Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.98 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Qua gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước,
được sự đồng tình ủng hộ và hưởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tư
nhân hoạt động dưới các hình thức hộ kinh doanh cá thể, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh
đã phát triển rộng khắp cả nước; qua đó đã khơi dậy, huy động và khai thác
được các nguồn lực to lớn trong nhân dân như: trí tuệ, tiền vốn, sức lao
động, kinh nghiệp quản lý, tài nguyên..., và các nguồn lực khác vào sự
nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm của Đảng (khoá IX)
một lần nữa khẳng định, phát triển các thành phần kinh tế trong đó có kinh
tế tư nhân theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế.
Nhận thức rõ ràng tầm quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân trong
phát triển đất nước, đề án này chỉ có mong muốn góp một cách nhìn nhận
nhỏ bé của mình trình bày những vấn đề lý luận và vai trò, thực trạng của
kinh tế tư nhân, đồng thời đưa ra giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân
nước ta.

1


NỘI DUNG
I . Những vấn đề lí luận và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1. Những vấn đề lí luận
1.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
1.1.1. Một là, kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân - một trong
những động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Thực tế cho thấy, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đề cao quá mức
lợi ích nhà nước, tập thể, coi nhẹ lợi ích cá nhân, do đó làm thui chột động
lực phát triển kinh tế - xã hội.Trong thời kì chuyển đổi sang nền kinh tế thị


trường, với việc tôn trọng lợi ích cá nhân, đã tạo ra một động lực mạnh mẽ
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Hai là kinh tế tư nhân, mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân, là mơ
hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hoá.
Hoạt động sản xuất trao đổi hàng hố ra đời gắn liền với sự phân cơng
lao động xã hội. Hình thức tổ chức sản xuất doanh nghiệp là sản phẩm của
nền sản xuất xã hội hố.Trong đó, cơ cấu của kinh tế thị trường chủ yếu
dựa trên cơ sở của mơ hình tổ chức doanh nghiệp có mục tiêu cao nhất và
cuối cùng là tạo ra giá trị thặng dư và không ngừng chuyển giá trị thặng dư
thành tích luỹ tăng thêm của sự phát triển kinh tế.
Ba là, kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường khó có thể tồn tại và phát triển nếu khơng có sở hữu tư
nhân và kinh tế tư nhân. Nói cách khác, cơ chế thị trường hiện đại chính là
dạng thức sinh tồn của kinh tế tư nhân mà điển hình là mơ hình tổ chức
doanh nghiệp.
Bất kì một nền kinh tế nào hoạt động theo cơ chế thị trường đều phải
thừa nhận và khuyến khích mơ hình tổ chức doanh nghiệp này. Ngược lại,
mơ hình tổ chức doanh nghiệp tự nó ứng xử theo cơ chế thị trường và có
sức sống mãnh liệt trong môi trường của cơ chế thị trường.
2


Ơ Việt Nam muốn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thì phải phát triển kinh tế tư nhân nói chung và mơ hình tổ chức
doanh nghiệp nói riêng.
1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân nước ta hiện nay
Kinh tế tư nhân nước ta đang tồn tại và phát triển trong những điều kiện
chủ yếu sau:
Một là, kinh tế tư nhân nước ta mới được phục hồi và phát triển nhờ công
cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Hai là, kinh tế tư nhân hình thành và phát triển trong điều kiện có Nhà
nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Nhà
nước có thể chi phối và định hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế
thơng qua hệ thống các chính sách, cơng cụ quản lý kinh tế vĩ mơ như
chính sách tài chính, tiền tệ, kế hoạch hố, chích sách kinh tế đối
ngoại,v.v...Đảng Cộng sản có thể thơng qua thể chế chính trị cùng với hệ tư
tưởng và nền văn hố đậm đà bản sắc dân tộc có tác động mạnh mẽ, thậm
chí có tính quyết định đối với các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư nhân.
Ba là, kinh tế tư nhân ở nước ta ra đời và phát triển trong điều kiện quan
hệ sản xuất thống trị trong xã hội không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay được
coi như một cơng cụ, là những hình thức sản xuất - kinh doanh, là bộ phận
cấu thành của quan hệ sản xuất theo mục tiêu và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Bốn là, kinh tế tư nhân nước ta ra đời và phát triển ở một nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phát triển chậm, trong bối cảnh
thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố, giải phóng sức sản xuất, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành vấn đề trung tâm.
Kinh tế tư nhân ở nước ta có đặc điểm khác về bản chất so với kinh tế tư
nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, điều đó thể hiện ở chỗ:

3


Một là, kinh tế tư nhân ở nước ta là kết quả của chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần, là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế định hướng xã
hội chủ nghĩa, ra đời và phát triển vì chính cuộc đổi mới và phục vụ cho sự
nghiệp đổi mới. Chủ các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân phần lớn là những đảng viên, đoàn viên, cán bộ quân
đội đã chuyển ngành, phục viên, hưu trí và đội ngũ trí thức, sinh ra và

trưởng thành trong chế độ mới. Người lao động trong các doanh nghiệp
cũng thuộc giai cấp công nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức được hình
thành trong xã hội mới. Hơn nữa, trong các doanh nghiệp ở nước ta đã và
đang hình thành các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản tổ chức và
lãnh đạo hoạt động vì mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Hai là, kinh tế tư nhân ở nước ta bị chi phối và phát triển theo định
hướng mà Đảng Cộng sản đề ra thơng qua hệ thống các chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Bằng các công cụ kinh tế Nhà nước có thể hướng sự
phát triển của các doanh nghiệp vào những ngành, những địa bàn đáp ứng
nhu cầu của nhân dân, tăng cường tính xã hội chủ nghĩa trong q trình
phát triển của đất nước. Thơng qua các chính sách kinh tế vĩ mơ, Nhà nước
có thể điều tiết việc sử dụng lao động, phân phối thu nhập của kinh tế tư
nhân nhằm đảm bảo các mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, kinh tế tư nhân ở nước ta ngay từ khi mới ra đời đã mang những
yếu tố tích cực. Điều đó thể hiện ở chỗ:
- Góp phần quan trọng vào giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết nhiều vấn đề xã hội gay gắt (lao động,
việc làm, xố đói giảm nghèo...).
- Góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, gắn liền các giai tầng
xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
-

