cũng
14



là hình thức biểu hiện của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa
trong phạm vi và với ý nghĩa là cơ sở kinh tế trực tiếp để thực
hiện lợi ích của nhân dân lao động. Các hình thức này một
khi đợc tổ chức theo hình thức công ty cổ phần và có thể
dung nạp đợc lực lợng sản xuất hiện đại thì khi đó nó đã thực
sự mang ý nghĩa đầy đủ hơn là hình thức công hữu xã hội
chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu
của chế độ sở hữu luôn luôn có nhiều loại hình sở hữu. Trong
đó, chế độ công hữu tồn tại nh một tất yếu khách quan với
nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với nhu cầu khách quan của
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong kết
cấu đó, chế độ công hữu có chiếm u thế hay không, điều
đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan mà vào tính tất yếu
kinh tế.
Về đặc trng vận động của cơ cấu sở hữu trong
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Phơng pháp luận cơ bản để xác định xu hớng vận động
của cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa là xuất phát từ xu hớng vận động khách quan
của quá trình phát triển lực lợng sản xuất hiện đại. Đó là sự
phát triển của lực lợng sản xuất dới sự tác động ngày càng mạnh
mẽ, trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại và sự tác động khách quan của các xu hớng quốc tế hoá,
toàn cầu hoá. Với những tác động đó, xu hớng phát triển của
lực lợng sản xuất hiện đại một mặt theo xu hớng hiện đại hoá
tập trung, nhng mặt khác cũng diễn ra xu hớng phi tập trung.
Hai xu hớng phát triển đó của lực lợng sản xuất phản ánh mức
độ phát triển đầy đủ của lực lợng sản xuất hiện đại, nó tạo ra
tính thống nhất, tập trung của nền sản xuất xã hội, nhng đồng
thời cũng tạo tính dân chủ rộng rãi trong hoạt động kinh tế. Phù

hợp với 2 xu hớng đó diễn ra các quá trình:
Hợp nhất hoá các quyền sở hữu trong một chủ thể kinh tế
thống nhất (thí dụ: hợp nhất hoá các quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt, hởng lợi trong phạm vị chủ thể kinh tế Nhà

15


nớc ở một số tổ chức kinh tế và doanh nghiệp Nhà nớc thuộc
một số lĩnh vực đặc biệt của nền kinh tế).
Phân tách hoá một số quyền trong tập hợp quyền sở hữu
t liệu sản xuất, từ đó tạo điều kiện hình thành kết cấu quyền
tài sản đa dạng đa nguyên của các tổ chức kinh tế và doanh
nghiệp. Cũng do đó, quá trình phân bổ các nguồn lực cho
sản xuất và kinh doanh trở nên năng động và có hiệu quả theo
cơ chế thị trờng.
Kết cấu kinh tế trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa bao gồm 2 khu vực là khu vực kinh tế nhà nớc và
khu vực kinh tế t nhân. Hai khu vực này có chức năng cụ thể
khác nhau nhng đều cùng chung một mục đích là phát triển
nền kinh tế thị trờng hiện đại ở Việt Nam, về mục tiêu Dân
giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kể từ khi đổi mới đến nay, vấn đề thành phần kinh tế ở
Việt Nam vẫn còn nhiều tranh luận. Quan điểm mới nhất mà
Đảng ta đã thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX là thừa nhận
nền kinh tế nớc ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế và định
vị rõ tính chất, vai trò của từng thành phần. T tởng đó đợc
thể hiện trong tinh thần Đại hội IX nh sau:
Động lực chủ yếu để phát triển đất nớc là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và

tri thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà với các lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các
thành phần kinh tế, của toàn xã hội(1).
Thực hiện tính chất nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh
theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà
nớc giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nớc cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân(2).