- Mối quan hệ trực tiếp giữa chủ với cơng nhân, người lao động khơng
cịn là mối quan hệ đối kháng mà mang tính chất hợp tác. Quan hệ giữa chủ
4


và nông dân cũng là mối quan hệ hợp tác, hai bên cùng có lợi thơng qua
các hợp đồng cung cấp nông sản, nguyên liệu, các đại lý... Trong điều kiện

của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, quan hệ giữa các chủ
và đội ngũ trí thức cũng được tăng cường theo hướng hợp tác cùng có lợi
nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần tăng tính cộng đồng dân tộc,
hình ảnh của dân tộc trong cộng đồng quốc tế mà sự mở rộng của các loại
sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế là một minh
chứng cho điều đó.
2. Vai trị của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
-

- Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của khu vực kinh tế tư
nhân là tạo công ăn việc làm. Hệ thống các doanh ngiệp nhà nước hiện
đang trong quá trình cải cách không tạo thêm được nhiều việc làm mới; khu
vực hành chính nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới khơng
nhiều. Do đó khu vực kinh tế tư nhân chính là nơi thu hút, tạo việc làm mới
cho xã hội.

-

- Hầu hết các doanh nghiệp cũng góp phần chủ yếu đào tạo và nâng cao
tay nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực, do đó có tác
dụng thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang rất mất cân
đối ở nước ta hiên nay.

-

- Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào GDP và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, nhất là trong những năm gần đây. Đặc biệt, trong nơng

nghiệp, nó đã đóng góp đáng kể trong trồng trọt, chăn nuôi và quan trọng
hơn cả là trong các ngành chế biến, xuất khẩu, nhờ đó kinh tế nơng nghiệp
đã có sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hố, đẩy nhanh
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn.

5


- Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách. Kinh tế tư nhân là
nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, mở rộng thị trường xuất
khẩu, thậm chí một số doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xút
khẩu về một số mặt hàng quan trọng.
-

- Đóng góp của các doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước có xu hướng
tăng nhanh, bao gồm các nguồn thu: thuế cơng thương nghiệp và dịch vụ
ngồi quốc doanh, thuế môn bài, VAT trong nhập khẩu và các khoản phí
khác.

-

- Khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các
nguồn vốn đầu tư xã hội.

-

- Khu vực kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo mơi trường kinh
doanh, thúc đẩy phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, xố đói giảm nghèo.


-

II. Thực trạng kinh tế tư nhân ở nước ta từ đổi mới đến nay

-

1.Những thành tựu

-

Nhìn tổng thể, sự hồi sinh và phát triển khu vực kinh tế tư nhân từ sau
đổi mới đến nay đã mang lại nhiều kết quả kinh tế - xã hội to lớn, mà nổi
bật là:

-

1.1. Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham
gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo
việc làm
1.1.1, Huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển
Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp một lượng vốn đầu tư rất đáng kể
cho nền kinh tế: 49% tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 và trên
21% năm 1998, tức là chiếm trên 1/5 tổng lượng vốn đầu tư tồn xã hội - là
tỷ trọng khơng nhỏ.
1.1.2. Tạo việc làm, toàn dụng lao động xã hội
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tham gia
tích cực và có hiệu quả đối với vấn đề giải quyết việc làm. Tính đến năm
6



1996 đă giải quyết việc làm cho 4.700.742 lao động, chiếm gần 70% lực
lượng lao động xã hội trong khu vực sản xuất phi nơng nghiệp.
1.1.3. Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng nền kinh
tế
Năm 1995, khu vực tư nhân đóng góp 43,50% GDP, khối tư bản tư nhân
chiếm 7,5% GDP. Mặc dù các năm 1996, 1997 có sự giảm sút nhưng năm
1998 khu vực này vẫn chiếm tỉ trọng 41,1% GDP, khu vực tư bản tư nhân
chiếm 7,47% GDP. Nhờ vậy, khu vực kinh tế tư nhân đã góp một phần
quan trọng thúc đẩy nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao trên
8%/năm, liên tục trong giai đoạn 1992 -1997, và đỉnh cao đạt 9,5% vào
năm 1995.
Ngoài ra, khu vực kinh tế tư nhân cịn góp phần quan trọng tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã
hội đặt ra. Tính đến năm 1998 khu vực kinh tế ngồi quốc doanh (khơng kể
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi) nộp ngân sách qua thu thuế là 11.086 tỷ
đồng, chiếm 3,5% GDP; tính ra bình qn hàng năm đã đóng góp vào
nguồn thu cho ngân sách trên dưới 3% GDP của cả nước, cao gấp trên 3 lần
đóng góp của khu vực liên doanh với nước ngồi (0,9% GDP/ năm) và gần
bằng đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào nguồn thu ngân sách
hàng năm (khoảng 7% GDP/năm).
1.2. Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản
lý theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế.
Hiện nay, trừ một số lĩnh vực, ngành nghề mà nhà nước độc quyền, còn
lại hầu hết là do khu vục kinh tế tư nhân tham gia, thậm chí cịn chiếm tỷ
trọng áp đảo như: sản xuất lương thực, thực phẩm, nuôi trồng thuỷ hải sản,
đánh cá, lâm nghiệp, hàng hoá bán lẻ, chế biến, sành sứ, giày dép, dệt may,
v.v.. ,đã mang về hàng tỷ đô la ngoại tệ cho nền kinh tế.Chính sự phát triển
phong phú, đa dạng các cơ sở sản xuất, các ngành nghề, các loại sản phẩm
dịch vụ, các hình thức kinh doanh, v.v.. của khu vực kinh tế tư nhân đã tác
7



động mạnh đến các doanh nghiệp nhà nước, buộc khu vực kinh tế nhà nước
phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức
kinh doanh dịch vụ,v.v.. để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường.
Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu
vực kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên
sức ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị
trường nói chung.
-

1.3. Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế
tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam, làm
đầu tầu thúc đẩy nên kinh tế bước vào giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, mở cửa hợp tác với bên ngồi.

-

Chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp
hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề với số lượng ngày
một lớn: khoảng trên 40.000 chủ doanh nghiệp và trên 120.000 chủ trang
trại (trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp), lớn hơn nhiều lần lượng giám
đốc doanh nghiệp nhà nước được đào tạo trong nhiều thập kỉ trước. Nhờ
được đào luyện trong kinh tế thị trường, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư
nhân đã tỏ rõ bản lĩnh, tài năng, thích ứng khá kịp thời với sự chuyển đổi
của nền kinh tế. Họ đã vươn lên tham gia và làm chủ hầu hết các lĩnh vực,
ngành nghề sản xuất kinh doanh, trong đó bao gồm cả những ngành kĩ
thuật cao (điện tử, phần mềm, v.v..). Đặc biệt, trong lĩnh vực nông - lâm ngư nghiệp, hàng trăm ngàn trang trại cung cấp nông sản hàng hoá cho xuất
khẩu, đặc biệt là xuất khẩu gạo.Vai trò của các trang trại ngày càng được

khẳng định như đầu tầu, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hố và
tăng trưởng trong sản xuất nơng nghiệp nước ta.
1.4. Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thực hiện công bằng xã hội.

8


Chính nhờ phát triển kinh tế tư nhân với nhiều loại hình kinh tế khác
nhau, đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực
lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta.
Trước hết là sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu. Nếu trước đây quan hệ
sở hữu ở nước ta chỉ bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thì giờ đây
quan hệ sản xuất đã được mở rộng hơn: cịn có sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và sở hữu hỗn hợp.
Sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu nói trên kéo theo sự chuyển biến
trong quan hệ quản lý: hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp tư bản tư
nhân bên cạnh đội ngũ giám đốc các doanh nghiệp nhà nước; đội ngũ
những người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân bên
cạnh những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp nhà
nước...Xuất hiện quan hệ chủ thợ, quan hệ thuê mướn lao động thông qua
hợp đồng kinh tế.
Quan hệ phân phối giờ đây càng trở nên linh hoạt, đa dạng: ngoài phân
phối chủ yếu dựa trên lao động, cịn sử dụng các hình thức phân phối theo
vốn góp, theo tài sản, theo cổ phần và các hình thức khác, v.v..
Những chuyển biến của quan hệ sản xuất nói trên đã khơi dậy và phát
huy được tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuât, tài nguyên thiên nhiên, đặc
biệt là nguồn lao động dồi dào và tiềm lực của hàng triệu hộ nông dân, hộ
cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân vào công cuộc phát trểin kinh tế
đất nước. Nhờ vậy đã góp phần quan trọng xố đói giảm nghèo (từ 16,5%

hộ nghèo đói năm 1995 giảm xuống còn 11% năm 2000), cải thiện đời sống
dân cư (mức tiêu dùng của dân cư nông thôn tăng 5,4% hàng năm và của
dân thành thị tăng 9,6%); góp phần đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và
là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhiều năm liền trong
khu vực và trên thế giới.
2. Những hạn chế

9


Một là, phần lớn các cơ sơ kinh tế tư nhân đều có quy mơ nhỏ, năng lực
và sức cạnh tranh hạn chế, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Hiện
nay có tới 87,2% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng; trong đó
29,4% có mức vốn dưới 100 triệu đồng; những doanh nghiệp có mức vốn
từ 10 tỷ đồng trở nên chỉ chiếm 1%, trong đó từ 100 tỷ đồng trở nên có
0,1%. Ngân hàng thì ln ở trong tình trạng thủ thế “chờ doanh nghiệp đến
vay với đầy đủ các điều kiện về tài sản thế chấp” chứ khơng phải là “tìm
các phương án kinh doanh có hiệu quả để cho vay”. Mặt khác, bản thân
doanh nghiệp cũng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận các
nguồn vốn, tiếp cận thông tin.Thành lập doanh nghiệp chủ yếu là dựa trên
kinh nghiệm chứ chưa tính tốn đầy đủ nhu cầu thị trường và khả năng tiêu
thụ chác chắn, nên hầu hết các chủ doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư
nhân (nhất là hộ cá thể và tiểu chủ) hoạt động thiếu phương án cũng như kế
hoạch kinh doanh, vì vậy dễ đổ vỡ trước biến động của thị trường.
Hệ thống ngân hàng, kể cả hệ thống tài chính trung gian yếu kém cùng
với những thủ tục thế chấp phức tạp và nạn quan niêu đã khiến cho hơn
20% các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa khơng muốn vay ngân hàng, chỉ
có 18% các doanh nghiệp tư nhân vừa và lớn vay được vốn dài hạn; đối với
doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa con số này chắc chắn sẽ còn thấp hơn.
Hai là, máy móc, thiết bị, cơng nghệ lạc hậu và nguồn nhân lực cịn hạn

chế, do đó khơng nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá. Doanh nghiệp sử dụng máy móc, cơng nghệ mới cũng như th máy
móc thiêt bị rất ít; có khoảng 18% số doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí
Minh và 5% số doanh nghiệp ở Hà Nội không thể tăng khả năng sản xuất
với những thiết bị hiện có; khoảng 50% số doanh nghiệp ở thành phố Hồ
Chí Minh đang sử dụng tới 90% cơng suất của máy móc. Tỷ lệ này ở các
thành phố khác chỉ có 13% và ở nông thôn là 15-20%. Số doanh nghiệp
được trang bị máy móc cơng nghệ hiện đại chưa nhiều, chỉ có khoảng 24%
doanh nghiệp tư nhân và 25% công ty trách nhiệm hữu hạn.
10


Lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu là lao động phổ
thơng, ít được đào tạo, thiếu kĩ năng, trình độ văn hố thấp, chỉ có 5,13%
lao động có trình độ đại học, khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp khơng có
bằng cấp chun mơn.
Ba là, thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định là
tình trạng phổ biến đã tác động bất lợi tới chiến lược kinh doanh của các
doanh nghiệp. Quyền sử dụng đất không được chuyển nhượng công khai,
giá đất thiếu ổn định, dẫn tới tình trạng đất đai bị đầu cơ, sử dụng kém hiệu
quả, do đó các cơ sở kinh tế tư nhân mới thành lập rất khó có được mặt
bằng đất đai ổn định.Thêm vào đó, sự phân biệt đối xử trong việc giao đất
của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và cho thuê đối với các cơ sở
kinh tế tư nhân cũng gây ra bất lợi và thiệt thòi cho khu vực kinh tế tư
nhân. Ngay cả khi doanh nghiệp đã bỏ ra rất nhiều chi phí để có mặt bằng
sản xuất, nhưng sau đó họ lại rất khó khăn trong việc dùng đất đai để làm
tài sản thế chấp vay ngân hàng.
Bốn là, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, đây là vấn đề cản trở lớn đến
phát triển sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Hầu hết các
doanh nghiệp mua nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra trên thị

trường địa phương và dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhân (chỉ có khoảng
20% số doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm tại các thành phố lớn và khoảng
33% được bán cho khu vực nhà nước). Hiện nay một số sản phẩm hàng hoá
của khu vực kinh tế tư nhân cũng đã có mặt trên thị trường thế giới, tuy vậy
sản phẩm đủ chất lượng xuất khẩu cịn ít và chịu sức ép cạnh tranh gay gắt,
cịn lại phần lớn sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Nhưng vài
năm gần đây, do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực,
thu nhập của dân cư sút kém nên sức mua trong nước cũng giảm.Thêm vào
đó, hàng hố trong nước cịn tồn đọng với khối lượng lớn, cùng với hàng
nhập lậu tràn lan khơng kiểm sốt được (qua biên giới) đã làm cho việc tiêu

11


thụ hàng hố rơi vào tình thế cực kì bất lợi, làm cho nhiều cơ sở sản xuất bị
đình đốn, phá sản.
Năm là,khả năng cạnh tranh để tồn tại, đứng vững trong cơ chế thị
trường của các cơ sở kinh tế tư nhân còn hạn chế, một số tiêu cực nảy sinh
đã làm cho tốc độ phát triển của cả khu vực kinh tế tư nhân đang chững lại
và có biểu hiện suy giảm trong những năm gần đây, từ mức 32% năm 1997
giảm xuống còn 4% năm 1998. Một số doanh nghiệp lớn chia nhỏ doanh
nghiệp, không muốn đăng kí thành lập các doanh nghiệp lớn, mà chỉ liên
doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể để núp
bóng trốn lậu thuế, kinh doanh trái phép, hoạt động kinh tế ngầm; một số
chủ doanh nghiệp móc nối, cấu kết với một số cán bộ nhà nước thối hố
để bịn rút, chiếm đoạt tài sản nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng nhiều
mặt đối với nền kinh tế - xã hội, v.v..Tình hình trên một mặt do sự tác động
bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhưng mặt quan trọng hơn
lại bắt nguồn từ sự yếu kém về năng lực của bản thân khu vực kinh tế tư
nhân nói riêng và sự yếu kém của nền kinh tế nước ta nói chung - đặc biệt

là những hạn chế của chính sách, giải pháp quản lý vĩ mô của Nhà nước.
3. Một số nguyên nhân chủ yếu
3.1. Nguyên nhân từ phía cơ chế, chính sách của Nhà nước
Một là, luật pháp, chính sách, cơ chế quản lý vĩ mơ của Nhà nước vẫn
chưa hồn tồn tạo lịng tin cho những hộ cá thể, tiểu chủ và doanh nghiệp
tư bản tư nhân, nhất là những nhà doanh nghiệp có vốn lớn, có đầu óc kinh
doanh yên tâm làm ăn lâu dài.
Một thời gian dài trước đây, Đảng và Nhà nước ta đã không chủ trương
khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân, bởi vậy việc tích lũ vốn,
trau dồi kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường và mở rộng quan
hệ quốc tế của các doanh nghiệp nay gần như khơng có. Chuyển sang nền
kinh tế thị trường, mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, Luật
Doanh nghiệp v.v.. ,tuy nhiên trong thực tế, nhiều chủ trương, chính sách bị
12


biến dạng qua các tầng nấc hành chính, cơ quan nhà nước vẫn “ hành dân là
chính, sự tha hố trong bộ máy và đội ngũ cán bộ không giảm” nên vẫn
khơng tạo được lịng tin cho các chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân. Mặt
khác, ở tầm vĩ mô cũng chưa hình thành được một hệ thống tổ chức có đủ
thẩm quyền để quản lý: từ đề xuất định hướng chiến lược phát triển, chích
sách hỗ trợ, tổ chức đào tạo, chuyển giao công nghệ, thông tin thị trường,
giáo dục pháp luật v.v.. cho các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân. Do đó
dẫn tới tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm, phát triển thiếu định hướng,
thiếu phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong khu vực kinh tế tư nhân với các khu
vực khác còn diễn ra phổ biến, đã không tạo ra sức mạnh chung mà nhiều
khi cịn kìm hãm lẫn nhau.
Hai là, thiếu một sự phối hợp giữa kinh tế nhà nước với khu vực kinh tế
tư nhân trong một số kế hoạch phát triển có bài bản ở tầm chiến lược.
Trong kế hoạch phát triển của các ngành, hầu như khơng tính đến khu vực