16


Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh
đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu giữa các thành phần
kinh tế với nhau, giữa trong nớc và ngoài nớc(3).
.xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt, đối xử về
quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, hớng tới tơng lai(4).
Nhà nớc tạo môi trờng pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho
các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển.
Nhà nớc và xã hội tôn trọng thu nhập hợp pháp của ngời
kinh doanh
Nh vậy cho đến nay có nhiều đổi mới quan trọng có tính
chất đột phá của Đảng liên quan đến chủ trơng, chính sách
phát triển các thành phần kinh tế đặc biệt là thành phần kinh
tế t nhân.
Kinh tế t nhân trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã

hội chủ nghĩa đợc coi là lực lợng quan trọng phát triển kinh tế
của đất nớc. Sự phát triển khu vực kinh tế là phù hợp với lực lợng
sản xuất đang lên và là một trong những cơ sở hình thành cơ
chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Nh vậy nội dung của kinh tế t nhân rất rộng cả về hình
thức sở hữu lẫn ngành nghề mà các chủ thể đó tham gia vào
sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
căn cứ vào tính chất phi xã hội chủ nghĩa nhiều hay ít mà kinh
tế t nhân đợc phân chia ra các thành phần: kinh tế cá thể
tiểu thủ và kinh tế t bản t nhân. Sự phân loại này chủ yếu
phục vụ cho mục tiêu cải tạo xã hội chủ nghĩa và mang nặng
tính chủ quan. Nó không xuất phát từ bản chất của một loại
hình kinh tế nh là những căn cứ phân loại thành phần của
V.Lênin trong việc tìm hiểu cơ cấu kinh tế của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ. Trong kinh tế thị trờng căn cứ vào mô
hình tổ chức sản xuất kinh doanh cũng nh vai trò của các mô
hình này trong việc tạo ra sản phẩm cho xã hội khu vực kinh tế

17


t nhân đợc hình thành theo một kết cấu gồm: các loại hình
kinh tế cá thể và doanh nghiệp t nhân:
Kinh tế cá thể là loại hình kinh tế hộ gia đình hay cá
nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên quan hệ sở hữu
t nhân về t liệu sản xuất và lao động của chính hộ cá thể hay
cá nhân đó. Việc thuê mớn lao động là không có, nếu có
không nhiều, không thờng xuyên. Kinh tế cá thể ở nớc ta cha có
điều kiện trang bị công cụ lao động và năng suất rất thấp, do
đó mức độ tích luỹ, tái sản xuất mở rộng kinh tế cá thể rất

hạn chế, sản xuất và phân phối giá trị không đáng kể. Về căn
bản hoạt động kinh tế cá thể cha thoát khỏi Kinh tế sinh tồn,
thuộc phạm trù kinh tế chậm phát triển, cha phải kinh tế tích
luỹ, kinh tế tăng trởng theo nghĩa sản xuất hàng hoá hiện đại.
Doanh nghiệp t nhân là loại hình kinh tế đợc tổ chức
quy mô, theo hình thức doanh nghiệp trong kinh tế thị trờng,
hoạt động dựa trên cơ sở sở hữu t nhân về t liệu sản xuất và
thuê mớn lao động. Doanh nghiệp t nhân chủ yếu hình thành
và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trờng, khi lực lợng sản
xuất và phân công lao động đã phát triển ở trình độ cao, sản
xuất hàng hoá dịch vụ cung cấp cho thị trờng với mục đích
nhằm thu lợi nhuận và đạt giá trị tăng. Do đó, doanh nghiệp t
nhân là một trong những động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trởng và phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, ngoài 2 khu vực kinh tế Nhà nớc và kinh
tế t nhân còn tồn tại khu vực kinh tế hợp tác với loại hình chủ
yếu là hợp tác xã và doanh nghiệp hợp tác. Hợp tác xã trong mô
hình chủ nghĩa xã hội trớc đây đợc tổ chức dựa trên sở hữu
tập thể của những ngời lao động về các t liệu sản xuất chủ
yếu, thực hiện phân phối theo lao động, do đó, thuộc thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và là cơ sở của chủ nghĩa xã
hội.
2.2. Đặc trng về phân phối và lực lợng sản xuất.
Phân phối trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa đợc thực hiện theo yếu tố lao động và các yếu tố

18


sản xuất khác, dựa trên nguyên tắc cơ chế thị trờng, có sự
điều tiết vĩ mô của Nhà nớc, phát huy truyền thống tơng
thân tơng ái của cộng đồng dân c nhằm điều hoà giữa các

giai cấp tầng lớp xã hội.
Phân phối là khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất
xã hội, là khâu trung gian giữa sản xuất, lu thông và tiêu dùng.
Có sản xuất ra của cải, có phân phối, nhng đến lợt mình,
phân phối lại tác động trực tiếp đến toàn bộ quá trình tái sản
xuất, thậm chí đóng vai trò quyết định. Khi mà nền sản xuất
xã hội đợc tiến hành bình thờng, phân phối sẽ là tác nhân tạo
ra yếu tố đầu vào cho quá trình tích luỹ, tiêu dùng của mọi
đối tợng trong xã hội. Đồng thời, nó cũng là tác nhân chi phối,
điều tiết đầu ra của quá trình trớc đó. Chính vì vậy phân
phối đúng đắn, hợp lý sẽ đem lại hiệu quả lớn cho sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy mọi tiến trình kinh tế xã hội. Ngợc lại,
phân phối sai không hợp lý sẽ dẫn đến hậu quả khôn lờng, làm
thủ tiêu động lực của sản xuất, thậm chí dẫn đến đình đốn
sản xuất.
Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và do quan
hệ về t liệu sản xuất quyết định. Vì vậy, mỗi phơng thức
sản xuất nhất định có quy luật phân phối tơng ứng với nó.
Theo C.Mác, mỗi hình thái phân phối đều biến đổi cùng một
lúc với phơng thức sản xuất nhất định tơng ứng với hình thái
phân phối ấy và sinh ra hình thái phân phối ấy, phơng thức
tham gia nhất định vào sản xuất quy định hình thái đặc thù
của phân phối, quy định hình thái theo đó ngời ta tham dự
vào phân phối.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội, C.Mác đã nêu lên
nguyên tắc phân phối thu nhập cá nhân ở đây là phân phối
theo lao động. Theo ông tiền đề để thực hiện nguyên tắc
này bao gồm 2 mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau:
Một là, chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây cha phát triển
trên cơ sở của chính mình, mà là một xã hội chỉ vừa thoát thai

từ xã hội t sản, do đó về mặt kinh tế, đạo đức tinh thần cũng

19


còn mang nặng dấu ấn xã hội cũ, lao động cha trở thành nhu
cầu bậc nhất của con ngời.
Hai là, đây là xã hội tổ chức theo nguyên tắc chủ nghĩa
tập thể dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuất. Có
nghĩa xã hội không có sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Dựa vào những căn cứ trên đây, C. Mác đã nêu ra sơ đồ
phân phối theo lao động trong chủ nghĩa xã hội: tổng sản
phẩm xã hội sản xuất ra sau khi khấu trừ các khoản dành cho
tiêu dùng xã hội, còn lại đợc phân phối trực tiếp cho ngời lao
động theo số lợng và chất lợng mà ngời lao động cung cấp cho
xã hội.
Từ những nguyên lý của C.Mác đã nêu có thể thấy phân
phối theo lao động là một hình thái mang tính lịch sử đặc
thù của chủ nghĩa xã hội.
Lực lợng sản xuất trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa đợc biểu hiện ở chỗ có xuất phát điểm từ một
trình độ rất thấp nhng yêu cầu vơn tới một trình độ phát
triển cao ngang tầm thế giới và khu vực trong thời gian ngắn.
Theo học thuyết mácxít, mỗi xã hội cụ thể đều dựa trên
một trình độ phát triển kinh tế và phát triển lực lợng sản xuất
nhất định. Trình độ lực lợng sản xuất thể hiện ở năng lực chế
tạo ra của cải vật chất hay năng suất lao động đáp ứng nhu
cầu của xã hội, suy cho cùng là nhân tố quyết định chiến
thắng của trật tự xã hội mới. Lực lợng sản xuất phản ánh trình
độ khoa học và công nghệ và khả năng chế ngự của con ngời