kinh tế tư nhân cùng vai trị và vị trí của nó. Chức năng dẫn dắt khu vực
kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà
nước khơng những mờ nhạt, mà cịn có trường hợp các doanh nghiệp nhà
nước chèn ép, lấn át khu vực kinh tế tư nhân dành nhiều thuận lợi cho
mình.
Ơ tầm vĩ mơ, chưa có sự phối hợp chặt chẽ và phân công rõ ràng giữa
ngành và địa phương trong việc quản lý khu vực kinh tế tư nhân, cụ thể là
chưa có một cơ quan nào được giao trách nhiệm chính trong việc quản lý
khu vực kinh tế tư nhân.
Quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa chặt chẽ và
không rõ ràng, vì vậy những sơ hở trong quảm lý, cấp phép sản xuất kinh
doanh không được kịp thời rút kinh ngiệm, bổ sung, sửa đổi. Sau khi cấp
phép kinh doanh thì việc quản lý bị bng lỏng, khơng có cơ quan nhà
nước cụ thể chịu trách nhiệm kiểm tra và hướng dẫn hoạt động của doanh
nghiệp một cách chặt chẽ và thường xuyên. Những quan hệ mới về lao
13


động giữa chủ doanh nghiệp và người làm thuê phát sinh trong thực tế
nhưng văn bản pháp luật ( quy định về chế độ bảo hiểm, kí kết hợp đồng
lao động, chế độ tiền lương, v.v) không được ban hành kịp thời và nhất là
thiếu sự kiểm tra giám sát của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền
lợi chính đáng của người lao động cũng như giới chủ doanh nghiệp.
Cho đến nay, việc xác định cụ thể những tiêu chí để đánh giá, phân loại
kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân cũng chưa rõ ràng, thống nhất; trong
thực tế việc nhìn nhận, đánh giá các loại hình kinh tế này cịn tuỳ tiện, chủ
quan. Có lẽ vì thế mà nhiều chính sách,giải pháp quản lý kinh tế vĩ mô tỏ ra
chưa thực sư sát hợp đối với khu vực kinh tế tư nhân, do đó hạn chế sự phát
triển của khu vực này.
Ba là, cho đến trước khi Luật doanh nghiệp ban hành và có hiệu lực từ

tháng 1 năm 2000 thì thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp còn nhiều
phức tạp, phiền hà nên đã khơng khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp
và huy động vốn trong nhân dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nạn quan
liêu giấy tờ với nhiều thủ tục hành chính phức tạp, chưa thực sự tạo điều
kiện thuận lợi cho dân, v.v. đã làm nản lòng những người muốn lập nghiệp.
Bốn là, cơ chế thương mại, thể chế tài chính tín dụng, chính sách thuế xà
các tổ chức hỗ trợ thị trường, v.v. cho khu vực kinh tế tư nhân còn thiếu và
yếu kém.
Các doanh nghiệp tư bản tư nhân chưa được tiếp cận đầy đủ các nguồn
nhập khẩu và mạnh lưới xuất khẩu, thủ tục hải quan cịn nhiều khó khăn,
phiền hà.
Về tài chính, tín dụng: khả năng tiếp cận các nguồn vốn đầu tư trung và
dài hạn hiện nay của các doanh nghiệp tư bản tư nhân vẫn cịn khó khăn
bởi các thủ tục về thế chấp vẫn chưa được giải quyết; thể chế tín dụng ngân
hàng chưa làm được vai trò hỗ trợ, giúp đỡ tích cực và có hiệu quả cho khu
vực kinh tế tư nhân phát triển.

14


Về thuế: có quá nhiều loại thuế và mức thuế. Chẳng hạn doanh nghiệp tư
nhân phải nộp 3 loại thuế: thuế doanh thu, thuế tiệu thụ đặc biệt và thuế lợi
tức.Với mỗi loại thuế, thuế suất lại khác nhau cho từng loại hình kinh
doanh và nhóm mặt hàng: thuế suất doanh thu giao động từ 0 - 40%, thuế
suất lợi tức từ 25 - 45%. Chính vì có nhiều loại thuế và nhiều mức thuế suất
khác nhau đã tạo ra sự tuỳ tiện trong việc định mức thuế, gây phức tạp cho
doanh nghiệp. Ngồi ra cịn thiếu các tổ chức hỗ trợ thị trường, hoặc có thì
cũng cịn rất yếu. Cụ thể là: tồ án, các cơ quan thơng tin đại chúng, các
dịch vụ kế toán,các tổ chức xúc tiến thương mại, các trường đại học, các cơ
sở đào tạo, các hiệp hội ngành nghề, các kênh thông tin từ bên ngoài và các

dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân cịn thiếu và rất yếu,
chưa đóng vai trò hỗ trợ giúp đỡ khu vực kinh tế tư nhân tồn tại và phát
triển trong cơ chế thị trường.
3.2 Nguyên nhân từ bản thân doanh nghiệp
-

- Chưa tạo lập được danh tiếng cho doanh nghiệpvà sản phẩm của mình.
Thực ra, những định kiến của một bộ phận cộng đồng lại do chính một số
doanh nghiệp tư nhân gây nên vì đã tung ra thị trường sản phẩm kém chất
lượng hoặc chất lượng không ổn định, làm ăn kiểu chụp giựt, “đánh quả”,
chạy theo lợi ích trước mắt, vì vậy đã tạo ra tâm lý không lâu bền đối với
khách hàng và bạn hàng trong kinh doanh. Rất ít doanh nghiệp xây dựng
chiến lược thương hiệu hoặc xây dựng chích sách tạo lập và phát triển
thương hiệu.

-

- Trình độ quản lý, kinh doanh cịn hạn chế do khơng được đào tạo cơ
bản, chủ yếu vừa làm vừa học. Theo thông tin của Hiệp hội doanh nghiệp
vừa và nhỏ Hà Nội, khoảng một nửa số chủ doanh nghiệp (trong số 12.000
doanh nghiệp) chưa qua đào tạo chính thức.Trong điều kiện như vậy, nhiều
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chỉ có thể kinh doanh nhỏ,
khơng thể mở rộng phạm vi hoạt động hoặc khó thiết lập quan hệ với các
đối tác làm ăn bài bản.
15


-

- Chưa có quan hệ liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp khu vực tư

nhân với nhau và với các doanh nghiệp khác, do đó hạn chế sức mạnh của
khu vực này.