đối với tự nhiên. Lực lợng sản xuất bao gồm tổng thể các t liệu
sản xuất và ngời lao động với kinh nghiệm và kỹ năng vận dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ. Ngoài ra, có thể tiếp cận trình
độ phát triển của lực lợng sản xuất theo cách khác, theo thời
đại kinh tế. Khi đó trình độ phát triển của lực lựơng sản xuất
đợc gắn với thời đại phát triển kinh tế: kinh tế doanh nghiệp,
kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức hay kinh tế hậu công
nghiệp. Nhng dù tiếp cận theo cách nào thì trong thực tế phát
triển của lực lợng sản xuất cũng có sự đan xen giữa các loại
20


trình độ khác nhau. Hơn nữa, tính đa dạng của lực lợng sản
xuất càng tăng lên trong thời đại ngày nay đối với các quốc gia
chậm phát triển và đang phát triển.
Việt Nam, một nớc chậm phát triển, bắt tay vào xây dựng
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, khi mà
nhiều quốc gia đang nằm ở đỉnh cao của sự phát triển lực lợng sản xuất, những quốc gia công nghiệp hàng đầu đã đạt
đợc trình độ phát triển nhất định của thời đại kinh tế tri
thức. Do đó xác định đặc trng của lực lợng sản xuất trong
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa nh thế nào
là vấn đề không đơn giản. Song, việc đợc xác định đúng
đắn đặc trng lực lợng sản xuất trong nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa lại có ý nghĩa rất quan trọng đối
với chiến lợc xây dựng và phát triển lực lợng sản xuất ở Việt
Nam.
Đặc trng đầu tiên của lực lợng sản xuất trong nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và
trong một thời gian khá dài nữa là trình độ xuất phát rất thấp
kém. Hơn nữa khoảng cách về trình độ phát triển lực lợng sản

xuất của Việt Nam so với các nớc trong khu vực không những
chậm đợc thu hẹp, mà đang có nguy cơ mở rộng. Có thể thấy
trình độ của lực lợng sản xuất nớc ta qua đánh giá tổng hợp về
các yếu tố cơ bản cấu thành dới đây:
Về trình độ nguồn nhân lực: Trong những năm qua, chất
lợng nguồn nhân lực của nớc ta đã có những bớc phát triển nhất
định. Theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số ngày 01/
04/1999 cả nớc có 4,2 triệu lao động đợc đào tạo, trong đó có
2,8 triệu công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ, 1,4
triệu ngời có trình độ từ cao đẳng trở lên. Đội ngũ lao động
này đóng vai trò nòng cốt ở các doanh nghiệp, trờng học, viện
nghiên cứu và cơ quan quản lý tuy nhiên, chất lợng nguồn
nhân lực nớc ta còn cha tơng xứng với yêu cầu phát triển nhanh
lực lợng sản xuất theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, từng
bớc phát triển kinh tế tri thức.

21


Tỷ trọng lao động qua đào tạo thấp, đặc biệt là lao động
trong nông nghiệp và nông thôn. Tính chung cả nớc, tỷ lệ lao
động kỹ thuật chiếm 19,5% tổng số lao động đang làm việc,
trong nông nghiệp tỷ lệ này chỉ khoảng trên 9%. Tỷ lệ sinh
viên trên 10.000 dân của Việt Nam là 116 ngời, trong khi đó
của Thái Lan là 251 và Hàn Quốc là 302 ngời.
Do sự yếu kém của hệ thống giáo dục quốc gia, trình độ
chung của ngời lao động cha cao. Nhiều doanh nghiệp tuyển
dụng học sinh tốt nghiệp các trờng dạy nghề lại phải tốn hơn
chi phí đào tạo lại.
Cơ cấu lao động mất cân đối nghiêm trọng. Hiện nay cơ

cấu lao động theo trình độ đào tạo của Việt Nam là 1 cán bộ
đại học, cao đẳng/1,7 cán bộ trung học chuyên nghiệp/1,4
công nhân kỷ thuật.
Phân bổ lao động giữa các vùng, các ngành bất hợp lý.
Chẳng hạn, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh chiếm tới 70% tổng số
Tiến sỹ và Thạc sỹ của cả nớc.
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đầu ngành còn
thiếu nhiều và có độ tuổi cao, điều kiện làm việc hết sức
khó khăn. Độ tuổi bình quân của các giáo s là 59,5 và của các
phó giáo s là 56,4.
Về trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất có những
đặc điểm sau:
So với trình độ thế giới và khu vực, trình độ công nghệ
của các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam lạc hậu hơn từ 2-3
thế hệ.
Hiệu suất sử dụng thiết bị thấp (khoảng 25-30%). Tốc độ
đổi mới công nghệ chậm (khoảng 7%/năm) và không đồng
đều giữa các ngành.
Mức tiêu thụ nhiên liệu và nguyên liệu tính theo đơn vị
sản phẩm cao hơn mức trung bình của thế giới khoảng 1,5 -2,0
lần.

22


Chất lợng sản phẩm thấp, ít đổi mới hoặc cải tiến sản
phẩm. Giá trị công nghệ trong sản phẩm cúôi cùng chỉ ở mức
khoảng 10 - 20%.
Đặc biệt, kết cấu lực lợng sản xuất của nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa còn đan xen phức tạp, nhiều
tầng nấc giữa các trình độ khác nhau. Điều này đợc biểu hiện

ở: Kỹ thuật sản xuất của thời đại thông tin và kỹ thuật của thời
đại nguyên thủy cùng song song tồn tại.
Sức sản xuất thời đại công nghiệp đan xen với sức sản xuất
thời đại công nghiệp.
Kỹ thuật sản xuất nông nghiệp hiện đại đan xen với kỹ
thuật sản xuất nông nghiệp cổ điển.
Kỹ thuật sản xuất công nghiệp hiện đại đan xen với kỹ
thuật sản xuất công nghiệp hiện đại.
Sức sản xuất tự động hoá đan xen với tình trạng sản xuất
thủ công
Các đặc điểm vừa nêu trên phản ánh những thách thức
cực kỳ to lớn đối với phát triển lực lợng sản xuất của nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hàm ý thứ
hai về đặc trng của lực lợng sản xuất trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là: yêu cầu phát
triển tăng tốc mà rút ngắn về trình độ phát triển lực lợng sản
xuất là điều quyết định cho việc đảm bảo xây dựng thành
công nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy Việt Nam phải thực hiện thành công sự bứt phá
trong phát triển lực lợng sản xuất và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá rút ngắn. Còn nếu không sẽ chỉ là ảo tởng về con đờng
phát triển định hớng xã hội chủ nghĩa. Từ đây, phát sinh
nhiều nhiệm vụ rất nặng nề đối với Đảng và Nhà nớc Việt Nam
trong việc lựa chọn chiến lợng tăng trởng kinh tế. Chiến lợc đó
phải vừa nhanh chóng khắc phục tình trạng lạc hậu về trình
độ phát triển lực lợng sản xuất hiện nay, lại phải tranh thủ cơ
hội do thời đại tạo ra, khai thác sự hợp tác và ủng hộ quốc tế của

23



những nớc có trình độ phát triển lực lợng sản xuất cao và
trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, để đi thẳng vào
công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức. Do đó, Việt Nam phải
chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ tiếp thu khoa
học và công nghệ tiên tiến, tạo một môi trờng thông thoáng để
đủ sức thu hút những công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia
hàng đầu thế giới.

3. Xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay là bớc hội nhập vào kinh tế
khu vực và nền kinh tế toàn cầu.
Xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa hiên nay thực chất là để tạo điều kiện tiếp thu và phát
triển những công nghệ sản xuất tiên tiến của thế giới đồng
thời xây dựng một hệ thống quan hệ sản xuất năng động, phù
hợp với sự phát triển của sức sản xuất trong bối cảnh hội nhâp
hiện nay.
Đổi mới nhận thức và phơng thức lãnh đạo của Đảng Cộng
sản:
Cần khẳng định rằng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
Cộng sản là điều kiện tiên quyết, sống còn đảm bảo cho
định hớng xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là
điểm khác biệt căn bản giữa nền kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa với các nền kinh tế thị trờng thông thờng.
Đảng ta, Nhà nớc ta - Đảng và Nhà nớc của dân, do dân, vì
dân, gồm những con ngời u tú, giác ngộ nhận thức về thời
đại, đợc nhân dân tin yêu, trải qua thử thách, tôi luyện và trởng thành trong đấu tranh cách mạng, đã lãnh đạo nhân dân
ta giành chiến thắng trong các cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, thành công trong công cuộc đổi mới gần hai thập

kỷ qua và bớc đầu vơn lên xây dựng nền kinh tế, làm giàu cho
đất nớc, từng bớc thoát khỏi đói nghèo. Không thể ai khác ngoài

24


Đảng ta có thể gánh vác và hoàn thành trọng trách lịch sử này
trớc dân tộc và thời đại này.
Hơn nữa, phải nhận thức sâu sắc rằng, phát triển kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa vừa là vấn đề khoa học
vừa là vấn đề chính trị, vấn đề lựa chọn chế độ kinh tế và
mô hình phát triển trong thức tiễn mang tính cách mạng sáng
tạo, nó đòi hỏi sự nhất trí cao trong nhận thức t tởng, thống
nhất trong tổ chức thực hiện và hành động cách mạng. Vì vậy
Đảng phải thực sự đi tiên phong trong đổi mới t duy lý luận,
nhận thức về kinh tế thị trờng và chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời nâng cao vai trò và hoàn thiện cơ chế quản lý
nền kinh tế của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa.
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa phải nâng cao chất lợng xây
dựng và giám sát việc tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực kinh
tế- xã hội, trong đó, có cơ sở pháp luật- thể chế đảm bảo các
điều kiện cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của thi trờng. Đặc biệt, phải gấp rút hoàn thiện và ban hành hệ thống
pháp luật kinh tế, nhằm quy định rõ quyền sở hữu, quyền
kinh doanh, trách nhiệm về hợp đồng kinh tế, thể chế hoá các
hoạt động giao dịch ngân hàng, chứng khoán, đầu t, kiểm
toán, kế toán, chống độc quyền, bảo vệ ngời tiêu dùng, các vấn
đề bảo hiểm và an sinh xã hội ...
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa phải đề ra và đảo bảo hiện thực
hoá cơ chế cạnh tranh và tự do hoá kinh doanh nh là cơ chế
chủ yếu và động lực của phát triển kinh tế. Nhà nớc cần hiệu

chỉnh những khiếm khuyết của thị trờng, điều tiết việc
phân phối thu nhập một cách hiệu quả, nhằm đạt đợc mục tiêu
tăng trởng cao, phát triển bền vững theo hớng kết hợp hài hoà
giữa giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, xã hội và môi trờng. Bản
thân thị trờng không có cơ chế lại thu nhập và điều hoà các
lợi ích, do đó, Nhà nớc phải tham gia hiệu quả và phân phối lại
thu nhập theo định hớng xã hội chủ nghiã, giảm thiểu bất bình
đẳng và đảm bảo phúc lợi xã hội, phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế hiện đại trớc thềm thế kỷ XXI.

25


×