-

III. Giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân

-

1.1. Giải pháp ở tầm vĩ mô

-

1.1.1. Hỗ trợ tài chính

-

Thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam vừa được khôi phục lại với thời
gian không nhiều trong một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Do vậy,
vốn cho các hộ, các doanh nghiệp tư nhân tất yếu phải được quan tâm hỗ
trợ bằng nhiều hướng và nhiều cách: hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước
(kể cả miễn giảm thuế), hỗ trợ thông qua các dự án trong và ngồi nước, hỗ
trợ thơng qua các quỹ và hệ thống ngân hàng. Bộ Tài chính cùng Ngân
hàng Nhà nước cần phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, Hội Nông dân Việt Nam và các tổ chức hiệp hội khác để xây dựng
những chương trình mục tiêu cụ thể theo hướng xác định để trình Chính
phủ phê duyệt. Do đó cần phải có những định hướng cơ bản cho từng
phương thức hỗ trợ tài chính như sau:

-


- Hỗ trợ trực tiếp qua ngân sách nhà nước:

-

Nhà nước phải tạo được tâm lý yên tâm và niềm tin của chủ đầu tư dám
chuyển hết số tiền có thể có vào vốn đầu tư. Trong trường hợp cần thiết và
những hồn cảnh cụ thể, Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước có thể
tham gia đầu tư thông qua mua trái phiếu hoặc đầu tư liên doanh với các
chủ doanh nghiệp tư nhân. Với các doanh nghiệp thuộc dạng nghiên cứu và
triển khai cần có sự hỗ trợ của chính phủ về chi phí cho các cơng trình, sản
phẩm nghiên cứu hoặc các chuyến đi tìm hiểu thị trường nước ngoài được
tổ chức hàng năm (như các chương trình do các tổ chức có uy tín của Nhật
Bản, của các nước ASEAN về việc phát triển các doanh nghiệp ASEAN tổ
chức) để tìm hiểu cơng nghệ mới, tìm đối tác liên doanh hay tham gia vào

16


các chương trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo khoa học trong lĩnh vực
kinh doanh.
-

Ngồi ra, Chính phủ có thể hỗ trợ một phần vốn điều lệ qua các ngân
hàng thương mại thẩm định và cấp vốn hoặc cho vay dài hạn với lãi suất ưu
đãi. Đồng thời tranh thủ các dự án của các tổ chức phi chính phủ hoặc các
chính phủ cho các doanh nghiệp của phụ nữ, của vùng sâu, vùng xa.

-


- Về vốn vay ngân hàng:
Cần giúp khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận tốt hơn với ngân hàng qua
“Chương trình hỗ trợ vốn với khu vực kinh tế tư nhân” giúp họ hiểu rõ hơn
về các dịch vụ của các ngân hàng trên cả nước. Đồng thời cần giúp các
doanh nghiệp hiểu rõ hơn về chế độ cho vay và ưu đãi vay, giúp cho các
chủ doanh nghiệp tiết kiệm chi phí tìm kiếm thơng tin và nhanh chóng tìm
ra những ngân hàng phù hợp với mình. Ngân hàng nhà nước nên có một
Website mang tính thống kê cho chương trình này. Mặt khác, Ngân hàng
Nhà nước cũng cần phối hợp với các tỉnh, thành phố để xác định chính xác
hơn danh mục mặt hàng được vay ưu đãi, tránh tình trạng có tỉnh không
được cho vay ưu đãi ngay với mặt hàng chủ lực của tỉnh.

-

Cải tiến về các điều kiện thế chấp tài sản: Nhà nước cần điều chỉnh lại
giá nhà, đất cho phù hợp với thực tế. Trong khi chưa có điều chỉnh này, các
ngân hàng cần phải linh hoạt trong việc định giá đối với tài sản thế chấp để
số tiền cho vay gần bằng giá trị tài sản thế chấp. Mặt khác, Ngân hàng Nhà
nước cần phối hợp với các địa phương để triển khai tốt Quỹ bảo lãnh tín
dụng.

-

Bên cạnh đó cần gia tăng các hoạt động tư vấn và các hoạt động đan xen
giữa ngân hàng với các cơng ty được cho vay vốn để có thể kiểm sốt tình
hình sử dụng vốn, đồng thời tăng niềm tin giữa doanh nghiệp với ngân
hàng.

17



-

Về lâu dài, cần nghiên cứu vận dụng kinh nghiệm của các nước phát
triển trong việc thành lập các quỹ, các tổ chức ngân hàng chuyên phục vụ
doanh nghiệp vừa và nhỏ.

-

1.1.2. Bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp và quản lý trong khu
vực kinh tế tư nhân của Việt Nam

-

Cần phải có những chưong trình, dự án khác nhau như Chương trình đào
tạo nghề, Chương trình tư vấn phát triển, Chương trình đào tạo quốc gia.
Nguồn tài trợ cho hoạt động này thu từ các doanh nghiệp: chủ doanh
nghiệp phải nộp từ 1-3% thu nhập của công nhân nhưng khơng cao hơn
một mức cố định nào đó.

-

Chương trình hỗ trợ đào tạo nghề tạo điều kiện cho công nhân nâng cao
tay nghề hay học hỏi những nghề mới để họ có thể tìm được việc làm ổn
định. Có nhiều mức tài trợ, có thể dao động từ 90%, 70%, 50%, 30% tồn
bộ các chi phí đào tạo hàng năm.

-

Chương trình tư vấn phát triển khu vực kinh tế tư nhân nhằm khuyến

khích và hỗ trợ các cơng ty trong nước thuê ngắn hạn các chuyên gia nước
ngoài để nâng cao nghiệp vụ trong các hoạt động kinh doanh, tổ chức các
khố huấn luyện cơng nhân, nâng cao tay nghề và chuyển giao cơng nghệ
tiên tiến.

-

Nghiên cứu chương trình đào tạo quốc gia. Nhiều doanh nghiệp mong
muốn được chính phủ tỏ chức huấn luyện và đào tạo sâu hơn về chuyên
môn. Việt Nam hiện nay, đào tạo sau đại học có thể đáp ứng được phần nào
nhu cầu đó.

-

1.1.3. Cải thiện môi trường tâm lý xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân

-

Môi trường tâm lý thuộc về hai yếu tố: xã hội và bản thân cơ sở kinh
doanh. Về phía xã hội, cần phải giải toả nhận thức về thành phần kinh tế và
giai cấp, về trách nhiệm của mỗi người trong phát triển kinh tế tư nhân. Có
thế thì niềm tin của doanh nghiệp sẽ được nâng cao và đầu tư phát triển
cũng như hiệu quả của nó với xã hội sẽ có những thay đổi đột biến.
18


Về phía doanh nhân và cơ sở sản xuất cũng cần phát huy nội lực của
mình. Song trong phạm vi vấn đề tâm lý cũng cần thấy rõ:chính bản thân
doanh nghiệp và doanh nhân mới là trung tâm giải quyết vấn đề tâm lý xã
hội đối với doanh nghiệp tư nhân nói chung và tâm lý của người lao động

đối với doanh nhân và doanh nghiệp nói riêng.
1.1.4. Hỗ trợ phát triển
-

- Chính sách hỗ trợ khoa học kĩ thuật - cơng nghệ cần có chương trình
riêng. Chương trình này giúp doanh nghiệp thanh tốn phần chi phí ngắn
hạn đã kí kết với chun gia nước ngồi.

-

- Thành lập thị trường tư vấn cho khu vực kinh tế tư nhân thông qua
thành lập và phát triển các công ty kiểm toán. Tuy nhiên chất lượng tư vấn
cần được nâng cao qua việc kết hợp các cơng ty kiểm tốn trong nước với
các cơng ty kiểm tốn quốc tế.

-

- Bên cạnh đó, các thơng tin kinh tế cơng cộng được phát hành trực tiếp
trên các phương tiện thông tin đại chúng do không nhằm vào những đối
tượng cụ thể nên khẳ năng và hiệu quả khai thác loại thông tin thường
không cao. Vì vậy, việc thành lập một cơ quan chuyên trách về khu vực
kinh tế tư nhân có thể giải quyết vấn đề này thông qua việc đưa ra, lọc lại
các thơng tin một cách có chủ đích cho đối tượng duy nhất là kinh tế tư
nhân.

-

- Về đào tạo mặt bằng cho sản xuất - kinh doanh.

-


Cần đẩy nhanh quá tình cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, đơn giản hoá
các thủ tục cấp đất cho doanh nghiệp, giảm thiểu ảnh hưởng để lỡ cơ hội
kinh doanh. Bên cạnh đó cần phải có những cải cách hợp lý trong việc cho
thuê đất ở các khu công nghiệp mới.

-

1.1.5. Cải cách hành chính, một bước đột phá cho phát triển kinh tế tư
nhân nói riêng ,cũng như nền kinh tế nói chung
ở nước ta nên “hành chính quản lý” với thái độ cửa quyền, cố níu giữ
quan hệ “xin

-cho” như thời bao cấp vẫn còn tồn tại. Do vậy, nhất thiết
19


phải từng bước chuyển đổi hành chính trên cả ba bộ phận: thể chế kinh tế,
bộ máy hành chính và đội ngũ cán bộ, mà quan trọng nhất là thể chế kinh
tế.
Về thể chế quản lý: cần khắc phục cái mà doanh nghiệp nhà nước thường
nói là “5 khơng”: khơng minh bạch, không đồng bộ, không nhất quán,
không sát thực tế, không thông suốt.
Về giải pháp chấn chỉnh thể chế cho sát với thực tế thì có thể tham khảo
kinh nghiệm của Nhật Bản: nhà nuớc làm việc trực tiếp với doanh nghiệp
song không éo buộc chỉ định hướng, giúp đỡ qua đào tạo, hướng dẫn thị
trường và nếu cần cho tiếp cận bộ phận chuyên trách về doanh nghiệp do
chính phủ tổ chức. Từ đó, chính phủ hiểu rõ hơn về doanh nghiệp tư nhân
trong quá trình hoạt động để đề ra chính sách hợp lý.
Về bộ máy quản lý: cần tiến hành rà sốt liên tục định kì hàng năm để

sửa đổi.
Về cán bộ, công chức: kết quả diều tra cho thấy có trên 30% cán bộ,
cơng chức khơng hồn thành nhiệm vụ được giao; 30% người cịn nợ tiêu
chuẩn quy định pháp luật của nhà nước với cán bộ công chức; 60% chuyên
viên nợ bằng đại học, ảnh hưởng trục tiếp đến việc quản lý kinh tế đất
nước, tạo sự trì trệ, góp phần tham nhũng. Vì vậy, cần bổ sung và từng
bước tiêu chuẩn hoá cán bộ, công chức theo luật định.
1.1.6. Thành lập cơ quan chuyên trách quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong cơ quan nhà nước
Cần phải có một cơ quan chuyên trách đủ mạnh về lĩnh vực này, tức là
phải có đủ quyền hạn từ hoạch định chính sách đến hỗ trợ vốn cho doanh
nghiệp. Cơ quan đó cần nằm trong cơ quan có quyền lực cao nhất là Quốc
hội, như vậy sẽ gíup cho khu vực này có một tiếng nói riêng có trọng lượng
hơn khơng chỉ trong kinh tế, mà cịn đối với mơi trường xã hội.
2.2, Tăng cường năng lực nội tại của khu vực kinh tế tư nhân
- Trong lĩnh vực tài chính kế tốn
20


-

Ngoài nguồn vốn truyền thống cần chú trọng đến các quỹ đầu tư mạo
hiểm, đến công ty cho thuê tài chính, thị trường chứng khốn để huy động
và sử dụng tối đa mọi nguồn vốn. Bên cạnh đó có thể phấn đấu đủ điều
kiện phát hành trái phiếu, cổ phiếu, liên kết với hộ kinh doanh cá thể hoặc
đưa hộ kinh doanh cá thể trở thành thành viên chính thức của doanh nghiệp
trong lưu thông.

-


Các giám đốc doanh nghiệp tư nhân và chủ hộ kinh doanh cá thể cần
nắm trực tiếp vế tài chính, thực hiện chức năng giám đốc bằng đồng tiền
đối với hoạt động của đơn vị.

-

Trong kế toán, cần tranh thủ sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng và các
hiệp hội, các công ty tư vấn trong tổ chức hệ thơng kế tốn, đặc biệt chú ý
xây dựng bảng cân đối tin cậy để có cơ sở vay vốn ngân hàng, phải có kế
hoạch lưu chuyển tiền mặt, luôn đảm bảo một lượng tiền mặt nhất định
trong kinh doanh để phịng ngừa những tình huống xấu có thể xảy ra.

-

- Trong lĩnh vực sản xuất: cần nắm vững quy luật cung cầu để có thể đưa
ra một kế hoạch sản xuất hợp lý nhất. Đặc biệt phải chú ý tín hiệu giá cả nét đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường - để thơng qua đó nắm bắt thị
trường. Để tăng sức cạnh tranh, cần phải hạ thấp giá thành chi phí sản xuất
cá biệt, do đó nâng cao thiết bị máy móc là điều hết sức quan trọng. Tiến
hành học hỏi hệ thống quản lý của các công ty thế giới.

-

- Trong lĩnh vực marketing cấn có những giải pháp đồng bộ:

-

+ Cần đặc biệt chú trọng thương hiệu, nhãn mác hàng hố.

-


+ Phát huy hình thức quảng cáo mới có hiệu quả mới du nhập Việt Nam
với chi phí khơng cao như gửi thư điện tử.

-

+ Nâng cao vai trò tin học trong tìm kiếm thị trường, từng bước tiếp cận
thương mại điện tử.

-

+ Các doanh nghiệp tư nhân nên có chính sách về thị trường tương hỗ,
chun hố với ý nghĩa phải chú ý cả thị trường trong nước và nước ngoài.

21


Đặc biệt có kế hoạch ln chuyển hàng hố từ thị trường trong nước ra
ngoài nước khi thị trường trong nước gặp khó khăn và ngược lại.
-

+ Để làm tốt thương mại quốc tế, các doanh nghiệp vẫn phải có thêm
động tác tiếp xúc trực tiếp với các cơ quan tư vấn kinh doanh của chính phủ
về phát triển thị trường ngoài nước.

-

+ Phải phát triển và hoàn thiện dịch vụ hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm qua bộ
phận tư vấn khách hàng hoặc bộ phận chăm sóc khách hàng hay dịch vụ
sau bán hàng một cách tốt hơn.


-

+ Về quản trị nhân sự: phải được coi là nhiệm vụ trung tâm, thường
xuyên, cần phải có

kế hoạch hợp lý từ khâu phân tích đến

tuyển dụng, bồi dưỡng và sử dụng, cần nâng cao khẳ năng sử dụng công cụ
tin học trong quản lý nhân sự.

22


PHẦN KẾT LUẬN
Đã có một thời kì, kinh tế tư nhân bị coi là “kẻ thù” của chủ nghĩa xã
hội. Những người hoạt động trong thành phần kinh tế này có địa vị chính
trị thấp kém. Sản xuất kinh doanh của họ bị trói buộc, kìm hãm và bị kinh
tế quốc doanh, kinh tế tập thể chèn ép. Nhưng ngay trong điều kiện đó,
kinh tế tư nhân, cá thể vẫn tồn tại và khẳng định chỗ đứng của mình. Điều
đó góp phần thể hiện tính ưu việt và sức sống mạnh mẽ của kinh tế tư nhân
mà ngày nay còn được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết qua những gì trình
bày trong đề án. Cố nhiên đề án này sẽ khơng thực sự hồn chỉnh, sẽ khơng
thực sự chi tiết bởi vì vấn đề về kinh tế tư nhân là một vấn đề phong phú,
phức tạp, bản thân nó lại ln biến động để phù hợp và thích ứng với thị
truờng cũng đang biến động từng ngày, từng giờ. Tuy nhiên qua những vấn
đề trình bày, chúng ta cũng thấy được vai trò, tầm quan trọng của thành
phần kinh tế tư nhân cũng như những hạn chế nguyên nhân để tìm cách
khắc phục, làm cho thành phần kinh tế này được phát triển hơn nữa.

23



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..............................................................................................1
NỘI DUNG ..........................................................................................................................2

I. Những vấn đề lý luận và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta .....................................2
1. Những vấn đề lý luận ................................................................................2
1.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân ................................................................2
1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân nước ta hiện nay ...................................3
2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta .............................................................................................5
II. Thực trạng kinh tế tư nhân ở nước ta từ đổi mới đến nay................... 6
1. Những thành tựu....................................................................................... 6
1.1. Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia
vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc
làm................................................................................................................ 6
1.2. Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý
theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế ........................ 7
1.3. Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam...............7
1.4. Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển, thực hiện công bằng xã hội ..........................................8
2. Những hạn chế ..........................................................................................9
3. Một số nguyên nhân chủ yếu ...................................................................12
3.1. Nguyên nhân từ phía cơ chế, chính sách của Nhà nước .......................12
3.2. Nguyên nhân từ bản thân doanh nghiệp ..............................................14
III. Giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân................................................15
KẾT LUẬN ........................................................................................................................21


24



×